CHI DUNG NGUYENMinister of Planning and
Investment of Vietnam
CHI DUNG NGUYENMinister of Planning and Investment of Vietnam
Dr. Chi Dung Nguyen is a Vietnamese politician. He is currently the Minister of Planning and Investment of Vietnam, and is a member of VietnamNational Assembly, XIV term of 2016-2021. He was elected representative of the 14th National Assembly of Vietnam for the province of QuangTri, including Dong Ha, Quang Tri and Trieu Phong, Hai Lang. In the Communist Party of Vietnam, he is currently a member of the CentralCommittee of the Communist Party of Vietnam (XII), former Secretary of Ninh Thuan Provincial Party Committee.
TĂNG TRƯỞNG THỊNH VƯỢNG, BỀN VỮNG MÔI TRƯỜNG
VÀ HÒA NHẬP XÃ HỘI
(Bài phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng tại Hội thảo Nhìn lại mô hình
tăng trưởng thịnh vượng, bền vững môi trường và hòa nhập xã hội)
Tăng trưởng thịnh vượng đi đôi với bền vững về môi trường, công bằng và
hòa nhập xã hội là những trụ cột chính của các quốc gia, trong đó có Việt Nam
nhằm xây dựng một nước phát triển, hiện đại. Trong Hiến pháp năm 2013 đã xác
định các mục tiêu to lớn và đầy khát vọng trong tương lai của Việt Nam, đó là
“dân giàu, nước mạnh”, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ
cũng đặt ra mục tiêu sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Qua 30 năm “Đổi Mới” đã làm thay đổi hẳn diện mạo kinh tế Việt Nam,
tốc độ tăng trưởng cao, đời sống người dân được cải thiện, Việt Nam đã trở thành
nước có mức thu nhập trung bình. Đặc biệt, kinh tế Việt Nam năm 2017 đã đạt
được những thành tựu ấn tượng, là cơ sở để tăng trưởng thịnh vượng, bền vững
cho những năm tiếp theo. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2017 đạt 6,81%, cao nhất
trong vòng 10 năm qua, là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao
nhất trong khu vực và trên thế giới. Chất lượng tăng trưởng đã từng bước được
cải thiện. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2017 tăng khoảng 6%.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tích cực, đã giảm dần dựa vào khai
thác tài nguyên, nhất là dầu thô và chuyển hướng sang lấy công nghiệp chế biến,
chế tạo và dịch vụ làm nòng cốt. Tăng trưởng đều ở các khu vực của nền kinh tế
và đạt được những thành tựu khác về giảm nghèo, an sinh xã hội, bảo vệ môi
trường. Năm 2017 cũng đã ghi nhận những thành công của Việt Nam trong thực
hiện tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường đầu
tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Môi trường kinh
doanh của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, niềm tin của người dân,
doanh nghiệp được củng cố. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt kỷ lục, với
gần 127 nghìn doanh nghiệp, vốn đầu tư nước ngoài thu hút được gần 36 tỷ USD,
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam 425 tỷ USD. Môi trường kinh doanh của
Việt Nam được Ngân hàng Thế giới đánh giá tăng 14 bậc, đứng thứ 68/190 nền
kinh tế; năng lực cạnh tranh quốc gia theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tăng
5 bậc, đứng thứ 55/137 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Mặc dù vậy, kinh tế Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thách thức. GDP bình
quân đầu người còn thấp, năng suất lao động chưa cao, đóng góp của TFP chưa
được như kỳ vọng; nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu về kinh tế vẫn
nghiêm trọng. Bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng
gia tăng. Các vấn đề môi trường và tác động của biến đổi khí hậu; cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4, hội nhập quốc tế đặt ra nhiều thách thức.
Để thực hiện tăng trưởng thịnh vượng đi đôi với bền vững môi trường trên
nền tảng cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam đã và đang thực hiện các biện
pháp trọng tâm sau:
2
- Thứ nhất, tiếp tục tập trung tạo dựng thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách
và môi trường, điều kiện thuận lợi, an toàn để kinh tế thị trường vận hành đầy đủ,
thông suốt, hiệu quả và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự do
sáng tạo của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Điều hành hiệu quả chính
sách tiền tệ, chính sách tài khoá và các chính sách khác để bảo đảm ổn định kinh
tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế.
Tập trung xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển theo cơ chế thị trường.
Chấm dứt việc xây dựng các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ,
sản phẩm cụ thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm được
sản xuất, tiêu dùng, làm hạn chế sự tham gia thị trường các thành phần kinh tế.
- Thứ hai, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, đẩy mạnh tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân, thu hút chọn
lọc đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi, hấp dẫn để thu hút nguồn
lực từ xã hội, dân cư và đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn lực nhà nước mang
tính dẫn dắt, định hướng.
Doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, cạnh
tranh bình đẳng. Áp dụng thực tiễn quản trị tốt của quốc tế đối với doanh nghiệp
nhà nước. Đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành, cổ phần hoá và bán hết phần
vốn nhà nước trong các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ theo cơ
chế thị trường.
Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế. Thể chế hoá đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự
do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và sở hữu trí tuệ. Xoá bỏ các rào cản, chính
sách, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất kinh
doanh tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực xã hội, trọng tâm là vốn, đất
đai, khoáng sản, cơ hội kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của kinh
tế tư nhân. Thúc đẩy, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Tự do hóa thị
trường nhân tố sản xuất, nhất là đất đai, lao động và công nghệ. Nâng cao năng
lực doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy liên kết với doanh nghiệp FDI
Chuẩn bị tốt các điều kiện để thu hút, nâng cao hiệu quả FDI, phục vụ tái
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Có chính sách ưu tiên thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài đối với các dự án đầu tư có công nghệ cao, các công ty đa quốc
gia lớn, gắn với yêu cầu chuyển giao và lan toả rộng rãi công nghệ tiên tiến và
quản trị hiện đại, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị với các doanh nghiệp của tư
nhân trong nước, nhất là trong phát triển ngành chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ
trợ, nông nghiệp công nghệ cao. Khuyến khích liên kết và chuyển giao công nghệ
cho doanh nghiệp trong nước.
3
- Thứ ba, phát triển năng lực đổi mới, sáng tạo
Đổi mới hệ thống sáng tạo quốc gia, lấy doanh nghiệp và các định chế
Nghiên cứu và Phát triển (R &D) làm trung tâm, phát huy năng lực sáng tạo của
mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức. Thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, k ết nối doanh
nghiệp, ý tưởng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư.
Đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, phát triển thị trường công nghệ. Ứng dụng các
thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0; thúc đẩy sản xuất thông minh (tập
trung trong nông nghiệp, du lịch, công nghệ thông tin) và xây dựng đô thị thông
minh. Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nhân lực, cải tổ hệ
thống giáo dục đại học và đào tạo nghề.
- Thứ tư, phát huy các cực tăng trưởng, nâng cao hiệu quả kinh tế vùng và
đô thị
Phát triển các cực tăng trưởng mới với việc xây dựng 3 đặc khu hành chính
- kinh tế với thể chế vượt trội, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Phát huy các cơ
chế đặc thù ở TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, làm đầu tàu và tạo sự lan tỏa cho cải
cách và phát triển.
Xây dựng các quy hoạch vùng theo hướng tích hợp, đa ngành, phù hợp với
kinh tế thị trường; lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng. Nâng cao chất
lượng lập và quản lý quy hoạch, nhất là quy hoạch kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội,
quy hoạch đô thị và quy hoạch sử dụng tài nguyên, bảo đảm công khai, minh bạch.
Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng để phát huy
tối đa tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương; tạo không gian phát triển
thống nhất trong vùng và cả nước; khắc phục tình trạng phát triển trùng dẫm,
manh mún, kém hiệu quả.
Tận dụng đô thị hóa để đẩy mạnh hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Định
hình lại chính sách và đầu tư để phát huy mật độ kinh tế xung quanh các vùng đô
thị lớn và các đô thị thứ cấp có tiềm năng; giảm phân biệt xã hội về tiếp cận dịch
vụ giữa người nhập cư và cư dân đô thị.
Thứ 5, bảo đảm công bằng và hòa nhập xã hội
Thay đổi vai trò của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ công. Thực hiện cơ
chế thị trường và đẩy mạnh xã hội hoá đối với cung cấp các dịch vụ công. Chuyển
từ cơ chế cấp phát sang đặt hàng và từ cấp kinh phí cho các đơn vị cung ứng sang
hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng.
Đổi mới chính sách xã hội phù hợp với thay đổi cấu trúc dân số khi tỷ lệ
người nghèo còn rất thấp, tầng lớp trung lưu tăng nhanh và già hóa dân số. Đảm
bảo bình đẳng về cơ hội phát triển cho tất cả mọi người, đặc biệt là nhóm người
yếu thế. Thúc đẩy phát triển và đáp ứng nhu cầu của tầng lớp trung lưu vì sự thịnh
vượng chung.
Thứ 6, phát triển bền vững về môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu
4
Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu.
Tăng cường khả năng chống chịu; huy động nguồn lực đầu tư các công trình, dự
án ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai; phòng, chống ngập úng
đô thị.
Đảm bảo bền vững môi trường bao gồm bảo vệ chất lượng nguồn tài nguyên
thiên nhiên (không khí, đất và nước); lồng ghép khả năng chống chịu trước tác
động khí hậu vào kế hoạch kinh tế, chính sách ngành và đầu tư hạ tầng; quan tâm
đến các nguồn năng lượng sạch. Hướng đến đầu tư “thông minh” (với sự tham gia
của khu vực tư nhân) nhằm tính đầy đủ các phí tổn về khí hậu và môi trường.
Diễn đàn hôm nay tập trung vào 4 nội dung gồm: (i) Tăng trưởng kinh tế
bền vững và hòa nhập xã hội: Các thách thức, mô hình và lộ trình; (ii) các sáng
kiến về đầu tư và tài chính cho phát triển bền vững; (iii) Các xu hướng gần đây về
đổi mới và công nghệ để ứng phó với biến đổi khí hậu; và (iv) Chiến lược phát
triển đặc khu kinh tế và hành chính bền vững. Những nội dung này đã cụ thể hóa
các trụ cột trên của mô hình tăng trưởng thịnh vượng, bền vững môi trường và
hòa nhập xã hội. Các kết quả, kiến nghị của Diễn đàn sẽ tiếp tục đóng góp vào
việc hoạch định chính sách của Việt Nam trong thời gian tới, nhất là chuẩn bị cho
việc xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030/.
Top Related