LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2017/6/4/Luan an tien si_LTC.pdf ·...
Transcript of LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2017/6/4/Luan an tien si_LTC.pdf ·...
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ù&ú
LÊ THỊ CHIÊN
NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ CHIÊN
NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 03 02
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS,TS NGUYỄN HÙNG HẬU
2. PGS,TS ĐẶNG QUANG ĐỊNH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án của tôi là một công trình nghiên
cứu nghiêm túc, khoa học. Các thông tin và số liệu trích dẫn đều có
nguồn gốc rõ ràng, tin cậy. Những đánh giá, kết luận được đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không trùng lặp,
sao chép ở bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đó.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước những lời cam đoan của
mình!
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Thị Chiên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận về nhân tố
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại 6
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng của nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 16
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến quan điểm, giải pháp nhằm phát triển
nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt
Nam hiện nay 22
1.4. Giá trị của những công trình nghiên cứu đã tổng quan và những vấn đề
đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm 28
Chương 2: NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN ĐẠI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 32
2.1. Lực lượng sản xuất và lực lượng sản xuất hiện đại 32
2.2. Vai trò và những yêu cầu cơ bản của người lao động trong lực lượng
sản xuất hiện đại 55
2.3. Những yếu tố chủ yếu tác động đến người lao động trong quá trình xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 66
Chương 3: NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN
CHỦ YẾU 76
3.1. Thực trạng của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện
đại ở Việt Nam hiện nay 76
3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực và hạn chế ở
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 96
Chương 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT
TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM 114
4.1. Những quan điểm cơ bản để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng
yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam 114
4.2. Những giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng
yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam 120
KẾT LUẬN 137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 142
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
STT TÊN BẢNG TRANG
Bảng 1 Thời gian đưa các phát minh khoa học vào ứng dụng 44
Bảng 2 So sánh sự khác nhau giữa kinh tế công nghiệp và kinh
tế tri thức
61
Bảng 3 So sánh các tiêu chí chất lượng cơ bản nguồn nhân lực
của Việt Nam so với một số nước (tính theo thang
điểm 10)
89
Bảng 4 Cơ cấu người thất nghiệp chia theo các bậc học cao
nhất đã đạt được năm 2014
104
Bảng 5 Cơ cấu lao động phân chia theo loại hình kinh tế thời
kỳ 2009 - 2014 (đơn vị tính: %)
109
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người
chính là sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
trong lịch sử được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản
xuất là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt của quá trình sản xuất vật chất là lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan
hệ biện chứng với nhau, tạo ra sự vận động và biến đổi của phương thức sản xuất. Mọi
sự biến đổi của phương thức sản xuất và sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội
xét đến cùng đều bắt nguồn từ sự thay đổi của lực lượng sản xuất, cho nên lực lượng
sản xuất là yếu tố quyết định mọi sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội.
Lực lượng sản xuất được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó người lao động là
yếu tố quyết định. Mặc dù ngày nay, khoa học - công nghệ đã có bước phát triển mạnh
mẽ, khoa học đã từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nhưng có thể khẳng
định,người lao động vẫn là yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện
đại.
Kế thừa quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng nhấn mạnh trước hết đến sự phát triển lực
lượng sản xuất để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đưa ra quan điểm: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất" [29, tr.30-31]; nhất là "phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [31, tr.27]
Trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, Đảng ta đặc biệt ưu tiên phát triển
nhân tố người lao động, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đây được coi là một trong ba khâu đột phá chiến lược, góp phần phá vỡ những
“điểm nghẽn” đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta nói riêng và
phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đại hội XI khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu
tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [29, tr.41]. Quan điểm này tiếp
tục được Đại hội XII nhấn mạnh thêm: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách,
2
giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội” [31, tr.295-296].
Trong những năm qua, mặc dù đội ngũ người lao động tham gia vào quá trình
sản xuất vật chất ở nước ta ngày càng tăng lên về số lượng; được cải thiện về thể lực;
nâng cao về trình độ, tay nghề, có đóng góp lo lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, người lao động ở
nước ta còn nhiều bất cập. Nhìn chung, sức khỏe, thể lực còn kém; trình độ, tay nghề
còn thấp; ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái chưa cao, tính tích cực trong lao động sản xuất chưa được phát huy
một cách tối đa… Những hạn chế đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam, làm cho “nền kinh tế chủ yếu vẫn phát
triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn,
tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức và khoa học công nghệ, thiếu
nhiều lao động có kỹ năng” [31, tr.84], năng suất lao động thấp, tốc độ phát triển kinh
tế chưa cao, đời sống nhân dân chậm được cải thiện. Ngoài ra, những hạn chế đó còn
tạo ra những rào cản đáng kể khi người lao động nước ta tham gia vào thị trường lao
động thế giới cũng như các nước trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Do vậy, để
hiện đại hóa nền sản xuất xã hội, một trong những vấn đề cốt lõi nhất, cần được ưu
tiên hàng đầu là phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại,
tạo ra bước đột phá để thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chọn vấn đề “Nhân tố người lao động trong phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong
luận án tiến sĩ triết học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng nhân tố người lao động trong lực lượng sản
xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản
để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở
Việt Nam trong những năm tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
Để đạt được được mục tiêu trên, luận án thực hiện được những nhiệm vụ cụ thể
sau:
Một là, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến lực lượng sản
xuất hiện đại, nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại;
Hai là, làm rõ khái niệm, biểu hiện của lực lượng sản xuất hiện đại; vai trò và
yêu cầu của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại;
Ba là, phân tích thực trạng của nhân tố người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay trên cả hai phương diện là ưu điểm và hạn chế;
đồng thời chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng đó;
Bốn là, đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố
người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân tố người lao động với tư cách là yếu
tố cấu thành của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi đối tượng nghiên cứu: Trong nền sản xuất hiện đại, không chỉ có
người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất mà cả những người quản lý
sản xuất, những kĩ sư, những nhà khoa học - công nghệ cũng chính là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất. Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn trong phạm vi khảo sát, phân
tích thực trạng người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất
kinh doanh vì lực lượng lao động này chiếm tỷ lệ lớn và cũng phản ánh nét đặc trưng
cơ bản về trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu: nhân tố người lao động ở Việt
Nam từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về lực lượng sản
xuất, về vai trò của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất. Luận
án cũng dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; chính
4
sách, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc phát triển nhân
tốcon người nói chung và phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất
hiện đại. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa giá trị của những công trình nghiên cứu trước
đó những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, như phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, phương pháp lôgíc - lịch sử... Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... để triển khai các nội dung của luận án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học của luận án
- Luận án góp phần nghiên cứu sâu thêm, làm phong phú thêm một số vấn đề lý
luận về lực lượng sản xuất. Đặc biệt, luận án làm rõ thêm vai trò của nhân tố người lao
động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo
cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác - Lênin nói riêng và các ngành
khoa học xã hội khác nói chung.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm thực trạng của nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay; đặc biệt là góp phần làm rõ hơn những
ưu điểm và hạn chế của người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ
sở sản xuất kinh doanh ở nước ta trong thời gian qua.
- Luận án cũng có giá trị tham khảo trong việc hoạch định chính sách về phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và phát triển lực lượng sản xuất ở các tỉnh,
thành trong cả nước nói riêng.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4
chương với 11 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Lực lượng sản xuất và nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản
xuất vốn là một trong những vấn đề rất cơ bản của triết học Mác - Lênin. Vì vậy, cho
đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Liên quan đến nội dung của
luận án, tác giả đã tổng quan những tài liệu đó thành ba nhóm chính theo bố cục ba
chương của luận án.
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI
1.1.1. Những nghiên cứu lý luận về lực lượng sản xuất hiện đại
Trước sự phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất
đã có những bước phát triển đáng kể, theo hướng hiện đại. Vì vậy, gần đây có một số
công trình bàn về lực lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới. Trong giới hạn
của vấn đề nghiên cứu, luận án không tổng quan những công trình nghiên cứu về lực
lượng sản xuất nói chung mà chỉ đi sâu tổng quan những công trình nghiên cứu về lực
lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới. Dưới góc độ đó, có thể kể đến những
công trình nghiên cứu tiêu biểu là:
Cuốn sách Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức do hai tác giả Vũ Đình
Cự, Trần Xuân Sầm (chủ biên) [17] đã phân tích luận điểm của C.Mác về vai trò của
khoa học đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các tác giả đã khẳng định, trong
thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất không đơn thuần chỉ là sự kết hợp của hai yếu tố
người lao động và tư liệu sản xuất nữa mà sự phát triển không ngừng của khoa học -
công nghệ để dẫn đến sự ra đời của lực lượng sản xuất mới - lực lượng sản xuất hiện
đại. Nhờ đó, nền kinh tế của thế giới đã có bước chuyển biến quan trọng từ nền kinh tế
công nghiệp thuần túy sang nền kinh tế tri thức.
Trong chương 7: “Những đặc điểm chủ yếu của lực lượng sản xuất mới”, các
tác giả đã chỉ ra 5 biểu hiện chứng tỏ khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp: Một là, số lượng nhân lực khoa học tham gia vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ
ngày càng cao, vượt trội so với số lượng lao động thủ công; hai là, các máy móc, các
dây truyền sản xuất trong các xí nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với các phòng thí
6
nghiệm; ba là,thời gian cho các ứng dụng khoa học đi từ phòng thí nghiệm ra thị
trường ngày càng được rút ngắn; bốn là, các doanh nghiệp, trường đại học và viện
nghiên cứu gắn bó với nhau ngày càng chặt chẽ; năm là, khoa học trong lực lượng sản
xuất mới không chỉ bao hàm khoa học công nghệ mà còn bao hàm cả các ngành khoa
học xã hội. Những đặc điểm trên đã cho thấy sự khác biệt rất lớn của lực lượng sản
xuất mới so với lực lượng sản xuất trước kia. Từ đó, các tác giả khẳng định, tri thức
chính là sức mạnh nòng cốt của lực lượng sản xuất mới:
Vì tri thức có vai trò quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế nên lực lượng sản
xuất mới không chỉ có mặt trong những ngành sản xuất mới xuất hiện mà
nó còn lan tỏa, cải tạo, đổi mới các ngành sản xuất cũ của nền kinh tế. Như
vậy, lực lượng sản xuất mới cuối cùng sẽ thay thế hoàn toàn lực lượng sản
xuất cũ, qua một quá trình phát triển biện chứng, có sử dụng triệt để những
tiền đề mà lực lượng sản xuất cũ tạo ra [17, tr.145-146].
Từ những phân tích chung đó, trong chương 18 với tên gọi: “Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”, các tác giả đã khẳng định
đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của Đảng ta
hiện nay là hoàn toàn đúng đắn, góp phần vào mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu
đó cần thiết phải phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại.
Cuốn sách của các tác giả là một công trình khoa học khá công phu đã cung cấp
những vấn đề lý luận rất quan trọng và mới mẻ về lực lượng sản xuất hiện đại, diện
mạo của lực lượng sản xuất hiện đại, vai trò của lực lượng sản xuất hiện đại đối với sự
phát triển xã hội. Tuy nhiên, cần phân tích thêm những nhận định về khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vấn đề này sẽ được tác giả trình bày trong nội dung
luận án.
Bài viết: “Những đặc điểm của hệ thống công nghệ mới và lực lượng sản xuất
mới tác động quyết định đến quá trình hình thành kinh tế tri thức”, của tác giả Vũ Đình
Cự [16] đã đưa ra những quan niệm về lực lượng sản xuất mới. Theo tác giả, hệ thống
công nghệ mới thực chất chính là hệ thống công nghệ cao được hình thành từ giữa thế
kỷ XX đã có tác động to lớn đến sự biến đổi của lực lượng sản xuất, cho ra đời của lực
lượng sản xuất mới. Tác giả đã đưa ra quan niệm về lực lượng sản xuất mới như sau:
7
Lực lượng sản xuất mới, tức là lực lượng sản xuất hiện đại, dựa trên hệ
thống công nghệ mới được đặc trưng bằng năng suất rất cao, hiệu quả lớn,
ngày càng ít tác hại môi trường và ít gây mất cân bằng sinh thái (“thân” môi
trường), tiêu hao ngày càng ít năng lượng và vật liệu cho một sản phẩm,
đồng thời hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng cao” [16, tr.20-21].
Từ quan điểm này, có thể nhận thấy, tác giả đã đồng nhất lực lượng sản xuất
mới với lực lượng sản xuất hiện đại, nội hàm của khái niệm này gắn liền với trình độ
phát triển theo hướng hiện đại của lực lượng sản xuất. Trong quan điểm này, tác giả đã
đưa ra những đặc trưng nổi bật của lực lượng sản xuất mới, dùng để phân biệt với lực
lượng sản xuất cũ có trình độ lạc hậu trước kia. Từ đó, có thể nhận thấy, tác giả đề cao
vai trò của khoa học - công nghệ hiện đại trong việc hình thành nên lực lượng sản xuất
mới. Tác giả còn khẳng định thêm, sự khác nhau giữa lực lượng sản xuất mới dựa trên
hệ thống công nghệ mới so với lực lượng sản xuất của thời kỳ công nghiệp cổ điển là
lực lượng sản xuất cổ điển có các đối tượng chủ yếu là nguyên liệu, vật liệu; trong lực
lượng sản xuất mới, đối tượng lao động ngoài nguyên liệu, vật liệu còn có thông tin,
dữ liệu, tri thức.
Theo tác giả, khi lực lượng sản xuất mới ra đời, nó không chỉ làm thay đổi diện
mạo của một nền kinh tế - xã hội mà còn làm “phát sinh một hệ quả quan trọng”, đó là
toàn cầu hóa kinh tế. Vì lực lượng sản xuất phát triển nên đã tạo ra một lượng hàng
hóa dồi dào không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng ra thị trường quốc
tế:
Toàn cầu hóa kinh tế hình thành do nhiều nguyên nhân khác nhưng nguyên
nhân do lực lượng sản xuất là quyết định. Nếu không có một lực lượng sản
xuất mới đảm bảo một nguồn hàng hóa và dịch vụ vô cùng phong phú, sẵn
sàng đáp ứng nhu cầu của toàn thế giới và một kết cấu hạ tầng thông tin cực
kỳ mạnh mẽ như hiện nay thì chưa thể có toàn cầu hóa kinh tế [16, tr.24].
Theo tác giả Vũ Đình Cự, vì lượng sản xuất mới có hàm lượng tri thức cao nên
việc xuất hiện toàn cầu hóa kinh tế sẽ tất yếu dẫn đến toàn cầu hóa tri thức bởi tri thức
của con người không bị giới hạn bởi những khuôn khổ chật hẹp trong một vùng, một
lãnh thổ, một quốc gia nhất định mà luôn có tính xã hội hóa, tính quốc tế rất cao. Vì
vậy, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay, muốn phát triển lực
8
lượng sản xuất theo hướng hiện đại, muốn gia nhập vào quá trình toàn cầu hóa lực
lượng sản xuất cần chú trọng đến việc phát huy nguồn lao động có tri thức, có trình độ
tay nghề cao.
Như vậy, trong bài viết, tác giả không chỉ đưa ra nội hàm khái niệm lực lượng
sản xuất mới hay lực lượng sản xuất hiện đại mà còn chỉ ra tác động của lực lượng sản
xuất mới đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như với quá trình toàn cầu hóa kinh
tế, toàn cầu hóa lực lượng sản xuất.
Trong bài viết: “Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt trong
việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [72], tác giả Đoàn Công Mẫn trình bày vai
trò to lớn của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của xã hội nói chung và lực
lượng sản xuất nói riêng: “Chính sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất
mới đã từng bước đưa nhân loại tiến vào nền kinh tế tri thức ở mức độ khác nhau,
trong đó động lực chủ yếu làm nên sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của xã hội là
khoa học và công nghệ” [72, tr.29].
Trong phần hai của bài viết, tác giả đã phân tích thực trạng phát triển lực lượng
sản xuất ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay còn
chậm phát triển và không đều, chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những hạn chế đó được thể hiện trên cả ba
phương diện là người lao động, tư liệu sản xuất và việc ứng dụng khoa học - công
nghệ, trong đó quan trọng nhất là những hạn chế về khoa học - công nghệ. Bởi vậy, để
tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ nhằm thúc đẩy lực lượng sản
xuất lên trình độ hiện đại, cần có một giải pháp đồng bộ, toàn diện và phù hợp với thực
tiễn sản xuất. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra bảy giải pháp để phát triển khoa học và
công nghệ nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam. Những giải pháp
đó có tính khá toàn diện và có tính khả thi.
Đáng chú ý là trong những công trình viết về vai trò của khoa học - công nghệ
trong sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại có nhiều bài viết bàn về luận điểm:
Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác. Điển hình là các tác giả
Trần Đắc Hiến với “Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của
C.Mác và sự vận dụng ở nước ta hiện nay” [41]; Nguyễn Cảnh Hồ với “Có phải khoa
học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [42]; Lê Huy Thực với “Về luận điểm
9
“Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [93]. Trong ba bài viết này, các tác
giả đã phân tích quan điểm của C.Mác về vai trò của khoa học đối với sự phát triển lực
lượng sản xuất, những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Từ
đó, các tác giả phân tích quan điểm của Đảng ta về việc phát triển khoa học - công nghệ
phục vụ sự phát triển lực lượng sản xuất đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát
triển khoa học - công nghệ ở nước ta. Những bài viết này gợi mở một số nội dung để tác
giả luận án phân tích sâu hơn về vai trò của khoa học trong phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại.
Ngoài những quan điểm về lực lượng sản xuất mới, lực lượng sản xuất hiện đại,
theo một số nhà khoa học, cũng cần có những quan niệm mới về lực lượng sản xuất để
bắt nhịp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay. Trong bài
viết: “Quan niệm mới về phát triển lực lượng sản xuất”[ 90], tác giả Lý Hân (Trung
Quốc) đưa ra những quan điểm đáng chú ý về phát triển lực lượng sản xuất. Trước hết,
tác giả đã phê phán những quan điểm cũ về lực lượng sản xuất: “Sách giáo khoa cũ ở
Trung Quốc định nghĩa lực lượng sản xuất là khả năng của con người chinh phục và
cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất” [90, tr.9]. Đây không chỉ là quan điểm của
riêng Trung Quốc mà cũng chính là quan điểm của Việt Nam trước kia về lực lượng
sản xuất. Theo tác giả, trong quá trình sản xuất vật chất, con người không chỉ chinh
phục tự nhiên mà còn phải thích nghi với giới tự nhiên nên khi đề cập đến phạm trù
lực lượng sản xuất mà chỉ nhấn mạnh đến hoạt động chinh phục, xem nhẹ hoạt động
thích nghi là phiến diện. Tác giả nhấn mạnh thêm: “Quan niệm như vậy không chỉ hạn
chế nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất mà còn khó dung nạp với sự phát triển
bền vững, phát triển liên tục” [90, tr.10]. Hệ quả của quan điểm này theo tác giả là
“con người tìm mọi cách chinh phục, khai thác sao cho được nhiều nhất của cải từ
thiên nhiên, bất chấp mọi hậu quả” [90, tr.10].
Từ sự phê phán đó, theo tác giả, cần có những thay đổi trong quan niệm về phát
triển lực lượng sản xuất. Tác giả cho rằng, nếu con người biết chung sống hòa bình với
giới tự nhiên, con người sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ nó, sẽ có những hiểu biết sâu
sắc hơn về giới tự nhiên. Do đó, khả năng chung sống hòa bình với thiên nhiên là một
phương diện có ý nghĩa rất quan trọng trong quan niệm về lực lượng sản xuất. Trên cơ
sở đó, tác giả đã đưa ra quan niệm mới về lực lượng sản xuất: “Thuật ngữ “lực lượng
10
sản xuất” là khái niệm thể hiện không chỉ hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự kết
hợp hài hòa giữa con người và giới tự nhiên” [90, tr.9].
Tác giả đã chỉ ra trong lịch sử loài người đã và đang trải qua ba giai đoạn phát
triển của lực lượng sản xuất. Giai đoạn 1: Lực lượng sản xuất phát triển một cách tự
phát. Đây là giai đoạn mà kinh nghiệm sản xuất trực tiếp của người lao động sinh ra kỹ
thuật. Nó xảy ra trước cách mạng công nghiệp. Giai đoạn 2: Lực lượng sản xuất phát
triển bằng mọi giá. Đây là giai đoạn sau cách mạng công nghiệp, con người đã tận
dụng những thành quả của khoa học và kỹ thuật để khai thác ngày càng nhiều tự nhiên
nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Giai đoạn 3: Lực lượng sản xuất phát triển một cách
có chọn lọc. Do mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xung khắc, biểu
hiện qua những thiên tai, lũ lụt nên con người từng bước điều chỉnh hoạt động sản xuất
vật chất của mình, chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn
lọc, tránh làm tổn hại đến tự nhiên. Theo tác giả, đây là giai đoạn mà loài người đã và
đang hướng tới.
Như vậy, có thể nói, quan điểm của tác giả Lý Hân có những cách nhìn mới đối
với mở rộng nội hàm khái niệm lực lượng sản xuất, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Sự
phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ cùng với những yêu cầu, đòi hỏi của
sự phát triển bền vững, việc mở rộng nội hàm khái niệm “lực lượng sản xuất” là cần
thiết. Đó là cách mà chúng ta bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác bằng
những thực tiễn lịch sử sinh động mà thời đại của các ông chưa đặt ra hoặc chưa trở
thành những vấn đề cấp bách, mang tính toàn cầu.
1.1.2. Những nghiên cứu lý luận liên quan đến nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất hiện đại
Nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề nhận được nhiều
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề người lao động trong lực
lượng sản xuất hiện đại cũng chưa được nhiều người bàn đến. Có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu sau:
Trong cuốn sách: Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay [20], tác giả Hồ Anh Dũng đã bàn đến một số nội dung cơ bản của khái
niệm lực lượng sản xuất qua việc khảo cứu những quan điểm của triết học Mác - Lênin về
lực lượng sản xuất qua những tác phẩm kinh điển như: Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng
11
của triết học, Tư bản… Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích các yếu tố cấu thành của
lực lượng sản xuất, đặc biệt là người lao động - yếu tố quyết định lực lượng sản xuất. Tác
giả đã phân tích vai trò của yếu tố con người trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại. Tác giả khẳng định:
Khoa học là của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con người
và phải thông qua hoạt động của con người được định hình thành những phẩm
chất và năng lực trong người lao động, mới trở thành lực lượng sản xuất. Khoa
học cũng phải thông qua hoạt động của con người mới có thể được vật chất
hóa thành các phương tiện kỹ thuật và công nghệ. Kỹ thuật, công nghệ hiện đại
với tư cách là phần vật chất trong thành phần của lực lượng sản xuất dù năng
động và cách mạng đến mấy chẳng qua cũng chỉ là sản phẩm của bàn tay và
khối óc của con người và phải chịu sự điều khiển giám sát của con người [20,
tr.50].
Nhận định trên đã cho thấy vai trò to lớn của con người trong bối cảnh hiện nay.
Điều đó cũng cho thấy, khoa học muốn trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp phải thông
qua hoạt động của con người.
Trong cuốn sách: Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất
ở Việt Nam hiện nay [76], tác giả Phạm Công Nhất cũng đã trình bày những vấn đề cơ bản
về vai trò của nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Trong
chương 1, tác giả đã đưa ra khái niệm nhân tố con người:
Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố có liên quan đến con người, là sự
thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ quan và khách quan để tạo nên năng
lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được hình thành và phát huy tác dụng
vào trong thực tiễn sản xuất vật chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi cộng đồng, quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định” [76,
tr.25].
Từ khái niệm đó, tác giả đã chỉ ra bốn đặc điểm cơ bản của nhân tố con người
trong lực lượng sản xuất. Đứng trên lập trường mácxít, tác giả tiếp tục khẳng định vai trò
quyết định của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo tác giả, để thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, kể cả lực lượng sản xuất hiện đại thì yếu tố có
tính quyết định không phải là tư liệu sản xuất, cũng không phải là khoa học - kỹ thuật mà
12
chính là yếu tố con người. Trong thời đại ngày nay, nói đến nhân tố con người trong phát
triển sản xuất là nói tới những người công nhân, những người lao động. Ngoài ra, tác giả
còn phân tích những yếu tố tác động đến việc phát huy nhân tố con người trong lực lượng
sản xuất ở nước ta hiện nay như: tính chất và trạng thái của thể chế chính trị; tính chất và
trạng thái của nền kinh tế; trình độ phát triển dân trí; trình độ xã hội hóa, dân chủ hóa về
thông tin.
Trong bài viết “Xem xét nhân tố người lao động trong cấu trúc của lực lượng
sản xuất” [53], tác giả Trương Giang Long nhận định:
Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất được hiểu như là bộ phận
năng động và sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhờ có nó mà công cụ
và phương tiện sản xuất ngày càng được đổi mới, sản xuất phát triển với
năng suất và chất lượng cao, đời sống tinh thần và bộ mặt của xã hội có
nhiều tiến bộ [56, tr.27].
Từ đó, tác giả đã chỉ ra những phẩm chất cần có của con người trong lực lượng
sản xuất. Đó là những con người “phát triển cao về trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất, giàu
có về tinh thần, trong sáng về đạo đức” [56, tr.28]. Nhận định này của tác giả cũng có
giá trị tham khảo nhất định đối với tác giả luận án khi phân tích những phẩm chất cần
có của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
Trong bài viết “Kinh tế tri thức - xét từ giác độ lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất” [80], tác giả Phạm Ngọc Quang cũng khẳng định sự phát triển của khoa học, công
nghệ hiện đại đã làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của quá trình sản xuất, “năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng
được nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và
được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng” [80, tr.22]. Cũng theo tác giả, nhờ tác động của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, người lao động không chỉ là những người hoạt
động sản xuất trực tiếp mà còn bao gồm một bộ phận ngày càng tăng lên những người
trực tiếp quản lý quá trình sản xuất và những kỹ sư, những nhà công nghệ... Nhận định
này đã phản ánh đúng xu thế phát triển của đội ngũ những người lao động trong nền sản
xuất hiện đại.
Từ việc phân tích xu thế tất yếu của nền kinh tế tri thức, tác giả đã chỉ ra ba xu
hướng biến đổi của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức. Đó là: lao động cơ bắp
13
từng bước được thay thế bằng lao động trí tuệ nhưng lao động cơ bắp không mất đi; yếu
tố trí tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong lao động sản xuất; lao động quản lý
dần chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp. Từ ba xu thế trên, có thể nhận thấy,
trong nền sản xuất hiện đại, yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao động giữ vai trò và vị trí
chi phối. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản của nền kinh tế tri thức so với những
nền kinh tế trước đó trong lịch sử. Vì vậy, lực lượng sản xuất hiện đại và kinh tế tri thức
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với
vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay (Qua thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long [37], tác giả Trần Thanh Đức cũng bàn
về nhân tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo tác giả:
Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất không chỉ là bộ phận cấu thành
mà còn giữ vai trò trung tâm trong lực lượng sản xuất. Chính mặt hoạt động
của nhân tố con người tạo ra phương thức kết hợp tốt nhất giữa các yếu tố cấu
thành của lực lượng sản xuất, qua đó, nó giữ vai trò quyết định đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất [37, tr.46].
Như vậy, tác giả đã khẳng định vai trò quyết định của nhân tố con người trong
phát triển lực lượng sản xuất. Trong luận án, tác giả đã đi sâu phân tích sự tác động của
nhân tố con người với những yếu tố cấu thành khác của lực lượng sản xuất như nhân tố
con người với tư liệu sản xuất, nhân tố con người với cách mạng khoa học - công nghệ.
Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra những yêu cầu đào tạo người lao động Việt Nam nhằm phát
triển nhân tố con người trong lực lượng sản xuất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Những yêu cầu cơ bản đó là: Người lao động cần phải có kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp cao và tư duy mới - tư duy sáng tạo và biện chứng; người lao động phải có
tính tự chủ và sáng tạo; người lao động phải có khả năng thích nghi; người lao động phải
có văn hóa, có những giá trị nhân bản, nhân đạo, nhân văn; người lao động phải có thể lực
tốt . Đây chính là những yêu cầu khá toàn diện và cần thiết của người lao động để đáp ứng
nhu cầu của phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Vấn đề này cũng được luận án kế thừa và làm rõ hơn khi
phân tích những yêu cầu của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại nói chung và phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam nói riêng.
14
Gần đây, trong bài viết: “Về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác” [88],
thông qua việc tranh luận với tác giả Nguyễn Chí Dũng một số nội dung trong bài viết
“Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội dưới ánh sáng thời đại ngày nay”
(Tạp chí Khoa học xã hội, số 2 (87), năm 2015), tác giả Dương Văn Thịnh cũng đã trình
bày quan điểm của mình về vai trò, vị trí của nhân tố người lao động trong lực lượng sản
xuất. Theo tác giả Dương Văn Thịnh, quan điểm của tác giả Nguyễn Chí Dũng khi cho
rằng phân tích sâu sắc những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, C.Mác chỉ ra rằng,
chất của công cụ sản xuất là cái quan trọng nhất quy định chất của quan hệ sản xuất. Với ý
nghĩa đó nó càng là cái quan trọng nhất, quy định chất của phương thức sản xuất hay chất
của một hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử là chưa phản ánh đúng thực chất tính khoa
học trong học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội. Nếu quan niệm như vậy, tác
giả Nguyễn Chí Dũng không nhắc gì đến yếu tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo
tác giả Dương Văn Thịnh, đây là một quan điểm “duy kỹ thuật” vì nó tìm nguyên nhân
cuối cùng của sự thay đổi xã hội ở sự thay đổi của công cụ sản xuất. Điều này trái với
quan điểm của C.Mác. Mặc dù không phủ nhận vai trò to lớn của công cụ sản xuất, rộng
hơn là tư liệu sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời đại kinh tế
khác nhau nhưng tác giả Dương Văn Thịnh vẫn khẳng định con người mới chính là nhân
tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất:
Không phải công cụ sản xuất quyết định tính năng động của lực lượng sản
xuất, mà chính hoạt động sản xuất vật chất của con người là nhân tố quyết
định. Công cụ sản xuất muốn trở thành một sức hoạt động thì phải có con
người, hơn nữa công cụ sản xuất không phải tự nhiên sinh ra được mà nó cũng
do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong những quan
hệ xã hội nhất định. Cho nên cái quyết định trình độ của lực lượng sản xuất
không phải là chất của công cụ sản xuất mà phải là sự tổng hợp của nhiều yếu
tố, trong đó trình độ phát triển của con người là quyết định nhất [91, tr.40].
Quan điểm này cùng những tranh luận của tác giả Dương Văn Thịnh với tác giả
Nguyễn Chí Dũng trong bài viết trên đã giúp tác giả luận án hiểu rõ hơn về tính khoa học
trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác khi bàn đến vai trò của nhân tố
người lao động trong lực lượng sản xuất.
15
Từ việc tổng quan những công trình nghiên cứu trên cho thấy, có khá nhiều công
trình nghiên cứu bàn đến lực lượng sản xuất nói chung, lực lượng sản xuất hiện đại nói
riêng và nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Những công trình đó
đã cung cấp cho tác giả luận án những ý nghĩa nhất định trong việc phân tích những vấn
đề lý luận về lực lượng sản xuất hiện đại và nhân tố người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngoài những công trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất hiện đại, còn có những
công trình nghiên cứu đi sâu phân tích thực trạng của nhân tố người lao động trong phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay được luận án chọn để tổng quan. Đó là
những công trình tiêu biểu sau:
Trong cuốn sách Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay [20], tác giả Hồ Anh Dũng đã dành hầu hết chương 2 để phân tích những
ưu thế, hạn chế, và xu hướng phát triển của con người lao động Việt Nam. Theo tác giả,
ưu điểm nổi bật của con người lao động Việt Nam là có số lượng đông đảo, chủ yếu là lao
động trẻ; có đức tính cần cù, chăm chỉ, có khả năng thích ứng nhanh chóng với sự biến
đổi của cơ chế thị trường; trình độ của người lao động đang ngày một tăng lên. Tuy nhiên,
theo tác giả, người lao động còn có rất nhiều hạn chế như thể lực của người Việt Nam
đang bị thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là ở nông thôn; hơn nữa, do ảnh hưởng của tập quán,
lối sống nông nghiệp nên người lao động Việt Nam phần lớn đều có cách làm ăn manh
mún, tản mạn, sống theo “lệ” nhiều hơn theo “luật”, có nhiều khuynh hướng bảo thủ, bài
ngoại nên hạn chế nhiều đến sự tiếp thu những thành tựu phát triển khoa học, công nghệ,
thường có lối sống an phận, chủ nghĩa bình quân, có tính ỷ lại... Những nhận định của tác
giả dựa trên sự phân tích cơ sở kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử của những hạn chế trên của
người lao động Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng khẳng định, một trong những hạn
chế chủ yếu của người lao động Việt Nam là “không chỉ thiếu đội ngũ công nhân lành
nghề mà còn thiếu cả đội ngũ chuyên gia kỹ thuật và cán bộ quản lý giỏi… Đội ngũ cán
bộ quản lý của chúng ta hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu” [20, tr.87]. Theo tác giả, những
yếu kém đó cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm ăn sa sút,
thậm chí phá sản của một số xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã của nước ta trong thời gian
16
qua. Từ đó, tác giả khẳng định, muốn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại thì người lao
động Việt Nam cần phải có sự phát triển hài hòa cả về thể lực và trí lực, có sự kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại.
Trong chương 2 của cuốn sách: Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay [76], tác giả Phạm Công Nhất đã đánh giá những
thành tựu và hạn chế của việc phát huy nhân tố con người ở nước ta. Những thành tựu đó
là: Nhận thức của Đảng về phát huy vai trò của nhân tố con người ngày càng rõ nét, phù
hợp với yêu cầu của thời cuộc; nền kinh tế - xã hội có những bước tăng trưởng mới nên
con người ngày càng có điều kiện phát triển cả về thể chất và tinh thần; bản thân các tầng
lớp, giai cấp nhân dân lao động cũng có nhiều bước trưởng thành cả về kinh nghiệm, trình
độ, kỹ năng trong lao động sản xuất… Đặc biệt, tác giả cũng đưa ra những đánh giá về
việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta cả về số lượng cũng như chất lượng.
Về số lượng, nguồn lao động nước ta tăng lên theo các năm. Tác giả khẳng định, đây là
một lợi thế lớn về khả năng cung ứng nguồn nhân lực trong phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, dân số đông
trong điều kiện ở một quốc gia còn nghèo như nước ta cũng tạo ra những sức ép không
nhỏ về công ăn việc làm. Ngoài ra, theo tác giả, việc phân bố lao động ở nước ta chưa hợp
lý vì lao động ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tỉ lệ lớn. Điều này cho thấy cơ cấu lao động
hiện nay của nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về chất lượng nguồn nhân lực, tác giả đánh giá cao vai trò của
giáo dục và đào tạo trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ở Việt Nam, “những
thành tựu đạt được trong quá trình giáo dục, đào tạo đã nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn kỹ thuật nguồn nhân lực. Đó là lực lượng có khả năng tiếp thu nhanh khoa học -
công nghệ hiện đại, có trình độ và kỹ năng khéo léo để sử dụng trang thiết bị kỹ thuật tiên
tiến” [76, tr.127]. Tuy nhiên, cũng theo tác giả Phạm Công Nhất, chất lượng của nguồn
nhân lực nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động phát triển, đặc biệt
tại các vùng kinh tế trọng điểm và các khu độ thị tập trung, thiếu nhiều lao động có tay
nghề, có chuyên môn giỏi, việc đào tạo nghề của người lao động còn nhiều bất cập. Từ
đó, tác giả phân tích những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó và những vấn đề đặt
ra với việc phát triển nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay. Có thể nói, ở chương 2, tác
giả đã cung cấp một bức tranh khá toàn cảnh về thực trạng của việc phát huy nhân tố con
17
người ở Việt Nam. Theo tác giả, đó là một việc làm cần thiết vì “cho phép chúng ta có
thêm cơ sở khoa học để có thể đề ra những phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm
phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong việc tiếp tục phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian tới” [76, tr.181].
Trong đề tài khoa học cấp Bộ: “Một số định hướng chuẩn bị nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ
XXI” [88], các tác giả cũng đã chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của nguồn nhân lực Việt
Nam. So với các nước trên thế giới, Việt Nam có nguồn nhân lực trẻ. Điều đó tạo ra
những ưu thế về sức khỏe, trình độ văn hóa, khả năng tiếp thu nhanh những kiến thức
mới, có tính cơ động cao. Tuy nhiên, do ít được đào tạo nghề nên nhiều ưu thế của người
lao động Việt Nam chưa được phát huy. Các tác giả đã phân tích rõ những hạn chế về thể
lực của người lao động Việt Nam cả về chiều cao, cân nặng, chế độ dinh dưỡng, công tác
y tế, chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Các tác giả cũng nhấn mạnh đến những hạn
chế về trình độ của người lao động, không chỉ có trình độ tay nghề mà cả trình độ ngoại
ngữ, tin học . Ngoài ra, các tác giả cũng đã chỉ ra những bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo
nghề cho người lao động ở Việt Nam hiện nay, trong việc phân bố lao động đã qua đào
tạo giữa các ngành nghề, các vùng miền trên cả nước. Đề tài khẳng định, sự mất cân đối
trong cơ cấu trình độ, cơ cấu sử dụng phân bố nguồn nhân lực giữa các ngành, giữa các
vùng với chất lượng đào tạo thấp dấn đến nguồn nhân lực đã qua đào tạo chuyên môn kỹ
thuật, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đã ít về số lượng, kém về chất lượng lại
được sử dụng thiếu hiệu quả, chưa thể đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.
Trong bài viết “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức” [86], tác giả Nguyễn Văn
Sơn cũng phân tích thực trạng của nguồn nhân lực nước ta. Mặc dù đó là thực trạng của
nguồn nhân lực nói chung nhưng về cơ bản, đó cũng là thực trạng của nhân tố người lao
động trong lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, nguồn nhân lực nước ta
có ưu điểm là dồi dào, tăng lên theo các năm. Đây là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát
triển sản xuất. Người Việt Nam được đánh giá là có tư chất thông minh, nhanh nhẹn, nhạy
bén trong tiếp thu và tiếp cận tri thức. Đây chính là những điểm nổi trội của nguồn nhân
lực nước ta. Tuy nhiên, theo tác giả, nguồn nhân lực nước ta còn nhiều hạn chế về thể lực
18
do “mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn ở mức độ thấp, đặc biệt là trẻ em, nguồn
cung cấp nhân lực chính cho xã hội. Sự hạn chế về thể lực ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng tiếp thu tri thức và trí thông minh của trẻ” [86, tr.63]. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra
bảng so sánh đánh giá chất lượng nguồn nhân lực nước ta so với một số nước châu Á như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan… nhằm chỉ ra những hạn chế về trí lực của nguồn nhân
lực Việt Nam. Những đánh giá của tác giả có giá trị tham khảo nhất định đối với việc
đánh giá chất lượng nguồn lao động của Việt Nam.
Ngoài những công trình nghiên cứu viết về thực trạng của nguồn nhân lực nói
chung còn có một số bài viết bàn về thực trạng của nguồn nhân lực trong những ngành cụ
thể. Trong bài viết “Những khó khăn trong hoạt động đào tạo nghề cho công nhân kỹ
thuật tại doanh nghiệp” [3], tác giả Nguyễn Vân Thùy Anh đã chỉ ra một thực tế phổ biến
trong các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta hiện nay là hầu hết công nhân không có trình
độ cơ bản, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cung công nhân kỹ
thuật từ lực lượng học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề. Do hệ thống giáo
trình và máy móc thiết bị phục vụ thực hành lạc hậu nên một bộ phận học sinh
các trường dạy nghề có tay nghề yếu, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất,
đặc biệt là trong những ngành công nghệ cao, sản phẩm thay đổi nhanh chóng
[3, tr.9].
Nhận định trên không những chỉ ra hạn chế của nguồn lao động công nhân trong
các doanh nghiệp ở nước ta mà cho thấy nguyên nhân của những hạn chế trên là do công
tác đào tạo nghề trong các trường dạy nghề còn nhiều bất cập. Vì vậy, tác giả cho rằng ở
nhiều doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khi tuyển dụng công nhân, họ không phân
biệt lao động phổ thông hay lao động đã được đào tạo vì sau đó họ đều phải tiến hành tự
đào tạo theo yêu cầu công việc của mình. Đây cũng là một thực tiễn cho thấy công tác đào
tạo nghề cho lao động ở nước ta chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Ngoài những công trình nghiên cứu bàn về nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp
còn có bài viết bàn về thực trạng của nguồn nhân lực trình độ Đại học ở Việt Nam hiện
nay. Trong bài viết “Nguồn nhân lực trình độ Đại học ở Việt Nam - Thực trạng và một số
kiến nghị” [73], tác giả Phạm Văn Nam đã chỉ ra những bất cập về cơ cấu nhân lực trình
độ Đại học trong nhóm cơ cấu nhân lực có trình độ chuyên môn ở nước ta hiện nay bởi
19
“nếu như cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động khu vực châu Á hiện nay là
“1 đại học/4 cao đẳng/10 trung cấp thì tỷ lệ này của Việt Nam thời điểm năm 2010 là: 5,7
đại học/1,7 cao đẳng/3,5 trung cấp” [73, tr.17]. Theo tác giả, đây là một nguyên nhân dẫn
đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, trình độ nguồn nhân lực
đã qua đào tạo Đại học ở nước ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đúng nhu cầu của xã
hội. Điều đó phản ánh qua số lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm hoặc
không được làm việc theo đúng chuyên ngành đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Những sinh
viên ra trường có việc làm phần lớn cũng phải trải qua quá trình đào tạo lại.
Trong Luận án Tiến sĩ Triết học năm 2002: Nhân tố con người trong lực lượng
sản xuất với vấn đề đào người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam hiện nay (Qua thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long) [37], tác giả Trần Thanh
Đức cũng đã phân tích thực trạng của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất ở nước
ta và vấn đề đào tạo người lao động. Trước hết, tác giả chỉ ra ưu thế nổi bật của Việt Nam
là có một nguồn lao động dồi dào với tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo, có khả
năng vận dụng linh hoạt và thích ứng nhanh với những biến đổi của hoàn cảnh. Tác giả
cũng khẳng định:
Không phải việc tăng trực tiếp các điều kiện lao động vật chất truyền thống là
cơ sở của bước tiến bộ của nền sản xuất vật chất mà là sự phát triển của chính
nhân tố con người thông qua giáo dục - đào tạo để từ đây việc thực hiện sự cải
tạo và hoàn thiện các nhân tố sản xuất, các hoạt động của con người mới có tác
dụng thúc đẩy ở mức độ lớn nhất đối với sự phát triển của nền sản xuất [37,
tr.96].
Theo tác giả, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hạn chế đó là do
những bất cập trong công tác đào tạo người lao động cả về nội dung, phương pháp, sự mất
cân đối trong đào tạo giữa các ngành nghề, các cấp bậc, phân bố cơ sở đào tạo… Tác giả
khẳng định, những bất cập của nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất đang
là một trong những thách thức của nước ta trong việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Đây là một thách thức lớn nhất của Việt Nam bởi vì
thiếu vốn chúng ta có thể đi vay, thiếu công nghệ chúng ta có thể nhập, nhưng nếu thiếu
người lao động có tri thức, có tay nghề cao thì chúng ta không thể thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [37, tr.110]. Đây là một nhận định thỏa
20
đáng về vai trò to lớn của nguồn lao động có trình độ, có tay nghề đối với sự phát triển lực
lượng sản xuất nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như những khó khăn
của Việt Nam nếu thiếu đội ngũ này.
Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn đến thực trạng của nguồn nhân
lực Việt Nam nói chung và nguồn lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nói riêng.
Có những tác giả đưa ra những nhận xét có tính khái quát, có những tác giả lại đưa ra
những số liệu cụ thể để minh chứng cho những ưu điểm và hạn chế của người lao động
Việt Nam. Điều đó đã mang đến một bức tranh khá toàn cảnh về thực trạng của người lao
động nước ta.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỂ
PHÁT TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM
Ngoài việc phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của nhân tố người lao động
trong phát triển lực lượng sản xuất còn có một số công trình nghiên cứu đề xuất những
quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người nói chung và
nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nói riêng.
Trong cuốn sách: Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay [20], theo tác giả Hồ Anh Dũng, phương hướng để xây dựng người lao
động Việt Nam là:
Con người lao động Việt Nam mà chúng ta muốn xây dựng với tư cách là một
lực lượng sản xuất hiện đại là con người phát triển phong phú, hài hòa, vừa có
thể lực tốt, vừa có tinh thần lành mạnh, trí tuệ phát triển, vừa có trình độ học
vấn, có tri thức khoa học, kỹ thuật, kinh tế cao, vừa có đạo đức tốt; luôn năng
động, sáng tạo, biết làm giàu cho bản thân và cho đất nước, nhưng biết hưởng
thụ những thành quả lao động hợp lý, đồng thời lại biết tiết kiệm tập trung vốn
phát triển sản xuất; có ý chí vươn lên mạnh mẽ, vượt lên khắc phục khó khăn,
chế ngự được hoàn cảnh, có tinh thần tự do sáng tạo, táo bạo nhưng không vi
phạm đạo đức và biết tuân thủ pháp luật [20, tr.98-99].
Như vậy, tác giả đã chỉ ra một cách rất cụ thể những phẩm chất cần có của người
lao động Việt Nam trong nền sản xuất hiện đại. Tác giả gọi đó là những con người “có
phẩm chất tiên tiến của thời đại”. Để xây dựng được người lao động Việt Nam đạt được
21
những tố chất đó, tác giả đã đưa ra ba giải pháp là: luôn luôn quan tâm đúng mức tới nhu
cầu và lợi ích của người lao động để kích thích tính tích cực của họ trong quá trình sản
xuất; xây dựng môi trường xã hội đảm bảo các điều kiện phát huy yếu tố con người trong
lực lượng sản xuất và đổi mới; đổi mới, tăng cường giáo dục - đào tạo là phương hướng
quan trọng để phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo tác giả, đó chính
là những giải pháp rất cơ bản và quan trọng để phát huy yếu tố con người trong lực lượng
sản xuất ở Việt Nam. Tuy nhiên, những giải pháp mà tác giả đưa ra cũng chưa thực sự
toàn diện vì chưa có giải pháp nhằm phát triển thể lực, sức khỏe của người lao động Việt
Nam.
Tác giả Phạm Công Nhất trong cuốn sách: Phát huy nhân tố con người trong phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay [76] cũng đưa ra một số quan điểm và giải
pháp cơ bản trong việc phát huy nhân tố con người nhằm phát triển lực lượng sản xuất
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Những quan điểm đó là: phải
coi nhân tố con người là nhân tố có vai trò quyết định đến sự thành công của phát triển lực
lượng sản xuất, thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta; phải
gắn tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội với phát triển con người; phải tạo ra môi trường
thuận lợi để người lao động có thể bộc lộ được hết những khả năng của mình, tạo ra nhiều
của cải cho xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp như: đổi mới hơn nữa
về mặt nhận thức của người lao động Việt Nam trong quá trình xây dựng lực lượng sản
xuất mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xác định đúng đắn vị trí, vai trò
làm chủ của người lao động trong hệ thống sản xuất; quan tâm đúng mức đến lợi ích kinh
tế của người lao động, thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế; mở rộng và nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo đối với người lao động, nâng cao mặt bằng dân trí đối với toàn xã
hội; xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc phát huy nhân tố con người.
Đó là những giải pháp khá toàn diện nhằm phát huy cả thể lực, tâm lực và trí lực của
người lao động ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đã khẳng định vai trò to lớn của việc phát
huy nhân tố con người đối với sự phát triển của đất nước: “Phát huy nhân tố con người ở
nước ta hiện nay thực chất là phát huy một trong những thế mạnh của nội lực đất nước
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, không còn nghi ngờ gì
nữa đó chính là chiếc chìa khóa của việc dẫn tới thành công công cuộc đổi mới hiện nay”
[76, tr.228].
22
Những giải pháp mà tác giả đưa ra có giá trị tham khảo nhất định đối với tác giả
luận án.
Trong Luận án Tiến sĩ Triết học Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với
vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay [37], tác giả Trần Thanh Đức cũng dành một phần của luận án để đưa ra những
giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả đào tạo người lao động nhằm phát huy nhân tố con
người trong lực lượng sản xuất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện đại hóa
đất nước. Mặc dù những thực trạng đó xuất phát từ thực trạng của vấn đề đào tạo người
lao động trong lực lượng sản xuất ở Đồng bằng Sông Cửu Long nhưng nó cũng có giá trị
nhất định đối với luận án khi đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện trình độ của người lao
động trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam nói chung. Những giải pháp đó là:
Đổi mới nội dung và phương thức người lao động; đổi mới phương pháp và hiện đại hóa
phương tiện đào tạo người lao động; kết hợp giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên
nghiệp trong đào tạo người lao động; hoàn thiện hệ thống các trường chuyên nghiệp, nhất
là hệ thống các trường đại học và cao đẳng cộng đồng; đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng
người lao động thuộc khu vực nông nghiệp, nông thôn; tăng cường các nguồn lực tài
chính cho giáo dục và đào tạo; xây dựng đội ngũ nhà giáo - nhân tố quan trọng để nâng
cao chất lượng đào tạo người lao động. Những giải pháp này nhấn mạnh đến việc đào tạo
để nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động. Nó cũng có ý nghĩa tham khảo nhất
định đối với những giải pháp về đào tạo nghề cho lao động ở Việt Nam.
Gần đây, tác giả Lương Công Lý trong Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục -
đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay [58]
cũng dành chương 4 của Luận án để đưa ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Những giải pháp đó là: Đẩy mạnh đổi mới nội dung,
chương trình, phương pháp, hình thức giáo dục - đào tạo để phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở các trường Đại học hiện nay; phát triển số lượng, nâng cao chất
lượng đội ngũ làm công tác giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở các trường Đại học hiện nay; nâng cao tính tích cực tự giác tự học, tự
nghiên cứu của giảng viên và sinh viên; đổi mới công tác quản lý, đánh giá kết quả học
tập, thực hành của quản lý và giảng viên; nâng cao nhận thức của toàn xã hội, đổi mới
23
chính sách trọng dụng nhân tài, đầu tư có trọng điểm cơ sở giáo dục - đào tạo tiên tiến,
tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và giáo dục thể chất cho sinh viên các
trường Đại học. Mặc dù đó là những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực ở Việt Nam nói chung nhưng những giải pháp này cũng có giá trị tham khảo với
luận án trong việc đẩy mạnh giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao trình độ, tay nghề cho
nguồn lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm phát huy nhân tố
người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nói chung, còn có những công trình,
những bài viết đưa ra những giải pháp nhằm phát huy nguồn lao động ở một lĩnh vực
cụ thể, một nhóm lao động cụ thể hơn.
Trong bài viết “Dạy nghề đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp: Xu thế và giải
pháp”, tác giả Nguyễn Hồng Minh đã chỉ ra rằng, nhu cầu về lao động đã qua đào tạo
nghề ở nước ta cho đến năm 2020 vẫn còn rất lớn, nhất là những ngành mũi nhọn được
đầu tư cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện đại. Bởi vậy, theo tác giả, để đáp ứng những
nhu cầu đó, cần đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động, gắn với nhu cầu
của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng dạy nghề ở nước ta như: Xây dựng cơ chế, chính sách với các doanh
nghiệp tham gia đào tạo nghề, hoàn thiện mạng lưới cơ sở dạy nghề, tăng cường quản
lý của cả cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề cho người lao
động. Tác giả khẳng định việc tham gia đào tạo nghề cho người lao động là trách
nhiệm của cả xã hội và cả doanh nghiệp tiếp nhận người lao động. Những giải pháp
mà tác giả đưa ra có ý nghĩa nhất định trong việc góp phần cải thiện công tác dạy nghề
cho lao động ở các doanh nghiệp hiện nay.
Trong bài viết “Những khó khăn trong hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật tại
doanh nghiệp - Nguyên nhân và giải pháp” [3], tác giả Nguyễn Vân Thùy Anh cũng
chỉ ra rằng các doanh nghiệp hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cung
công nhân kỹ thuật từ lực lượng học sinh tốt nghiệp từ các trường dạy nghề. Nhìn
chung, công tác đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Dựa trên
những kết quả khảo sát và nghiên cứu thực tế của mình, tác giả đã đề xuất một số giải
pháp như: làm tốt công tác thu hút, tuyển mộ, tuyển chọn công nhân kỹ thuật; hoàn
24
thiện các phương pháp đào tạo cho phù họp với trình độ của người học; đầu tư có
chiều sâu vào việc phát triển cơ sở vật chất và đội ngũ chuyên gia, giáo viên dạy nghề;
hoàn thiện hệ thống chính sách, quy chế đào tạo, quy chế đánh giá kết quả của việc
đào tạo nghề.
Ngoài những công trình nghiên cứu bàn trực tiếp đến những giải pháp nhằm
phát huy nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam nói riêng còn có
những công trình nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực
của nước ta nói chung. Tiêu biểu là các công trình như: “Đào tạo nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên tri thức ở nước ta hiện nay” của tác giả
Đặng Hữu [48]; “Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa [74]; “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức” của
tác giả Nguyễn Văn Sơn [86]; “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội nhanh và bền vững” của tác giả Chu Văn Cấp [11]; “Vấn đề phát triển
nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An
hiện nay”, Luận ánTiến sĩ Triết học của tác giả Nguyễn Thị Tùng [100]… Những giải
pháp mà các tác giả đưa ra có giá trị tham khảo nhất định đối với tác giả luận án khi
đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của
lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu của các học giả trong nước về nguồn
nhân lực của Việt Nam còn có những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về nguồn
nhân lực, người lao động của một số nước phát triển trong khu vực. Tác giả luận án
chọn để tổng quan những công trình này vì nó đã đưa ra một số giải pháp có giá trị
tham khảo nhất định đối với việc nâng cao chất lượng người lao động đáp ứng yêu cầu
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam. Tác giả William Pounstone [106] đã
chỉ ra những giải pháp quan trọng của Nhật Bản trong việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Đó là việc xây dựng một nền giáo dục mang tính thực tế cao thông qua việc
gắn giáo dục lý thuyết với việc rèn luyện kỹ năng thực hành. Nhờ vậy, Nhật Bản đã
tạo cho mình một đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật khá cao, bảo đảm không
những tiếp thu kỹ thuật, công nghệ của phương Tây mà còn dần tiến tới làm chủ sáng
25
tạo, trở thành một trong những nước hàng đầu về sản xuất công nghệ và sáng tạo kỹ
thuật của thế giới.
Tác giả Lưu Ngọc Trịnh [103] đã chia sẻ những kinh nghiệm của Nhật Bản
trong chiến lược con người để tạo ra bước nhảy “thần kỳ” của nền kinh tế. Theo tác
giả, Nhật Bản là một nước đứng hàng đầu thế giới trong việc phát huy tính tích cực
của người lao động thông qua việc tập trung vào yếu tố tâm lý và kinh tế. Theo tác giả,
“sự kết hợp một cách tài tình yếu tố tâm lý và kinh tế đã góp phần tạo nên những
người lao động luôn toàn tâm, toàn ý vì công việc chung, vì sự phồn vinh của công ty.
Do đó, không ở đâu người lao động lại trung thành và gắn bó với công ty của mình
như ở Nhật Bản” [103, tr.61]. Cũng theo tác giả, nét đặc sắc nhất trong việc động viên
tính tích cực của người lao động Nhật Bản là kích thích về tâm lý và đạo đức thông
qua việc xây dựng mô hình “văn hóa công ty”. “Văn hóa công ty” được hiểu là toàn bộ
những giá trị tinh thần được xây dựng và hình thành xung quanh hoạt động sản xuất,
kinh doanh của họ. Nó bao gồm những nguyên tắc, nghi lễ cùng với những hoạt động
tinh thần thể hiện sự gắn bó, gắn kết giữa những người lao động với nhau và cả gia
đình họ với các cơ quan, xí nghiệp. Tất cả những hoạt động này tạo ra môi trường
thuận lợi và trở thành động lực quan trọng kích thích tính sáng tạo, tinh thần tích cực,
ý thức trách nhiệm của người lao động. Cách thức này hiện nay đã được các nước Đài
Loan, Singapore, Hàn Quốc… áp dụng nhằm kích thích người lao động phát triển kinh
tế - xã hội. Đây cũng là một yếu tố quan trọng tạo ra “kỳ tích” và bước phát triển “thần
kỳ” của một số nước Đông Á hiện nay.
Một số tác giả Trung Quốc trong cuốn sách “Thuật dùng người” [92] đã chia sẻ
những cách thức của một số nước trong khu vực trong việc khai thác năng lực sáng tạo
của người lao động. Ở Nhật Bản, mỗi công ty đều luôn có sẵn những hòm phiếu để thu
nhận những sáng kiến của người lao động. Điều đó không chỉ cho thấy sự coi trọng
người lao động mà còn là lòng tin đối với khả năng sáng tạo của người lao động, giúp
cho các công ty Nhật Bản có được đội ngũ nhân viên giàu óc sáng tạo, dám mạnh dạn
đề xuất và thực hiện những ý tưởng mới trong kinh doanh. Học tập kinh nghiệm này
của Nhật Bản, các nước Hàn Quốc, Singapore cũng có cơ chế mở rộng cánh cửa cho
người lao động có điều kiện đề xuất sáng kiến và thực hiện ý tưởng của mình. Nhờ hệ
thống thu nhận sáng kiến thuận lợi và linh hoạt nên các công ty của các quốc gia này
26
thường nhận được nhiều sáng kiến của các cá nhân. Qua đó, họ không những tiếp thu
và làm chủ được kỹ thuật tiên tiến của phương Tây mà còn có khả năng tạo ra công
nghệ mới ứng dụng vào sản xuất. Các tác giả khẳng định: “Khả năng sáng tạo là nguồn
tiềm năng vô hạn của con người; càng khai thác, càng sử dụng nó càng phát triển.
Chính sách của mỗi quốc gia phải trọng dụng được nguồn tiềm năng này thì kinh tế
mới nhanh chóng phát triển” [92, tr.162]. Những cách thức, giải pháp của các nước
phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore… trong việc sử dụng
người lao động cũng có ý nghĩa tham khảo nhất định đối với Việt Nam trong phát triển
người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại.
1.4. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ TỔNG QUAN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, LÀM SÁNG TỎ THÊM
1.4.1. Giá trị của những công trình đã tổng quan
Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án nêu trên đã bàn đến
những vấn đề lý luận cơ bản về nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại ở Việt Nam. Có thể khái quát những nội dung nghiên cứu và giá trị của
những công trình đó trên các khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu trên đã trình bày khá cụ thể những vấn
đề lý luận rất cơ bản về lực lượng sản xuất và lực lượng sản xuất hiện đại, vai trò của
nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Các tác giả đều
khẳng định người lao động chính là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản
xuất hiện đại. Có tác giả còn nhấn mạnh, trong thời đại ngày nay, dù khoa học - công
nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa sự phát triển của lực lượng sản
xuất nhưng không vì thế mà nó đẩy người lao động đứng bên ngoài quá trình sản xuất.
Trong bất cứ thời đại nào, người lao động vẫn luôn là chủ thể của quá trình sản xuất
vật chất.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu trên ở những góc độ nhất định đã phân
tích được những ưu điểm và hạn chế của nhân tố người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất cả về thể lực; trình độ, tay nghề; tâm lý sản xuất, ý thức trách nhiệm, ý
thức bảo vệ môi trường sinh thái. Đặc biệt, các tác giả đều đánh giá, người lao động
nước ta về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của nền sản
xuất hiện đại.
27
Thứ ba, những công trình nghiên cứu trên cũng đã đưa ra một số quan điểm và
những giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát huy nhân tố người lao động trong phát triển
lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. Trong những công trình đó,
có nhiều tác giả nhấn mạnh đến những giải pháp về đào tạo nghề cho người lao động
để cải thiện chất lượng nguồn lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
Tuy vậy, nhìn chung vẫn chưa có nhiều những công trình nghiên cứu chuyên
sâu bàn đến nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam. Các
công trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất trước đây cũng chưa bàn nhiều đến đặc
điểm của lực lượng sản xuất hiện đại, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa, kinh tế tri
thức, cũng như yêu cầu đối với nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện
đại ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, tác giả luận án xác định đây là vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm
Trên cơ sở tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung của
luận án, tác giả nhận thấy có một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và làm sáng
tỏ thêm như sau:
Thứ nhất, trước tác động của quá trình toàn cầu hóa và kinh tế tri thức cùng với
tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới, lực lượng sản xuất
phát triển không ngừng với trình độ ngày càng hiện đại. Vì vậy, cần phải phân tích rõ
những đặc điểm của lực lượng sản xuất hiện đại, so sánh sự khác nhau giữa lực lượng
sản xuất hiện đại và lực lượng sản xuất trước đó; đồng thời tiếp tục luận giải vai trò
của nhân tố người lao động trong điều kiện khoa học - công nghệ hiện đại đang không
ngừng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Từ đó, cũng cần chỉ ra những yêu cầu
của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, để đáp ứng sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện
nay, cần phải chỉ rõ sự khác biệt của yêu cầu về thể lực, trí lực, tâm lực ở người lao
động so với các giai đoạn trước đó. Từ đó, phân tích các yếu tố thể lực, trí lực, tâm lực
của người lao động ở Việt Nam đã đáp ứng ở mức độ nào yêu cầu của lực lượng sản
xuất hiện đại và chưa đáp ứng như thế nào so với yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện
đại.
28
Thứ ba, để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay cần có
những quan điểm và giải pháp có tính khả thi, gắn liền với thực tiễn hiện nay của nước
ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri
thức và hội nhập quốc tế. Những giải pháp được đưa ra cần toàn diện, có tính đồng bộ
nhằm khắc phục những hạn chế cả về thể lực, sức khỏe; trình độ, tay nghề; tâm lý, ý
thức của người lao động.
Tiểu kết chương 1
Qua việc khảo cứu các nguồn tài liệu liên quan đến đối tượng nghiên cứu, có
thể khẳng định, cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu bàn về lực lượng sản xuất,
người lao động trong lực lượng sản xuất, vấn đề phát triển người lao động, nguồn nhân
lực của Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.
Luận án không chỉ là sự kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó về những vấn đề
lý luận về lực lượng sản xuất và nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản
xuất mà còn sự tiếp tục nghiên cứu, triển khai những vấn đề đang đặt ra với sự phát
triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Những khoảng trống về mặt lý luận cũng như
tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh mới hiện nay đã thôi thúc tác giả
lựa chọn vấn đề “Nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận án.
29
Chương 2
NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN ĐẠI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
2.1. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI
2.1.1. Lực lượng sản xuất
2.1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Việc nghiên cứu rõ nội hàm của khái niệm này là cơ sở để hiểu toàn bộ sự vận động và
phát triển của quá trình sản xuất vật chất trong lịch sử xã hội loài người. Vì vậy, các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã sớm nghiên cứu về khái niệm lực lượng sản xuất.
Trong các tác phẩm của mình, mặc dù C.Mác không trực tiếp đưa ra khái niệm lực
lượng sản xuất nhưng nội hàm của khái niệm này đã được ông đề cập đến ngay từ
những tác phẩm đầu tay.
Năm 1845, khi viết tác phẩm “Về cuốn sách của Phiđrích Lixtơ “Học thuyết
dân tộc về kinh tế chính trị học””, C.Mác đã phê phán quan điểm duy tâm của Lixtơ về
lực lượng sản xuất khi Lixtơ cho rằng lực lượng sản xuất mang “bản chất tinh thần”,
nó là cái vô hạn. Theo C.Mác, lực lượng sản xuất không phải là cái “bản chất tinh
thần” nào đó mà là những cái có sức mạnh vật chất. C.Mác viết: “Để xua tan vầng hào
quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất”, chỉ cần mở ra bản tổng quan thống
kê đầu tiên ta gặp là đủ. Ở đó có nói về sức nước, sức hơi nước, sức người, sức ngựa.
Tất cả những thứ ấy đều là lực lượng sản xuất“ [69, tr.338].
Từ quan điểm duy vật về đời sống của con người nói chung và về lực lượng sản
xuất nói riêng, trong các tác phẩm tiếp theo như “Hệ tư tưởng Đức”, “Sự khốn cùng
của triết học”, “Lao động làm thuê và tư bản”, “Tiền công giá cả và lợi nhuận”, đặc
biệt là trong bộ “Tư bản”, nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất ngày càng được
C.Mác và Ph.Ăngghen làm sáng tỏ và có nội dung sâu sắc hơn. Đó cũng là cơ sở khoa
học cho việc nhận thức bản chất, động lực của sự phát triển lịch sử - xã hội thông qua
hoạt động lao động của con người.
Xuất phát điểm trong nghiên cứu của C.Mác về lịch sử - xã hội là hoạt động sản
xuất vật chất của con người hiện thực. Theo C.Mác, bản thân con người bắt đầu phân
30
biệt với động vật khi sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt phục vụ cho những nhu cầu thiết
yếu của mình. C.Mác viết: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra
lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra
những tư liệu để thỏa mãn nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” [61,
tr.42].
Ph.Ăngghen cũng coi sản xuất là tiêu chí để phân biệt sự khác nhau giữa con
người và loài vật: “Điểm khác biệt giữa xã hội loài người với loài vật là ở chỗ: loài vật
may mắn chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất” [68, tr.241]. Như vậy, tiền đề
đầu tiên cho sự tồn tại của con người là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn
những nhu cầu thiết yếu. Đó là việc sản xuất ra chính đời sống vật chất của con người.
Đồng thời với quá trình đó, con người cũng sáng tạo ra các mặt của đời sống xã hội.
C.Mác viết: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính mỗi
một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một
cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền,
nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta” [64, tr.500].
Quan điểm này đã khẳng định tính triệt để trong quan niệm duy vật về lịch sử của chủ
nghĩa Mác.
Cũng theo C.Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng của con người. Đó
là hoạt động cơ bản nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của con người. Trong quá
trình sản xuất vật chất, con người đồng thời có hai mặt quan hệ. Một mặt, con người
quan hệ với tự nhiên, còn mặt khác, con người quan hệ với nhau. Mặt con người quan
hệ với tự nhiên chính là biểu thị của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, không phải mọi
quan hệ của con người với tự nhiên đều là lực lượng sản xuất (chẳng hạn như quan hệ
tình cảm, quan hệ thẩm mỹ, quan hệ nhận thức…). Chỉ có những quan hệ mà trong đó
sự tác động giữa con người với tự nhiên tạo thành của cải vật chất phục vụ cho những
nhu cầu của con người, đồng thời giúp con người cải biến chính bản thân mình mới
được gọi là lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình
cải biến giới tự nhiên. Khi tiến hành sản xuất vật chất, con người đã dùng những công
cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ cho
31
những nhu cầu thiết yếu của mình. Cũng trong quá trình đó, con người đã nắm bắt
được những quy luật của tự nhiên, biến giới tự nhiên từ chỗ hoang sơ, thuần phác trở
thành “thế giới thứ hai” với sự tham gia của bàn tay và khối óc của con người. Sản
xuất vật chất luôn thay đổi nên lực lượng sản xuất là một yếu tố động và là một quá
trình luôn được đổi mới và phát triển không ngừng.
Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định. Chính vì vậy, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác đã
khẳng định như sau:
Lịch sử chẳng qua là sự tiếp nối của những thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thế
hệ khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất
cả các thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động
được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và một mặt
khác lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay
đổi” [61, tr.65].
Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về lực lượng sản xuất. Theo các
nhà mácxít ở Trung Quốc: “Lực lượng sản xuất là năng lực thực tế của con người được
hình thành trong hoạt động sản xuất vật chất để giải quyết mâu thuẫn giữa tự nhiên và
xã hội, là sức mạnh vật chất để con người cải tạo tự nhiên, làm cho tự nhiên thích ứng
với nhu cầu xã hội” [32, tr.405].
Theo quan điểm trên, khi nói đến lực lượng sản xuất, người ta nhấn mạnh đến
“năng lực thực tế” của con người trong quá trình sản xuất vật chất. Do đó, lực lượng
sản xuất chính là sự thể hiện “sức mạnh vật chất” của con người trong việc cải tạo tự
nhiên theo mục đích của mình. Quan điểm trên tuy đã phản ánh được khía cạnh bản
chất của lực lượng sản xuất nhưng chưa nói lên được nội hàm cấu trúc của lực lượng
sản xuất.
Cũng gần với quan điểm trên, trong Giáo trình triết học Mác - Lênin năm 2006,
lực lượng sản xuất cũng được hiểu như sau: “Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn
cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình” [7,
tr.289]. Quan điểm này cũng nhấn mạnh đến “năng lực thực tiễn” của con người trong
việc cải biến giới tự nhiên - một khía cạnh quan trọng của nội hàm khái niệm lực
32
lượng sản xuất nhưng cũng chưa nói lên được các bộ phận cấu thành của lực lượng sản
xuất.
Trong Giáo trình Triết học (dùng cho cao học không chuyên ngành triết học),
lực lượng sản xuất được hiểu là “thể thống nhất hữu cơ giữa người lao động và tư liệu
sản xuất (trước hết là công cụ lao động) để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định”
[78, tr.134]. Định nghĩa này đã chỉ ra hai bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất là
người lao động và tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động) và sự thống nhất
hữu cơ của chúng với nhau.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, theo tác
giả luận án, lực lượng sản xuất là một khái niệm dùng để chỉ sự kết hợp giữa người lao
động với tư liệu sản xuất theo một cách thức nhất định để tạo ra một sức sản xuất
nhằm cải biến giới tự nhiên, đáp ứng nhu cầu của con người và phát triển kinh tế - xã
hội.
Trước đây, khi nói về lực lượng sản xuất, người ta thường nhấn mạnh đó là khả
năng con người chinh phục giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật
chất, thỏa mãn nhu cầu của mình và phát triển xã hội. Vì vậy, trong mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, giới tự nhiên thường chỉ được
xem là đối tượng để con người chinh phục. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ngoài việc là
đối tượng để con người chinh phục, giới tự nhiên còn có thể tạo ra những bất lợi, gây
nên những khó khăn cho con người trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. Vậy
nên, để có thể tồn tại, con người cần phải có những hiểu biết về giới tự nhiên, điều
chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với tự nhiên. Do đó, nếu chỉ nhấn mạnh đến
mặt chinh phục giới tự nhiên và coi đó là thước đo cho sự phát triển trình độ của lực
lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử thì con người sẽ ngày càng can thiệp thô bạo
vào giới tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình. Hơn nữa, “quan
niệm như vậy không chỉ hạn chế nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất mà còn
khó dung nạp với quan niệm mới về phát triển bền vững, phát triển liên tục” [90, tr.9].
Sự can thiệp thô bạo và sự tàn phá giới tự nhiên đã từng được Ph.Ăngghen cảnh báo
trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” như sau: “Mỗi lần ta đạt được một thắng lợi
là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta” [65, tr.654]. Bởi vậy, để bảo đảm cho sự
33
phát triển bền vững, cần tính đến việc phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn
lọc.
Như vậy, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người, là thước
đo trình độ cải biến giới tự nhiên của con người ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Sự
cải biến ấy có thể được hiểu là con người ngày càng thấu hiểu giới tự nhiên, chung
sống hòa bình với giới tự nhiên bởi thực tế cho thấy, chỉ có thể thấu hiểu và chung
sống hòa bình với tự nhiên, con người mới có thể được hưởng những lợi ích tốt nhất
mà giới tự nhiên mang lại. Do đó, lực lượng sản xuất trong điều kiện hiện nay không
chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người mà còn phải đảm bảo mối quan hệ
hài hòa giữa con người và giới tự nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững.
2.1.1.2. Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất
Trong một số tác phẩm như “Hệ tư tưởng Đức”, “Sự khốn cùng của triết học”,
“Lao động làm thuê và tư bản”, “Tiền công giá cả và lợi nhuận”, “Tư bản”..., các nhà
sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử đã bàn đến những yếu tố cấu thành của lực lượng
sản xuất. Theo C.Mác, để cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất, con
người cần phải có một sức mạnh tổng hợp. Trước hết, đó là sức mạnh thể chất và trí
tuệ - những yếu tố tạo nên khả năng lao động của con người: “Để chiếm hữu được
thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con
người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay, chân, đầu và hai bàn
tay” [66, tr.266]. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì quá trình sản xuất vật chất vẫn
chưa thể diễn ra. Ngoài bản thân chủ thể lao động, con người cần có những yếu tố
khác như cần “sử dụng những thuộc tính cơ học, lý học, hóa học của các vật để tùy
theo mục đích của mình, dùng những vật đó làm công cụ tác động vào các vật khác”
[66, tr.268]. Những vật đó được C.Mác gọi là “khí quan” giúp con người có khả năng
nối dài đôi bàn tay và làm cho quá trình tác động vào tự nhiên trở nên có hiệu quả hơn.
Theo quan điểm của C.Mác, có hai yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất
là tư liệu sản xuất và người lao động.
Tư liệu sản xuất bao gồm hai yếu tố cơ bản là tư liệu lao động và đối tượng lao
động. Điều này đã được chỉ rõ trong tác phẩm “Tư bản”: “Cả tư liệu lao động và đối
tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất” [66, tr.271].
34
Đối tượng lao động bao gồm những bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào
trong sản xuất. Đối tượng lao động bao gồm hai loại:
Một là, những đối tượng thuần túy tự nhiên. Đó là những đối tượng có sẵn trong
tự nhiên, do tự nhiên cung cấp. Nó được coi là đối tượng lao động khi con người tác
động vào nó để tạo ra của cải vật chất, chẳng hạn như đất đai được dùng trong sản xuất
nông nghiệp.
Hai là, những đối tượng lao động nhân tạo. Đó là những đối tượng không có
sẵn trong tự nhiên mà do con người tạo ra. Xuất phát của nó cũng là những sự vật vốn
có của tự nhiên nhưng đã được tích lũy một lượng lao động xã hội nhất định, được con
người cải tạo và tiếp tục đưa vào quá trình sản xuất tiếp theo, chẳng hạn như những
nguyên liệu mới được dùng trong xây dựng.
C.Mác đã phân biệt hai loại đối tượng này như sau: “Mọi nguyên liệu đều là đối
tượng lao động nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. Đối
tượng lao động chỉ trở thành nguyên liệu sau khi đã trải qua một số biến đổi nào đó do
lao động gây ra” [66, tr.268]. Quan điểm trên của C.Mác về đối tượng lao động đã cho
thấy mặc dù hầu hết các đối tượng lao động được sử dụng trong các ngành sản xuất
đều in dấu ấn của lao động - là những đối tượng lao động do con người tạo ta nhưng
tất cả chúng đều có nguồn gốc từ tự nhiên, xuất phát từ tự nhiên. Vì vậy, đây là một
trong những cơ sở quan trọng để khẳng định lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
Sự phân biệt hai loại đối tượng lao động là đối tượng lao động thuần túy tự
nhiên và đối tượng lao động do con người tạo ra có ý nghĩa nhất định trong việc khẳng
định vai trò, vị trí của người lao động trong quá trình sản xuất vật chất. Người lao
động không chỉ tận dụng những đối tượng lao động sẵn có mà còn biết chế tạo ra
những đối tượng lao động mới để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình.
Ngoài đối tượng lao động, tư liệu sản xuất còn bao gồm tư liệu lao động. Tư
liệu lao động là những yếu tố mà con người dùng để tác động vào đối tượng lao động
nhằm tạo ra của cải vật chất. Điều này đã được C.Mác nhấn mạnh: “Nhờ những tư liệu
lao động, sự hoạt động của con người làm cho đối tượng lao động phải biến đổi theo
một mục đích đã định trước” [66, tr.271]. Nếu đối tượng lao động là cái thụ động, phụ
thuộc rất nhiều vào sự tác động của con người thì tư liệu lao động là một yếu tố động.
35
Tư liệu lao động bao gồm hai yếu tố là công cụ lao động và phương tiện lao
động. Công cụ lao động là những vật dùng làm trung gian để người lao động tác động
vào đối tượng lao động; phương tiện lao động là những điều kiện vật chất cần thiết của
quá trình lao động. Trong hai yếu tố trên, công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách
mạng nhất. Chúng là những vật được con người tạo ra và sử dụng để trực tiếp tác động
vào đối tượng lao động nhằm cải biến chúng, tạo ra của cải vật chất. Vì thế, C.Mác gọi
công cụ lao động chính là “hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất”. Chúng luôn
được cải tiến, đổi mới, có ý nghĩa quan trọng quyết định năng suất lao động và là
thước đo về trình độ cải tạo tự nhiên của con người. Do đó, theo C.Mác, công cụ lao
động chính là yếu tố đặc trưng cho mỗi thời đại sản xuất xã hội khác nhau: “Những
thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [66, tr.269].
Ngoài tư liệu sản xuất được coi là yếu tố cần thiết của quá trình sản xuất, C.Mác
khẳng định cần phải có người lao động. Theo C.Mác, yếu tố vật thể sẽ không có bất cứ
tác dụng nào nếu không có một lực lượng xã hội để tiến hành sản xuất vật chất. Tư liệu
sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có sự tác động của con người. Điều này đã
được C.Mác khẳng định như sau:
Giới tự nhiên không chế tạo ra bất kỳ máy móc nào, không chế tạo ra xe
hơi, đường sắt, điện báo, máy dệt... Chúng là sản phẩm lao động của con
người, đã biến thành vật chất tự nhiên của ý chí con người điều khiển tự
nhiên hoặc bộ máy hoạt động của con người trong giới tự nhiên. Chúng là
cơ quan đầu não của con người được sáng tạo bởi bàn tay con người; là lực
lượng tri thức được vật hóa [32, tr.408].
Như vậy, nếu không có con người biết chế tạo, sử dụng công cụ lao động, tác
động vào giới tự nhiên thì sẽ không có quá trình sản xuất vật chất.
Với tính cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất, người lao động
là những người có khả năng lao động, nghĩa là phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức
mạnh trí tuệ mà C.Mác đã gọi cụ thể là có “đầu óc” và “đôi bàn tay”. Ngoài ra, người
lao động cũng cần phải có kinh nghiệm, những kỹ năng, kỹ xảo trong lao động. C.Mác
viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được
36
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [71, tr.215].
Như vậy, người lao động không phải là con người nói chung và không phải người nào
có sức mạnh thể chất và tinh thần cũng được coi là người lao động. Chỉ những người
nào dùng sức mạnh thể chất và tinh thần của mình tham gia vào quá trình sản xuất vật
chất nhằm tạo ra của cải mới được coi là người lao động với tư cách là yếu tố cấu
thành của lực lượng sản xuất.
C.Mác đã khẳng định hoạt động sản xuất chính là một dạng hoạt động chỉ có ở
con người, nó khác hẳn về chất so với hoạt động của con vật:
Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và
bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong phải làm cho một
số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến
trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong
bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu mình rồi. Cuối quá
trình lao động, người lao động thu được cái kết quả mà họ đã hình dung
ngay từ đầu quá trình ấy, tức là đã có trong ý niệm rồi [61, tr.260-261].
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, trước hết người lao động đem nhập vào
các yếu tố của lực lượng sản xuất sức mạnh cơ bắp của mình. Tuy nhiên, nếu chỉ tiến
hành sản xuất bằng các khí quan vật chất thuần túy của cơ thể thì con người sẽ không
bao giờ tiến xa hơn động vật. Vì con người là một sinh vật xã hội nên ngoài sức mạnh
cơ bắp, khi tham gia vào quá trình sản xuất, con người còn có cả trí tuệ và toàn bộ hoạt
động tâm sinh lý và ý thức của họ nên lao động của họ trở nên khéo léo, linh hoạt,
uyển chuyển, năng động, sáng tạo hơn. Chính điều này làm cho các quá trình sản xuất
vật chất có thể giống nhau ở máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào nhưng những
sản phẩm đầu ra của những lao động khác nhau lại rất khác nhau. Điều đó cho thấy rõ
vai trò quyết định của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất.
Từ việc phân tích các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất
và người lao động cùng mối quan hệ của chúng với nhau, có thể rút ra một số khía
cạnh cơ bản của nội hàm khái niệm lực lượng sản xuất như sau:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất là một thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố cấu
thành, trong đó yếu tố con người đóng vai trò quyết định quá trình sản xuất vật chất,
còn những yếu tố vật thể là điều kiện của quá trình sản xuất đó. Các yếu tố này tuy có
37
vai trò, vị trí khác nhau nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại
để tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Thứ hai, lực lượng sản xuất luôn có tính lịch sử, gắn liền với một phương thức
sản xuất nhất định, dựa trên sự kết hợp giữa các yếu tố cấu thành của nó. Nếu các yếu
tố như người lao động và những điều kiện vật chất không được kết hợp với nhau thì sẽ
không tạo ra những biến đổi trong sản xuất vật chất. Khi đó, sẽ không có lực lượng sản
xuất. Mỗi thời đại kinh tế khác nhau có những cách thức khác nhau trong việc sản xuất
vật chất. Lực lượng sản xuất cũng luôn có tính kế thừa và có sự phát triển không
ngừng. Trong quá trình sản xuất vật chất, người lao động có thể kế thừa những kỹ
năng, kinh nghiệm, tri thức sản xuất của những người đi trước; cũng có thể kế thừa
những công cụ lao động, tận dụng những đối tượng lao động, phương tiện lao động do
thế hệ trước tạo ra. Vì vậy, khi một người nào đó bắt tay vào quá trình sản xuất, họ đã
có sẵn một lực lượng sản xuất của xã hội, được thừa hưởng lực lượng sản xuất của thế
hệ đi trước để lại làm cơ sở cho việc duy trì và phát triển sản xuất. Trên cơ sở đó, trong
quá trình sản xuất tiếp theo, người lao động không ngừng tạo ra những lực lượng sản
xuất mới và đến lượt mình, những lực lượng sản xuất ấy lại trở thành cơ sở cho những
quá trình sản xuất tiếp theo.
Thứ ba, lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa người lao động
với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất. Nó không tồn tại bên ngoài hoạt
động của con người mà chính là sức mạnh được hình thành trong quá trình lao động
của con người và do con người trực tiếp điều khiển, chi phối. Vì vậy, lực lượng sản
xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong việc cải tạo giới tự nhiên. Thực
chất của lực lượng sản xuất là việc người lao động từng bước tác động vào tự nhiên để
tạo ra của cải vật chất nhằm phục vụ những nhu cầu của mình và phát triển kinh tế - xã
hội.
2.1.2. Lực lượng sản xuất hiện đại
2.1.2.1. Khái niệm lực lượng sản xuất hiện đại
Trong thời đại ngày nay, những thành tựu của khoa học - công nghệ đã góp
phần quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, góp phần làm hiện đại hóa
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên tất cả các yếu tố cấu thành của nó. Vì
vậy, khi nghiên cứu về lực lượng sản xuất, người ta rất chú ý phân tích đến tính hiện
38
đại của lực lượng sản xuất. Nhiều ý kiến đề cập đến phán đoán của C.Mác về vai trò
của khoa học với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp, coi đó là đặc trưng cơ bản của
lực lượng sản xuất hiện đại. Tuy nhiên, khi phân tích sự phát triển của lực lượng sản
xuất, mặc dù nhấn mạnh đến vai trò của khoa học nhưng C.Mác không xem nhẹ vai trò
của nhân tố người lao động. C.Mác vẫn coi người lao động là nhân tố quyết định trong
lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ điều này, trước hết cần phân tích quan điểm của C.Mác
về khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Theo quan điểm của C.Mác, sự phát triển của khoa học đóng vai trò to lớn đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bằng những nghiên cứu một cách khoa học,
C.Mác đã đưa ra một phán đoán:
Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến
(wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của quá
trình sống của xã hội đã phục tùng đến một mức độ nào sự kiểm soát của trí
tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào không những dưới hình
thức tri thức mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những
cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực [71, tr.372].
Theo luận điểm trên của C.Mác, tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định
như: nhà xưởng, máy móc được dùng trong sản xuất chuyển hóa đến một mức độ nhất
định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nghĩa là, tri thức khoa học được
ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất của con người và
được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. Do đó, nó trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
được C.Mác khẳng định như sau:
Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền
đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các
môn khoa học đều được phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc
hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một
nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản
xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết
định và kích thích [71, tr.367].
39
Luận điểm trên của C.Mác cho thấy khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất
với điều kiện là khoa học phải tồn tại dưới dạng lao động được vật hóa thành máy
móc. Điều đó cũng có nghĩa là khoa học tự bản thân nó không thể tạo ra bất kỳ tác
động nào mà phải thông qua sự vận dụng và hoạt động thực tiễn của con người thì
khoa học mới có thể phát huy được tác dụng của nó. Điều này đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định lại khi bàn đến tư tưởng, lý luận nói chung: “Vũ khí của sự
phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực
lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [59, tr.580] và “Tư tưởng căn
bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những
con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [60, tr.181]. Trong bài Điếu văn đọc tại lễ an
táng của C.Mác, khi đề cao vai trò của C.Mác trong việc phát hiện ra chủ nghĩa duy
vật lịch sử, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Đối với Mác, khoa học là một động lực lịch
sử, một lực lượng cách mạng” [64, tr.500]. Quan điểm trên thống nhất với nhận định
của C.Mác về vai trò của khoa học trong sự phát triển của sản xuất vật chất và của xã
hội.
Quan điểm của C.Mác về vai trò của khoa học và phán đoán khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp được hiểu ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, khoa học vốn là một hệ thống những tri thức được tích lũy trong quá
trình lịch sử, đã được con người vận dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, được vật
hóa trong các thao tác lao động và đem lại những hiệu quả nhất định. Như vậy, từ chỗ
là lực lượng sản xuất tiềm năng, khoa học đã từng bước tham gia trực tiếp vào quá
trình sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ hai, khoa học có sự gắn kết chặt chẽ với kỹ thuật, trở thành cơ sở lý thuyết
cho các phương tiện kỹ thuật, công nghệ mà thông qua đó, khoa học được vật chất hóa
trong các yếu tố vật thể của lực lượng sản xuất. Sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học với
kỹ thuật, công nghệ là một xu thế tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
bởi khoa học muốn phát triển nhanh chóng cần phải có sự trợ giúp của công nghệ hiện
đại; đồng thời, muốn sản xuất ra công nghệ mới đòi hỏi con người phải dựa trên những
phát minh khoa học mới. Điều đó cũng chứng tỏ khoa học gắn bó chặt chẽ và là yếu tố
40
quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày
nay.
Thứ ba, gần đây, thời gian để lý thuyết khoa học đi vào thực tiễn sản xuất ngày
càng được rút ngắn lại. Trong những thế kỷ trước, thời gian từ phòng thí nghiệm đến
thực tế sản xuất thường rất lâu nhưng từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nhờ sự phát triển
không ngừng của khoa học hiện đại, quá trình trên đã được rút ngắn rất nhiều. Dựa
trên việc phân tích sự phát triển của khoa học trong xã hội hiện đại, tác giả Vũ Đình
Cự và Trần Xuân Sầm trong cuốn sách: “Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức”
đã có thống kê cụ thể về thời gian đưa các phát minh vào ứng dụng như sau:
Bảng 1. Thời gian đưa các phát minh khoa học vào ứng dụng
Tên phát minh,
sáng chế
Năm phát minh Năm sản xuất Thời gian
Máy hơi nước 1680 1780 100 năm
Máy bay 1897 1911 14 năm
Tranzito 1948 1953 5 năm
Pin mặt trời 1953 1955 2 năm
Nguồn: [17, tr.175]
Từ bảng thống kê trên, có thể nhận thấy trong những năm gần đây, thời gian
đưa các phát minh từ những phòng thí nghiệm đến các nhà máy sản xuất được rút ngắn
đi rất nhiều. Nhờ đó mà khoa học thâm nhập ngày càng nhanh vào quá trình sản xuất.
Thứ tư, khoa học được thâm nhập vào tất cả các yếu tố cấu thành của lực lượng
sản xuất. Nhờ có khoa học, con người ngày càng tạo ra được nhiều đối tượng lao động
nhân tạo, khắc phục được hạn chế về thời gian sử dụng và một số đặc tính khác của
đối tượng lao động tự nhiên; những đối tượng nhân tạo này cũng thân thiện với môi
trường. Cũng nhờ có khoa học mà công cụ lao động ngày càng được cải tiến, sức lao
động của con người được giải phóng. Cũng nhờ đó mà trình độ, tay nghề, kỹ năng, kỹ
xảo của người lao động không ngừng được nâng cao. Do đó, trong rất nhiều nhà máy,
xí nghiệp, số lượng nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm
tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông
thường. Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về
số lượng và chất lượng. Khoa học cũng đã thâm nhập vào các lĩnh vực khác, không chỉ
41
có khoa học công nghệ - kỹ thuật (phần cứng) mà còn có những ngành khoa học quản
lý, khoa học nhân văn… (phần mềm). Nhờ có khoa học, hoạt động của các nhà lãnh
đạo, quản lý, điều hành sản xuất ngày càng có hiệu quả hơn, góp phần quan trọng
trong việc nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Như vậy,
khoa học không phải là một lực lượng sản xuất độc lập, đứng bên ngoài con người mà
khoa học chỉ có thể tạo ra những biến đổi trong quá trình sản xuất thông qua hoạt động
của con người. Khoa học đã được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất,
góp phần cải tiến công cụ lao động, tạo ra những đối tượng lao động mới, những
phương tiện sản xuất tiên tiến, góp phần nâng cao kỹ năng, tay nghề, trình độ cho
người lao động. Do đó, có thể nói trong thời đại ngày nay, khoa học đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại.
Như vậy, có thể hiểu khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp nghĩa là khoa học
tham gia vào quá trình sản xuất bằng việc tạo ra công nghệ, đề ra và xây dựng phương
pháp tổ chức và quản lý để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
chất lượng và hiệu quả của sản xuất. Vì thế, khoa học chính là một trong những nhân
tố cấu thành không thể thiếu của lực lượng sản xuất hiện đại. Khi phân tích lực lượng
sản xuất của xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt đề cao vai trò của khoa học.
Nền đại công nghiệp ra đời là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra
trên thế giới, bắt đầu từ nước Anh. Theo Ph.Ăngghen, “sở dĩ có cuộc cách mạng đó là
do có sự phát minh ra máy hơi nước, các thứ máy kéo sợi, máy dệt và hàng loạt những
thiết bị máy móc khác. Những máy móc đó làm thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất
tồn tại từ trước đến nay” [62, tr.475]. C.Mác còn khẳng định rằng trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ lịch sử có thể do nhiều yếu tố quyết định trong đó
có một yếu tố rất quan trọng là “mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng
của khoa học vào quá trình công nghệ” [70, tr.69]. Ngày nay, nhờ khoa học phát triển
không ngừng mà tri thức xã hội phổ biến trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, rút
ngắn đáng kể quá trình ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Nếu như trước
đây, cần đến hàng chục năm hoặc vài chục năm để ứng dụng những thành tựu khoa
học vào sản xuất thì ngày nay, quá trình đó ngày càng được rút ngắn, thậm chí, với sự
kết hợp của nhà khoa học và người sản xuất, người ta có thể vừa nghiên cứu, vừa ứng
dụng.
42
Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp phát triển do nhu cầu
khách quan mà đã xuất hiện các "công viên khoa học", "thành phố khoa học", các "khu
công nghệ cao"... nhằm tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi để khoa học, công nghệ
và cơ sở sản xuất gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên một "cơ thể" thống nhất. Chính ở
đây có thể coi phòng thí nghiệm cũng chính là nhà máy, công ty, xí nghiệp; nhà khoa
học đồng thời là người sản xuất kinh doanh. Tại đây, người ta có thể vừa nghiên cứu,
thí nghiệm đồng thời sản xuất đại trà ra các sản phẩm và được lưu thông ngay trên thị
trường; không phân biệt đâu là sản phẩm của phòng thí nghiệm, đâu là sản phẩm của
cơ sở sản xuất. Chính đây là nơi hội tụ đủ điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất để "nhất
thể hoá" quá trình nghiên cứu thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất.
Nhờ thế mà các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ, tạo ra sản phẩm,
thu hút lực lượng lao động có trình độ tri thức và công nghệ cao thông qua hoạt động
quản lý hiện đại mà tăng cường lực lượng sản xuất.
Không thể phủ nhận, những thành tựu to lớn của khoa học - công nghệ hiện đại
đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó
cũng khiến cho những phán đoán của C.Mác về việc khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp càng trở nên đúng đắn. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại gắn liền với sản phẩm điển hình là máy tính điện tử. Nhờ đó, công nghệ hiện
đại đã có bước nhảy vọt làm thay đổi về mọi mặt của sản xuất vật chất và đời sống xã
hội. Từ thời kỳ này, xuất hiện thuật ngữ công nghệ cao. Bên cạnh thuật ngữ công nghệ
cao, người ta còn dùng các thuật ngữ công nghệ mới; công nghệ tiên tiến hay công
nghệ hiện đại; trong đó, thuật ngữ công nghệ cao được sử dụng rộng rãi hơn cả.
Hệ thống công nghệ cao gồm 8 ngành công nghệ cao cơ bản là: Công nghệ thông
tin (hay còn gọi là công nghệ thông tin và truyền thông); Công nghệ sinh học; Công
nghệ vật liệu tiên tiến - công nghệ vật liệu nanô; Công nghệ năng lượng mới; Công nghệ
bảo vệ môi trường; Công nghệ biển và hải dương; Công nghệ hàng không - vũ trụ và
Công nghệ quản lý. Ngoài ra còn có hàng loạt các công nghệ chuyên ngành. Hệ thống
công nghệ cao chính là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới trong nền sản xuất hiện đại
[xem 17, tr.135].
Công nghệ cao ra đời dựa trên thành tựu khoa học mới nhất với hàm lượng tri
thức, hàm lượng khoa học và sáng tạo cao nhất đã xóa nhòa dần ranh giới giữa "khoa
43
học" và "công nghệ”, đã rút ngắn quá trình từ phát minh khoa học đến việc áp dụng
những phát minh đó vào trong sản xuất và đời sống. Chu trình "Khoa học - Công nghệ
- Sản xuất" được gắn kết chặt chẽ nên đã chuyển nhanh chóng tri thức khoa học vào
đời sống xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu lực lượng sản xuất hiện đại là khái niệm
dùng để chỉ sự kết hợp giữa người lao động ở trình độ cao với tư liệu sản xuất tiên
tiến, dựa trên hệ thống công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm có giá trị gia
tăng lớn, có tính bền vững và thân thiện với môi trường sinh thái.
2.1.2.2. Đặc điểm của lực lượng sản xuất hiện đại
Lực lượng sản xuất hiện đại có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học được thẩm thấu vào tất
cả các yếu tố cấu thành của nó, làm thay đổi đáng kể trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất so với những thời đại trước kia.
Nếu trước đây, C.Mác đã từng chỉ ra rằng tất cả công cụ lao động (như máy móc,
đường sắt, điện báo, máy sợi con rọc di động …) đều là sản phẩm lao động của con
người, do “bàn tay con người tạo ra” nên đều là “sức mạnh vật hoá của tri thức”…,
C.Mác “coi khoa học trước hết như cái đòn bẩy mạnh mẽ của lịch sử, như một lực lượng
cách mạng” [64, tr.497] thì đến trình độ phát triển của nền sản xuất hiện nay, tri thức
khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. So với lực lượng sản xuất trước đây,
lực lượng sản xuất hiện đại có một sự khác biệt lớn ở sự gắn kết các khâu, các giai đoạn
của quá trình sản xuất. Nếu như trước đây, các máy móc, nhà xưởng hầu như tách rời
với phòng thí nghiệm, với các cơ quan nghiên cứu khoa học thì ngày nay rất khó phân
biệt hệ thống thiết bị khoa học, các phòng thí nghiệm với hệ thống máy móc của dây
chuyền sản xuất và các xí nghiệp sản xuất công nghệ cao. Thậm chí, các máy móc khoa
học tối tân nhất cũng được đưa ngay vào ứng dụng thực tế gần như ở dạng nguyên mẫu.
Từ thời gian tạo ra sản phẩm ở phòng thí nghiệm đến thời gian tạo ra sản phẩm mang ra
thị trường được rút ngắn chưa từng thấy. Doanh nghiệp, trường đại học và viện nghiên
cứu tích hợp với nhau ngày càng chặt chẽ. Hơn nữa, ngày nay khoa học trong lực lượng
sản xuất hiện đại không chỉ là khoa học - công nghệ mà còn cả khoa học xã hội, những
tri thức về kinh tế học, khoa học quản lý, quy trình sản xuất, tài chính - ngân hàng,
quảng cáo - tiếp thị, tâm lý học, mỹ học, ngôn ngữ học … ngày càng trở thành yếu tố
44
quan trọng của lực lượng sản xuất hiện đại. Như vậy, khoa học đã không còn là những
tri thức đơn thuần mà được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất vật
chất. Đây là đặc điểm nổi bật dễ dàng nhận thấy của lực lượng sản xuất hiện đại.
C.Mác luôn nhấn mạnh đến tính động, thay đổi không ngừng của công cụ lao
động và coi đó là một trong những thước đo về trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất: “Các tư liệu lao động (công cụ lao động) không những là cái thước đo sự phát
triển sức lao động của con người mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội
trong đó lao động được tiến hành” [61, tr.269-270]. Sở dĩ công cụ lao động là biểu
hiện rõ nét nhất trình độ của lực lượng sản xuất vì bản thân các công cụ lao động là sự
kết tinh những tri thức của con người đạt được trong mỗi thời kỳ nhất định. Tính hiện
đại của công cụ lao động cũng có tính lịch sử - cụ thể. Trước đây, khi nói về vai trò
của công cụ lao động, C.Mác nhấn mạnh đến công cụ lao động cơ khí. Ngày nay, tính
hiện đại của công cụ lao động được thể hiện ở máy móc hiện đại với tính tự động hóa
rất cao.
Ngoài công cụ lao động, C.Mác và Ph.Ăngghen còn nhấn mạnh đến những điều
kiện vật chất cần thiết của quá trình lao động. Sự phát triển của nó cũng là biểu hiện
cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đặc
biệt nhấn mạnh đến vai trò của các phương tiện giao thông, đường sắt…bởi nó đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Ngày
nay, bên cạnh những phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt; các phương tiện
giao thông đường không, đường biển cũng góp phần quan trọng trong việc phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại nhất là việc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc
đẩy quá trình toàn cầu hóa sản xuất giữa các quốc gia trên thế giới. Phương tiện lao
động hiện đại đã rút ngắn các quy trình sản xuất - trao đổi, giảm đáng kể chi phí sản
xuất.
Ngoài ra, trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học - công nghệ còn làm thay
xuất hiện những đối tượng lao động mới, có tính năng vượt trội. Ngoài các đối tượng
lao động cũ, trong lực lượng sản xuất hiện đại sẽ xuất hiện ngày càng nhiều những đối
tượng lao động nhân tạo có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao, ít gây tổn hại đến
môi trường cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của lực lượng sản xuất hiện
đại. Những đối tượng lao động nhân tạo được tạo ra bởi công nghệ vật liệu tiên tiến.
45
Trong nền sản xuất hiện đại, mỗi đơn vị sản phẩm có hàm lượng tri thức ngày càng tăng
lên, hàm lượng vật liệu và năng lượng đầu vào ngày càng giảm đi đáng kể. Do đó, tác
động của khí thải trong sản xuất năng lượng sẽ ít đi, làm giảm nguy cơ gây biến đổi khí
hậu toàn cầu. Hơn nữa, việc sử dụng công nghệ cao làm cho lượng chất thải của sản
xuất giảm mạnh, làm giảm tốc độ cạn kiệt tài nguyên, hơn nữa còn tiến tới triệt để tái
chế chất thải, hướng tới nền sản xuất ít hoặc không có chất thải. Việc áp dụng các thành
tựu mới của công nghệ sinh học sẽ hạn chế dùng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu hoá
chất, do đó làm giảm ô nhiễm nguồn nước và suy thoái đất nông nghiệp, bảo tồn được
đa dạng sinh học, giữ được cân bằng các hệ sinh thái … [xem 17, tr.153-154]. Có thể
nói, để phát triển lực lượng sản xuất trước đây, người lao động chủ yếu chỉ biết sử dụng,
tiêu dùng những đối tượng lao động sẵn có trong tự nhiên nên các đối tượng lao động
đều có xu hướng cạn kiệt dần nhưng lực lượng sản xuất hiện đại lại hướng đến sự tái tạo
khi tạo ra “giới tự nhiên thứ hai” thay thế dần cho “giới tự nhiên thứ nhất”. Bằng việc sử
dụng những vật liệu mới bằng công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ năng
lượng..., lực lượng sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm tiêu hao ngày càng ít
năng lượng tự nhiên, ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái, góp phần quan trọng trong
việc phát triển bền vững. Đây chính là điểm khác biệt nổi bật của lực lượng sản xuất
hiện đại so với lực lượng sản xuất trong những giai đoạn trước kia.
Thứ hai, trong lực lượng sản xuất hiện đại; trình độ, tri thức trở thành yếu tố
quan trọng nhất của người lao động.
C.Mác đã chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực thực tiễn của con
người” [67, tr.675]. Điều đó có nghĩa là lực lượng sản xuất chính là sản phẩm hoạt
động của con người ở mỗi thời kỳ lịch sử. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, trình
độ, năng lực, kỹ năng của người lao động không ngừng được thay đổi và nâng cao. Vì
thế, trình độ của người lao động ở xã hội sau bao giờ cũng cao hơn ở xã hội trước.
Điều đó đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Người vô sản thuộc về xã hội có trình độ
phát triển cao hơn, và bản thân họ cũng ở trình độ cao hơn người nô lệ” [62, tr.460].
Do đó, nếu trình độ của người lao động ở một chế độ xã hội kém thì chứng tỏ trình độ
của lực lượng sản xuất ở chế độ đó cũng thấp kém. Vì vậy, để nhận thức được đúng
đắn trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu phải căn cứ vào trình độ lao
động, sản xuất của người lao động.
46
Trình độ của người lao động hiện đại được thể hiện qua tri thức, chất xám của
họ kết tinh trong các sản phẩm lao động. Trong lực lượng sản xuất hiện đại, tri thức,
chất xám trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động. Không thể phủ nhận
được trong bất cứ thời đại nào, khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, người lao
động phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử
khác nhau, yêu cầu của những yếu tố này cũng khác nhau. Nếu trong giai đoạn sản xuất
thủ công, sức mạnh cơ bắp, kinh nghiệm của người lao động là yếu tố quan trọng nhất;
trong giai đoạn sản xuất cơ khí, động cơ, máy móc là yếu tố quyết định thì trong trong
nền sản xuất hiện đại, toàn bộ quá trình sản xuất biểu hiện ra không phải như một quá
trình phụ thuộc vào sức khỏe, thể chất hay kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động
mà với tư cách là sự ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ vào sản
xuất. Sự ứng dụng đó có được là do tri thức, trí tuệ của người lao động mang lại. Do
đó, việc tạo ra của cải vật chất ngày càng trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động
và số lượng lao động đã hao phí mà phụ thuộc vào trình độ ứng dụng khoa học - công
nghệ vào sản xuất. Sự thay đổi đó là xu thế khách quan, mang tính tiến bộ và ngày
càng mở rộng. Nó làm cho tài nguyên thiên nhiên mặc dù vẫn là những thứ không thể
thiếu trong nền sản xuất xã hội, nhưng không còn đóng vai trò quan trọng nhất. Mức
đóng góp của tri thức và kỹ thuật, công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng
lớn. Do vai trò và vị trí của tri thức trong nhân tố người lao động ngày càng cao nên cơ
cấu đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất có những thay đổi đáng kể. Nếu như trước
đây, người ta ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất như nhà xưởng, máy móc, trang
thiết bị kỹ thuật thì ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại, tri thức, trí tuệ, kỹ năng của
người lao động được đầu tư bởi những yếu tố đó được thẩm thấu vào tất cả các quy
trình sản xuất, vào việc ứng dụng, cải tiến công cụ lao động… Như vậy, trong lực lượng
sản xuất hiện đại, tuy nguồn vốn và lao động vẫn là những yếu tố cơ bản không thể thiếu
nhưng của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức
lao động cơ bắp. Tri thức, trí tuệ là yếu tố chiếm ưu thế nổi bật, đánh dấu sự khác biệt về
chất của người lao động hiện đại với người lao động trước kia. Chính sự gia tăng đáng
kể của yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao động đã làm thay đổi mạnh mẽ trình độ của
lực lượng sản xuất hiện đại. Vì vậy, việc gia tăng tri thức của người lao động càng
nhanh và có hiệu quả bao nhiêu thì lực lượng sản xuất càng phát triển bấy nhiêu.
47
Ngay từ thế kỷ XIX, C.Mác đã chỉ rõ:
Bồi dưỡng tất cả những phẩm chất của con người mang tính xã hội và sự sản
xuất ra con người, với tư cách là con người, có những phẩm chất và những
mối liên hệ và, do đó, có những nhu cầu hết sức phong phú, sự sản xuất ra
con người với tư cách là sản phẩm mang tính chất chính thể nhất và vạn năng
nhất của xã hội (bởi vì muốn sử dụng được nhiều vật dụng, con người phải
có năng lực sử dụng chúng nghĩa là con người phải trở thành con người hết
sức có văn hoá), đó cũng là những điều kiện của một nền sản xuất dựa trên tư
bản [70, tr.627-628].
Nhờ có tri thức của con người, lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ có mặt ở
trong các ngành sản xuất mới xuất hiện mà nó còn lan toả, cải tạo, đổi mới các ngành
sản xuất cũ của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu sẽ thay thế lực
lượng sản xuất cũ qua sự phủ định biện chứng.
Thứ ba, trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động xã hội
ngày càng hợp lý và khoa học hơn.
Thực tiễn cho thấy, sự thay đổi của công cụ lao động dẫn đến sự thay đổi của
của phân công lao động xã hội. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã chỉ
ra rằng khi lực lượng sản xuất ở trình độ thủ công thì nó mang tính cá nhân, còn khi đã
đạt đến trình độ cơ khí hóa, nó mang tính xã hội. Tính chất cá nhân của lực lượng sản
xuất theo Ph.Ăngghen tương ứng với những giai đoạn trước của xã hội tư bản với nền
sản xuất manh mún, mang tính tự cấp, tự túc. Ph.Ăngghen viết:
Trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là trong thời trung cổ, khắp nơi
đều có nền sản xuất nhỏ mà cơ sở của nó là chế độ sở hữu tư nhân của
những người lao động đối với những tư liệu sản xuất của họ; nông nghiệp
của những tiểu nông, tự do hay nông nô, thủ công nghiệp ở thành thị.
Những tư liệu lao động - đất đai, nông cụ, dụng cụ thủ công - là những tư
liệu lao động của cá nhân, do đó nhất định chúng phải nhỏ bé, tí hon, có
hạn. Cũng chính vì thế mà thường thường chúng thuộc về bản thân người
sản xuất [65, tr.373].
Như vậy, tư liệu sản xuất cá nhân gắn với nền sản xuất nhỏ, ứng với những giai
đoạn mà lực lượng sản xuất còn ở trình độ thủ công với quy mô nhỏ và phân tán. Theo
48
Ph.Ăngghen, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã biến những những tư
liệu sản xuất nhỏ, phân tán thành những tư liệu sản xuất hùng mạnh, biến những tư
liệu sản xuất do cá nhân thành những tư liệu sản xuất xã hội:
Thay cho guồng quay sợi, khung cửi dệt tay, búa thợ rèn là máy se sợi, máy
dệt, búa chạy bằng hơi nước, thay cho xưởng thợ cá thể là công xưởng đòi
hỏi lao động chung của hàng trăm, hàng nghìn công nhân. Cũng như tư liệu
sản xuất, bản thân sự sản xuất cũng biến đổi từ chỗ là một loạt động tác
phân tán thành một loạt động tác xã hội và sản phẩm cũng từ sản phẩm cá
nhân biến thành sản phẩm xã hội [65, tr.273].
Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
phân công lao động đang thay đổi theo hướng tăng lao động trí óc, giảm lao động chân
tay, mà điển hình là sự xuất hiện một dạng lao động mới - lao động công nghệ
cao. Đây là loại lao động liên quan trực tiếp đến việc chế tạo, phát minh ra các loại
máy móc, phương tiện kỹ thuật có sử dụng công nghệ hiện đại. Đòi hỏi đối với lao
động công nghệ cao là có khả năng chế tạo, phát minh ra các loại máy móc, phương
tiện kỹ thuật hiện đại để áp dụng vào sản xuất vật chất, không ngừng nâng cao năng
suất lao động và tạo ra những sản phẩm đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững. Như
vậy, phân công lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại không còn phụ
thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề được đào tạo, nguồn lao động
dồi dào hay lượng tư bản lớn như trước đây, mà ngày càng dựa nhiều hơn vào lực
lượng lao động có năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, trong đó lao động
công nghệ cao là một loại lao động trực tiếp sản xuất ra tri thức.
Sự phân công lao động tất yếu dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng ngày càng hợp lý hơn trong nền sản xuất hiện đại. Nếu như trước đây, khi lực
lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, chưa phát triển, số lượng “công nhân cổ xanh” (là
những công nhân chủ yếu sử dụng sức lực cơ bắp và thực hiện một số thao tác vận hành
máy móc khi lao động) chiếm đa số thì ngày nay, khi lực lượng sản xuất sản xuất đang
ngày càng phát triển, số lượng nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất được gọi là “công nhân cổ trắng” chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn
“công nhân cổ xanh”. Những “công nhân cổ trắng” đó còn có tên gọi khác là công nhân
tri thức. Thông qua họ cùng với những công cụ sản xuất hiện đại (vật hóa của tri thức),
49
tri thức khoa học đã trực tiếp đi vào dòng sản xuất. Vì vậy, ở kết quả đầu ra của lực
lượng sản xuất trước đây; hàm lượng tri thức, chất xám của người lao động tương đối
thấp thì ngày nay, hàm lượng tri thức của người lao động kết tinh trong các sản phẩm
ngày một gia tăng. Do đó, sản phẩm của lực lượng sản xuất hiện đại thường có giá trị
gia tăng rất lớn.
Như vậy, sự phân công lao động xã hội trong lực lượng sản xuất hiện đại biến
đổi theo hướng tăng đội ngũ lao động chất xám. Vai trò của người điều hành sản xuất
ngày càng trở nên hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của các công ty, các tổ
chức kinh tế bởi lẽ với những đòi hỏi khắt khe về năng lực và kỹ năng lao động, nền
sản xuất hiện đại cũng sẽ loại trừ những cá nhân không đáp ứng được những yêu cầu
đó. Sự phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến xu hướng lao động biến đổi theo
hướng ngày càng mang tính xã hội hoá sâu sắc. Lao động được xã hội hoá thể hiện ở
việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa các đơn vị sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn
với sự phân công lao động vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hoá, vừa có khả năng
phi chuyên môn hoá một cách rộng rãi.
Sự biến đổi nội dung và tính chất của lao động trong lực lượng sản xuất hiện
đạicũng khiến cho lao động của con người đang tiến dần đến sự sáng tạo. Chúng ta
biết rằng, trong các nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
lao động là một sự bắt buộc, bị thúc bách bởi những nhu cầu bên ngoài lao động và trở
thành cái mà C.Mác gọi là “lao động bị tha hoá”. Ngày nay, với sự thay đổi nội dung
và tính chất của lao động, chúng ta có thể hy vọng rằng, lao động không còn là một
thứ nô dịch, lao động đang dần trở về đúng với bản chất đích thực của nó, tức là lao
động đã thực sự trở thành một nhu cầu, là hoạt động tự do và sáng tạo của con người.
Khoa học - công nghệ đã và đang tạo tiền đề cho việc thay đổi vị trí, chức năng của
con người trong quá trình sản xuất. Với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhiều
chức năng mà con người trực tiếp đảm nhận trong chu trình sản xuất trước đây được
chuyển giao dần cho máy móc. Điều này đã giúp con người có thể giảm thiểu thời gian
cho các hoạt động vật chất và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tinh thần,
sáng tạo và hưởng thụ. Con người không còn bị cột chặt vào guồng máy sản xuất như
trong nền kinh tế công nghiệp, mà họ được tự do hơn trong các hoạt động của mình.
Khoa học - công nghệ đang góp phần tạo ra một hệ thống "khoa học - kỹ thuật - sản
50
xuất " thống nhất. Với hệ thống này, lao động ngày càng mang nhiều nội dung khoa
học, trí tuệ và sáng tạo.
Như vậy, tính chất của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Ở trình độ thủ công, lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân; khi lực
lượng sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hóa, máy móc ra đời, công nghiệp phát triển thì
nó mang tính xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì tính chất xã hội hóa ngày
càng cao.Do đó, trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động mang tính
xã hội, sự đa dạng hóa ngành nghề cùng với sự xuất hiện những ngành nghề mới đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Thứ tư, lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu hoá.
Nhờ sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, nhất là mạng Internet, khoa học
nói riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu như tức thời (online)
với nhiều sự kiện khoa học trên toàn thế giới. Dòng tri thức, dòng công nghệ cùng với
dòng vốn được lưu thông với tốc độ chưa từng có trên toàn thế giới. Người ta có thể sản
xuất từng bộ phận cấu thành của một sản phẩm ở nhiều nơi trên thế giới, sau đó lắp ráp
và lưu thông ở các nước khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, đầu ra của lực
lượng sản xuất hiện đại không còn là sản phẩm riêng của lao động ở một quốc gia nữa
mà là sản phẩm mang tính toàn cầu. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một
yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Đây là đặc điểm
mới chỉ riêng có ở lực lượng sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn
trước kia chưa có hoặc mới ở trong một phạm vi hẹp.
Như vậy, lực lượng sản xuất hiện đại có năm đặc điểm cơ bản như: trong lực
lượng sản xuất hiện đại, khoa học được thẩm thấu vào tất cả các yếu tố cấu thành của
nó, làm thay đổi đáng kể trình độ phát triển của lực lượng sản xuất so với những thời đại
trước kia; trình độ, tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động; trong
lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động xã hội hợp lý và khoa học; có sự
thay đổi nhanh chóng công nghệ sản xuất làm xuất hiện ngày càng nhiều những đối
tượng lao động mới, góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa của lực lượng sản xuất
hiện đại. Những đặc điểm đó chính là thước đo đánh giá trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong thời đại ngày nay; đồng thời nó đánh dấu sự khác biệt về trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại so với những giai đoạn lịch sử trước đó.
51
2.2. VAI TRÒ VÀ NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI
2.2.1. Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, người lao động là yếu tố quan
trọng nhất, có ý nghĩa quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất bởi vì:
Thứ nhất, người lao động là một “động vật biết chế tạo công cụ” vì ngoài việc
sử dụng những công cụ lao động có sẵn, người lao động đã làm cho một vật “do tự
nhiên cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, người lao
động đã tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Trong quá
trình sản xuất vật chất, người lao động không chỉ tạo ra các công cụ lao động mà còn
luôn biết cải tạo công cụ lao động, làm cho khả năng chinh phục tự nhiên ngày càng
lớn hơn. Trong buổi bình minh của lịch sử, lực lượng sản xuất còn thấp kém, người lao
động dựa chủ yếu vào những đối tượng lao động do tự nhiên cung cấp. Khi nền sản
xuất ngày càng phát triển, nhận thức của người lao động ngày càng tăng lên, công cụ
lao động ngày càng được cải tiến, đối tượng lao động ngày càng được mở rộng. Điều
đó chứng tỏ người lao động là chủ thể sáng tạo và là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của
quá trình sản xuất. C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực
lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng” [62, tr.257]. Do đó,
nếu không có người lao động sẽ không thể có quá trình sản xuất vật chất.
Thứ hai, người lao động với tri thức và ý chí của mình biết sử dụng và kết hợp
các yếu tố cấu thành của tư liệu sản xuất như đối tượng lao động, công cụ lao động,
phương tiện lao động; hiện thực hóa vai trò và tác động của những yếu tố đó để tạo
nên sức mạnh tổng hợp nhằm cải tạo giới tự nhiên một cách có hiệu quả nhất. Hơn
nữa, tất cả những yếu tố trên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy được
vai trò của mình khi được được người lao động sử dụng trong quá trình cải biến giới tự
nhiên. Điều này đã được C.Mác khẳng định:
Một cái máy không dùng vào quá trình lao động là một cái máy vô ích.
Ngoài ra, nó còn bị hư hỏng do sức mạnh hủy hoại của sự trao đổi chất của
tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi không dùng để dệt hoặc đan thì
chỉ là một số bông bị hư hỏng. Lao động sống phải nắm lấy những vật đó,
52
cải tử hoàn sinh cho chúng, biến chúng từ những giá trị sử dụng thành chỉ
có tính chất khả năng thành những giá trị sử dụng và tác động [66, tr.271].
Thứ ba, trong khi các yếu tố của tư liệu sản xuất đều hữu hạn và thường bị hao
mòn nhanh theo thời gian thì người lao động, ngoài yếu tố thể lực bị hao mòn chậm thì
các kỹ năng lao động, trình độ tay nghề... luôn có khả năng tự đổi mới, tự nâng cao
thông qua quá trình tự học hỏi, bồi dưỡng, trau dồi tri thức không ngừng để có thể đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất. V.I. Lênin đã khẳng định:
“Trong khi vật chất có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kỹ năng của con người như
công nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi” [53, tr.30]. Khẳng định
trên đúng đắn vì suy cho cùng, hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối
tượng sẵn có trong tự nhiên) chỉ là sản phẩm lao động của con người, do con người tạo
ra và không ngừng đổi mới, cải tiến. Về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ
lao động chỉ là sự phản ánh trình độ của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên.
Trong lực lượng sản xuất hiện đại, công nghệ thông tin là một trong những
ngành đã thâm nhập vào hầu hết tất cả các lĩnh vực của sản xuất và trong đời sống của
con người. Máy tính điện tử được sử dụng phổ biến và đưa con người vào kỷ nguyên
tự động hóa tổng hợp, vào nền văn minh tin học. Ngoài ra, sự phát triển của ngành
công nghệ tự động hóa đã cho ra đời người máy. Người máy đã thay thế không chỉ
những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp mà còn có thể thay thế cho cả
những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Do đó, người ta thường dùng những
thuật ngữ như “trí tuệ nhân tạo”, “người máy thông minh” để chỉ sự phát triển không
ngừng của khoa học - công nghệ hiện đại và khả năng sáng tạo của con người trong
sản xuất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khoa học - công nghệ hiện đại trở
thành yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó người lao động trở
thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Về thực chất, khoa học - công
nghệ trước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ
của con người. Có thể nói, do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng tạo và quyết
định khuynh hướng, tốc độ phát triển của khoa học - công nghệ, đồng thời quyết định
việc sử dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất theo mục đích của mình. Thực tế cho
thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại với tư cách là phần vật chất trong các yếu tố cấu
thành của lực lượng sản xuất dù năng động và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản
53
phẩm do bàn tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của
con người. Do đó, dù trí tuệ nhân tạo dẫu được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng
chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình
mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Vì
vậy, khoa học - công nghệ là của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con
người và phải thông qua hoạt động của con người mới có thể được vật hóa vào quá
trình sản xuất. Nếu không xuất phát từ con người, được tiến hành bởi con người và
không hướng về mục đích phục vụ con người, không có quá trình sản xuất nào có đủ
lý do để tồn tại và phát triển. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của khoa
học - công nghệ hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu người lao động trong lực lượng sản xuất
hiện đại là những người tham gia vào quá trình sản xuất vật chất với trình độ cao; có
khả năng kết hợp với công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm có hàm lượng trí
tuệ lớn, có tính bền vững và thân thiện với môi trường.
Có thể nhận thấy, bản thân khái niệm người lao động trong lực lượng sản xuất
cũng có sự biến đổi qua mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Nó gắn liền với sự biến đổi về
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như
trước đây, khi lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp, nói đến người lao động,
người ta chủ yếu chỉ nói tới những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất để
tạo ra của cải vật chất nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là
phát triển của khoa học - kỹ thuật rồi đến khoa học - công nghệ, không chỉ có những
người trực tiếp sản xuất mới là những người lao động. Ngoài họ ra, còn có một bộ
phận ngày càng tăng lên những người trực tiếp quản lý quá trình sản xuất; những kỹ
sư, những nhà công nghệ tạo ra những sản phẩm khoa học, công nghệ để ứng dụng vào
quá trình sản xuất. Điều này đã được C.Mác dự báo khi phân tích quá trình phát triển
của nền đại công nghiệp ở các nước tư bản phát triển: “Toàn bộ quá trình sản xuất biểu
hiện ra không phải như một quá trình phụ thuộc vào tài nghệ trực tiếp của người công
nhân mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học trong lĩnh vực công nghệ”, “do đó, đến
một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế công nhân. Lao động được biểu hiện
ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu là một
54
lao động mà trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá
trình sản xuất”; và “thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, người công
nhân lại đứng bên cạnh quá trình sản xuất ấy” [62, tr.357; 358; 370].
Sự phát triển của sản xuất xã hội luôn diễn ra sự phủ định. Trước kia, người sản
xuất và người quản lý là một, song cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất theo
hướng hiện đại, sự tách rời giữa người sản xuất và người quản lý ngày một gia tăng, sự
khác biệt phát triển thành sự đối lập gay gắttrong chế độ tư hữu. Giờ đây, chính sự
phát triển cao của lực lượng sản xuất ở trình độ trí tuệ hoá cao đã và đang diễn ra sự
xích lại gần nhau giữa người lao động sản xuất và nhà quản lý. Trong nền sản xuất
hiện đại, ở không ít trường hợp, người sản xuất và người quản lý hội tụ trong một cá
thể mà ở đó, mặt quản lý ngày càng có ưu thế hơn mặt lao động trong việc tạo ra sản
phẩm. Như vậy, trong lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động bao gồm cả người
tham gia sản xuất trực tiếp và cả những người tham gia vào quá trình quản lý quá trình
sản xuất ấy và những nhà khoa học - công nghệ tạo ra những sản phẩm nhằm hiện đại
hóa quá trình sản xuất ấy.
Trong bất cứ thời đại nào, người lao động cũng đóng vai trò quyết định sự phát
triển của lực lượng sản xuất nhưng sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế nằm ở chỗ,
trong thời đại nào, yếu tố nào thuộc về người lao động trong lực lượng sản xuất giữ vai
trò quan trọng hơn các yếu tố khác. Bởi vậy, sự thay đổi vai trò của các yếu tố cấu
thành nhân tố người lao động chính là tiêu chí đánh giá sự khác biệt của nhân tố người
lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại với lực lượng sản xuất trước kia.
Theo quan điểm của C.Mác, khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, người
lao động phải có cùng một lúc cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần.
Sức mạnh vật chất được thể hiện qua năng lực về thể chất như sức khỏe, thể
trạng của người lao động. Điều đó không chỉ được tạo nên bởi đời sống vật chất, điều
kiện làm việc của người lao động mà nó còn phụ thuộc vào đặc điểm về lứa tuổi, giới
tính của họ. Sức mạnh thể chất là điều kiện cần thiết của quá trình lao động mà con
người cần phải có để tác động vào giới tự nhiên bằng những công cụ lao động để tạo ra
của cải vật chất.
Sức mạnh tinh thần được thể hiện qua năng lực về trí tuệ, phẩm chất đạo đức
như kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong
55
công việc của người lao động... Đó là sức mạnh thể hiện tính loài của con người khác
với con vật khi tác động vào giới tự nhiên. Nhờ có sức mạnh về tinh thần, trí tuệ mà
hoạt động sản xuất vật chất của con người mới là hoạt động có mục đích, có ý thức.
Mặc dù cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần đều là những yếu tố thuộc
về người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nhưng vị trí, vai trò của những
yếu tố này không phải là cái nhất thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế khác
nhau, chúng luôn có sự thay đổi. Trong thời kỳ tiền sử, do nhận thức của con người
còn nhiều hạn chế nên để tạo ra của cải vật chất, người lao động chủ yếu sử dụng sức
mạnh cơ bắp để tác động vào giới tự nhiên. Tuy nhiên, khi công cụ lao động đã phát
triển, máy móc cơ khí ra đời, yếu tố kỹ năng, kinh nghiệm trong lao động lại giữ vai
trò chủ đạo. Nó giúp những người lao động vận hành các máy móc một các thành thạo,
thuần thục. Do năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng được nâng cao nên
phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và được kết tinh ở
sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm một tỷ trọng rất không đáng kể ở các thời kỳ
tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay, ở các nước phát triển, đối với một số loại sản
phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh
trong sản phẩm có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm. Đối với các loại sản
phẩm đó, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10% - 20% giá
trị sản phẩm. Vì thế, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm được tạo ra ngày càng lớn. Nó
không phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào là nguyên vật liệu để sản xuất ra nó mà phụ
thuộc vào hàm lượng tri thức, chất xám của người lao động kết tinh vào trong đó. Vì
vậy, trong nền sản xuất hiện đại, có những sản phẩm tuy trọng lượng nhỏ nhưng lại có
giá trị kinh tế lớn và tinh vi hơn gấp nhiều lần những sản phẩm có trọng lượng lớn
trong nền sản xuất trước kia. Điều này cũng đã được C.Mác khẳng định như sau:
Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít
phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí hơn là vào
sức mạnh của những tác nhân được khởi động trong thời gian lao động, và
bản thân những tác nhân ấy, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng)
tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản
xuất ra chúng, mà đúng ra chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa
56
học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng
khoa học ấy vào sản xuất [71, tr.368].
Sự thay đổi vị trí, vai trò của các yếu tố cấu thành nhân tố người lao động cũng
gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ lịch sử. Trong cuốn
sách “Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam”, các tác giả đã chỉ ra những điểm khác biệt cơ bản giữa kinh tế tri thức và kinh
tế công nghiệp theo những chỉ tiêu so sánh dưới đây:
Bảng 2. So sánh sự khác nhau giữa kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức
Chỉ tiêu Kinh tế công nghiệp Kinh tế tri thức
Yếu tố chủ yếu sản
xuất
Vốn, lao động Tri thức
Kỹ thuật, công nghệ
chủ đạo
Cơ khí hóa, điện khí hóa Tự động hóa, số hóa
Ngành kinh tế chủ
yếu
Công nghiệp chế biến Dịch vụ, thương mại,
xử lý thông tin
Cơ cấu xã hội chủ
yếu
Tư bản công nghiệp/công
nhân áo xanh
Nhiều tầng lớp: chủ
hãng, lao động trí thức,
nhà quản lý, tầng lớp
trung lưu
Yếu tố quyết định sức
cạnh tranh
Giá thành Sáng chế, chất lượng,
thời gian
Mô hình đổi mới Tuyến tính Đan xen, tương tác
Cơ sở hạ tầng quan
trọng nhất
Giao thông Mạng thông tin
Mục tiêu lao động Đủ việc làm Thu nhập cao
Yêu cầu giáo dục Kỹ năng chuyên ngành Đào tạo cơ bản, học tập
suốt đời
Việc làm Ổn định Có rủi ro, có cơ hội
Nguồn: [49, tr. 66-67].
Qua bảng so sánh trên, có thể nhận thấy, sự gia tăng của yếu tố tri thức trong
nhân tố người lao động và sự tăng lên không ngừng của lực lượng lao động trí óc như
57
đội ngũ công nhân tri thức, các nhà quản lý... trong số những người lao động nói
chung tham gia vào quá trình sản xuất cũng chính là dấu hiệu đặc trưng cho sự khác
biệt của nền kinh tế tri thức so với các nền kinh tế trước đó trong lịch sử. Sự gia tăng
này cũng chính là một trong những đặc điểm quan trọng của lực lượng sản xuất hiện
đại trong thời đại ngày nay.
2.2.2. Những yêu cầu cơ bản của người lao động trong lực lượng sản xuất
hiện đại
Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động với tính cách là nhân
tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất vật chất cần có những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cần có thể lực tốt,
sức khỏe dồi dào, dẻo dai để có thể chịu áp lực cao, cường độ lao động lớn trong công
việc, thích ứng với sự thay đổi liên tục về nghề nghiệp và có khả năng thu thập, xử lý
thông tin một cách nhanh nhạy.
Trong bất cứ thời đại nào, sức khỏe, thể lực là yếu tố cần thiết để người lao
động tham gia vào quá trình sản xuất một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ
lịch sử khác nhau, yêu cầu về thể lực, sức khỏe của người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất lại không giống nhau. Thời kỳ lực lượng sản xuất chưa phát triển, sức
lực của người lao động được sử dụng trong việc dùng những công cụ lao động thô sơ
tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất. Thời kỳ sản xuất cơ khí, sức lực,
cơ bắp của con người được sử dụng trong việc vận hành các loại máy móc; khi đó,
máy móc đã thay thế cho sức lực của con người ở một số khâu của quá trình sản xuất.
Trong lực lượng sản xuất hiện đại, yếu tố thể lực của người lao động cũng rất quan
trọng nhưng nó không phải là thể lực cơ bắp thuần túy với khả năng lao động tay chân
dẻo dai mà là sức khỏe về tâm lực với khả năng tư duy, khả năng sáng tạo lớn. Khác
với người lao động trong lực lượng sản xuất truyền thống, yếu tố sức khỏe, thể lực của
người lao động không chỉ dùng để vận hành các loại máy móc, sử dụng các công cụ
lao động mà còn để có khả năng đáp ứng với những dây chuyền sản xuất cường độ
cao; có khả năng nhanh nhạy trong việc thu thập và xử lý thông tin; thích ứng với sự
thay đổi liên tục về nghề nghiệp, về môi trường làm việc cũng như những rủi ro không
thể tránh khỏi của nền sản xuất hiện đại trong quá trình hội nhập. Trong nền sản xuất
hiện đại, thể lực, sức khỏe của người lao động vẫn là yếu tố đầu vào quan trọng của
58
quá trình sản xuất vật chất vì người lao động hiện nay vẫn rất cần có một thể lực tốt,
sức khỏe dẻo dai để có thể tập trung làm việc liên tục trong một thời gian dài mà hoạt
động lao động vẫn đảm bảo tính chính xác và hiệu quả cao.
Để có được thể lực tốt, sức khỏe dồi dào, người lao động cần có một môi
trường sinh hoạt tốt với điều kiện vật chất đầy đủ, điều kiện lao động và làm việc an
toàn, có chế độ bảo hộ lao động để tránh những tai nạn, rủi ro đáng tiếc trong quá trình
lao động. Theo C. Mác, trước đây, trong xã hội tư bản, để tạo ra ngày càng nhiều giá
trị thặng dư, các nhà tư sản đã ra sức bóc lột sức lao động của người công nhân, không
chú ý đến quá trình tái sản xuất sức lao động nên đã đẩy những người công nhân vào
tình trạng bần cùng thường xuyên.
Ngay cả trong trạng thái xã hội có lợi nhất cho công nhân, hậu quả tất yếu
đối với công nhân cũng là tình trạng lao động cật lực, tình trạng bị chết yểu,
tình trạng bị hạ xuống đóng vai một cái máy, một nô lệ của tư bản mà sự
tích lũy của nó là cái nguy hiểm cho công nhân, tình trạng có một cuộc cạnh
tranh mới, tình trạng một bộ phận công nhân không tránh khỏi chết đói
hoặc đi ăn xin [69, tr.77].
Thứ hai, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cần có tri thức, trí tuệ
dồi dào; có khả năng lao động sáng tạo; chủ động và tích cực ứng dụng những thành
tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất.
Một trong những yêu cầu quan trọng nhất của người lao động trong lực lượng
sản xuất hiện đại là phải có tri thức, trí tuệ nổi trội hơn so với người lao động trong các
giai đoạn trước đây. Ngày nay, tri thức, trí tuệ của người lao động không phải chỉ biết
sử dụng các loại máy móc mà còn chế tạo ra các loại máy móc mới với công nghệ hiện
đại theo yêu cầu ngày càng cao của sản xuất; không ngừng thay đổi mẫu mã sản phẩm
đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường; tạo ra những đối tượng lao động mới có tính
bền vững và thân thiện với môi trường sinh thái; có khả năng ứng dụng những thành
tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất; nắm bắt và xử lý thông tin nhanh
nhạy... Những yếu tố thuộc về tri thức, trí tuệ của người lao động sẽ được kết tinh
trong các sản phẩm hàng hóa, làm cho các sản phẩm đó có hàm lượng trí tuệ cao, có
giá trị gia tăng lớn. Ngoài ra, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cũng
cần có khả năng thích ứng nhanh với những biến đổi của điều kiện sản xuất vật chất.
59
Thích ứng chính là sự biến đổi của chủ thể để phù hợp với điều kiện mới, môi trường
mới. Một trong những đặc trưng của nền sản xuất hiện đại là sự thay đổi liên tục, sự
tác động nhiều chiều của các yếu tố bên trong và bên ngoài đến sự phát triển lực lượng
sản xuất. Bởi vậy, để thực hiện quá trình sản xuất vật chất và thúc đẩy xã hội phát
triển, khả năng thích ứng chính là yêu cầu có tính thời đại, là một phẩm chất không thể
thiếu của người lao động hiện đại. Khả năng thích ứng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiếp thu, chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; dễ dàng đáp ứng với những
yêu cầu, đòi hỏi ngày càng khắt khe của nghề nghiệp; không trở nên lạc hậu, bị động
với những biến đổi không ngừng của đời sống xã hội. Khả năng thích ứng sẽ giúp
người lao động bắt nhịp được với nền sản xuất hiện đại.
Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, tri thức của người lao động cần trở
thành yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất. Sự khác biệt của tri thức với tính cách là
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với các yếu tố mang tính truyền thống (tài
nguyên thiên nhiên, vốn...) được thể hiện ở chỗ: Tri thức của người lao động không bị
hao mòn, bị tổn thất khi sử dụng; khi chuyển giao tri thức cho người khác, người sở
hữu tri thức không bị mất đi tri thức của mình; khi tri thức được chuyển giao cho nhiều
người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội với chi phí không đáng kể; tiếp nhận vốn
tri thức lại không dễ dàng như tiếp nhận vốn dưới dạng tiền tệ, việc chuyển giao, tiếp
nhận vốn tri thức phải thông qua giáo dục và đào tạo. Bởi vậy, trong nền sản xuất hiện
đại, giáo dục và đào tạo trở thành ngành sản xuất quan trọng nhất - sản xuất vốn tri
thức. Vì lẽ đó, người lao động không phải là người sản xuất đơn thuần mà là người lao
động tri thức. Họ thực sự được làm chủ quá trình sản xuất; hợp tác với nhau bình đẳng
trong quá trình sản xuất và kinh doanh, trong quá trình tạo ra và phân phối của cải vật
chất.
Thứ ba, ngoài thể lực và trí lực, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện
đại cần có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có đạo đức và văn hóa nghề nghiệp, có ý thức
trách nhiệm với việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong nền sản xuất hiện đại, mỗi khâu, mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất đều
được gắn kết với nhau. Thậm chí, các trung tâm nghiên cứu, các nhà máy sản xuất và
các nhà quản lý có sự tích hợp, gắn bó với nhau một cách chặt chẽ nên người lao động
cần có ý thức tổ chức kỷ luật, lao động và sản xuất một cách có trách nhiệm. Ý thức
60
trách nhiệm của người lao động hiện đại không chỉ là tôn trọng giờ giấc, kỷ luật lao
động như trước kia mà còn thể hiện ở việc tôn trọng bản quyền sáng chế, đề cao chất
lượng sản phẩm, không vì lợi nhuận mà sản xuất ra những sản phẩm kém chất lượng,
gây tổn hại cho sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng... Hơn nữa, lực lượng sản
xuất hiện đại có tính bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái nên người lao động
phải có đạo đức nghề nghiệp trong việc tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường
sinh thái. Trước đây, vì mục tiêu phát triển nhanh, để tạo ra ngày càng nhiều của cải,
con người đã dùng chính những thành tựu của khoa học - công nghệ để tác động một
cách thô bạo vào giới tự nhiên, tàn phá nghiêm trọng môi trường sinh thái. Vì vậy, hầu
hết các nước đều phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái.
Do đó, ô nhiễm môi trường đã trở thành một trong những vấn đề mang tính toàn cầu.
Nhằm khắc phục tình trạng đó, các quốc gia trên thế giới đều hướng đến mục tiêu phát
triển bền vững, phát triển kinh tế xanh. Để đạt được mục tiêu đó, đạo đức nghề nghiệp,
ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường sinh thái của người lao động là một
trong những yếu tố quan trọng đóng vai trò quyết định. Có thể nói, chưa bao giờ, đạo
đức kinh doanh, đạo đức môi trường lại trở thành một trong những yêu cầu bức thiết
của người lao động như hiện nay.
Như vậy, trong thời đại ngày nay, người lao động không chỉ cần có thể lực tốt
mà cần có tri thức phong phú, có ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức nghề nghiệp, ý thức
bảo vệ môi trường sinh thái, có khả năng thích ứng tốt đối với những biến đổi nhanh
chóng của quá trình sản xuất vật chất. Đây là những yếu tố đảm bảo cho người lao
động phát triển một cách toàn diện cả về thể lực, trí tuệ, ý thức đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nền sản xuất hiện đại. Đó cũng là những yêu cầu cơ bản của nhân tố
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Trong các yêu cầu đó, yêu cầu về trí
tuệ, tri thức của người lao động được đặt lên hàng đầu để tạo nên những khác biệt về
chất của lực lượng sản xuất hiện đại so với lực lượng sản xuất trong những giai đoạn
trước đây.
2.3. NHỮNG YẾU TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
61
Có rất nhiều yếu tố tác động đến người lao động trong lực lượng sản xuất hiện
đại như : điều kiện địa lý tự nhiên, truyền thống văn hóa lịch sử, điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội nhưng trong giới hạn phạm vi của luận án, tác giả chỉ tập trung phân
tích những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển của người lao động quá trình xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, hay nói cách khác là những
yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển của người lao động hiện đại ở Việt Nam.
2.3.1. Tác động của giáo dục - đào tạo đến người lao động trong quá trình
xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
Một trong những đặc điểm nổi bật của lực lượng sản xuất hiện đại là yếu tố tri
thức, trí tuệ của người lao động được kết tinh ngày càng nhiều trong mỗi sản phẩm, tạo
ra giá trị gia tăng lớn và làm nên tính cạnh tranh của sản xuất vật chất. Do đó, giáo dục
- đào tạo trở thành một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển của
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại.
Giáo dục - đào tạo có tác động trực tiếp đến việc nâng cao dân trí, trình độ, tay
nghề, kỹ năng cho người lao động. Để trở thành người lao động hiện đại thì không thể
không trải qua quá trình đào tạo. Giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói
riêng góp phần quan trọng trong việc trang bị cho người lao động những tri thức về
nghề nghiệp, kỹ năng trong lao động sản xuất, kỹ năng về khoa học - công nghệ để họ
có thể vận hành được những máy móc hiện đại. Ngoài những tri thức truyền thống đó,
giáo dục - đào tạo hiện nay còn trang bị cho người lao động những tri thức về thị
trường, hội nhập, về khả năng nắm bắt và xử lý thông tin, những tri thức về bản quyền
và sở hữu trí tuệ; về an toàn lao động, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái để tạo nên
những phẩm chất hiện đại của người lao động trong lực lượng sản xuất thời đại ngày
nay. Có thể nói, giáo dục - đào tạo hiện nay góp phần tái sản xuất ra năng lực hoạt
động thực tiễn cho người lao động hiện đại bằng cách gia tăng ngày càng nhiều yếu tố
tri thức, chất xám cho người lao động. Vì vậy, giáo dục - đào tạo cũng tạo ra những
thay đổi về chất của người lao động hiện đại so với trước đây.
Nếu như trước đây, giáo dục - đào tạo chỉ tạo ra yếu tố đầu vào của sản xuất vật
chất là người lao động với những tri thức, kỹ năng cơ bản thì ngày nay, do yêu cầu
ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại; người lao động không chỉ cần được đào tạo
ban đầu mà cần được đào tạo liên tục. Vì vậy, trong nền sản xuất hiện đại, ngoài việc
62
tiếp nhận quá trình đào tạo từ trường lớp, người lao động còn được đào tạo từ các
trường dạy nghề đặc thù của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đó là
quá trình đào tạo lại, đào tạo bổ sung dựa theo đặc điểm nghề nghiệp, công việc.
Trong nền sản xuất hiện đại, giáo dục - đào tạo có vai trò rất quan trọng, trở
thành một yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao trình độ, tay nghề, ý thức tổ chức
kỷ luật… của người lao động. Do đó, việc những người lao động đã qua đào tạo, nhất
là được đào tạo cơ bản, theo đúng nhu cầu của xã hội cũng chính là lợi thế cạnh tranh
của người lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Những người lao
động đã qua đào tạo đào tạo thường có nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao, có khả
năng nắm bắt và xử lý thông tin nhanh, có thể thích nghi với sự thay đổi liên tục của
thị trường lao động… Giáo dục - đào tạo cũng giúp cho người lao động khắc phục
được sự mất cân đối giữa công nghệ hiện đại với trình độ của người lao động còn hạn
chế. Do đó, có thể khẳng định giáo dục - đào tạo giúp người lao động tự nâng cao
được giá trị của mình, tự thích nghi được với những thay đổi của nền sản xuất hiện đại,
khiến mình không bị đứng ngoài quá trình sản xuất và tiếp tục trở thành chủ thể, đóng
vai trò quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất vật chất.
Như vậy, giáo dục - đào tạo có tác động trực tiếp đến việc thay đổi chất lượng
của người lao động hiện đại. Do đó, nó cũng tác động đến việc thay đổi cơ cấu của
người lao động trong lực lượng sản xuất. Nếu như trước đây, khi lực lượng phát triển ở
trình độ thấp, lao động cơ bắp, thủ công chiếm ưu thế. Trong một doanh nghiệp, tỷ lệ
công nhân cổ xanh chiếm đại đa số thì ngày nay, tỷ lệ công nhân cổ xanh đang giảm
dần, tỷ lệ công nhân cổ trắng - công nhân tri thức đang ngày một tăng lên. Đó là xu
hướng trí thức hóa công nhân đang diễn ra bắt nhịp với xu thế phát triển của thời đại.
Xu hướng này cũng phản ánh tính thời đại của người lao động trong lực lượng sản
xuất hiện nay.
2.3.2. Tác động của môi trường xã hội đến đến người lao động trong quá
trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
Người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất mà còn là chủ thể của xã hội. Do đó, môi trường xã hội cũng có
tác động rất lớn đến sự phát triển của người lao động trong thời đại ngày nay.
63
Môi trường xã hội là điều kiện làm việc, sinh hoạt, ăn ở; là những chế độ, chính
sách tác động hàng ngày đến công việc, cuộc sống của người lao động, giúp họ có
thêm động lực, phát huy được tối đa năng lực thực tiễn của mình trong quá trình sản
xuất vật chất.
Nói đến môi trường xã hội tác động đến người lao động hiện đại, trước hết phải
nói đến điều kiện làm việc. Người lao động hiện đại, nhất là người công nhân cần
được làm việc trong môi trường hiện đại với công cụ lao động là những máy móc tiên
tiến, phương tiện lao động hiện đại, được sử dụng các đối tượng lao động được làm
bằng các vật liệu tiên tiến, ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái. Những tư liệu sản
xuất hiện đại sẽ giúp cho người lao động tạo ra được những sản phẩm có giá trị gia
tăng lớn, có tính năng vượt trội, kết tinh được nhiều tri thức, chất xám của người lao
động. Ngoài ra, điều kiện làm việc an toàn có tác động rất lớn đến việc bảo vệ sức
khỏe, thể lực cho người lao động hiện đại, hạn chế tối đa những tai nạn rủi ro, bệnh
nghề nghiệp cho người lao động. Điều đó tác động trực tiếp đến việc nâng cao thể lực,
sức khỏe cho người lao động, tạo ra tâm lý yên tâm trong sản xuất.
Các chính sách xã hội như chính sách tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội
hợp lý là một trong những động lực quan trọng trong việc phát triển người lao động
hiện đại. Tiền lương không chỉ đảm bảo cuộc sống vật chất của người lao động mà còn
tạo thành một động lực để giúp họ chủ động, tích cực làm việc. Tiền lương chính là lợi
ích thiết yếu của người lao động. Đây là một khâu nhạy cảm nhất vì xét đến cùng, mọi
hoạt động của con người, kể cả hoạt động sản xuất vật chất đều bắt nguồn từ lợi ích.
Ngoài ra, các chính sách về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chính sách hỗ trợ thất
nghiệp cho người lao động cũng phù hợp với xu thế thời đại vì trong nền sản xuất hiện
đại, người lao động cần được chăm sóc toàn diện, lâu dài, cần được hỗ trợ trước những
thay đổi liên tục về nghề nghiệp, công việc, môi trường làm việc. Ngoài ra, các chính
sách về nhà ở, về môi trường sinh hoạt văn hóa tinh thần cũng tác động rất lớn đến
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Đó là những chính sách tạo động lực
quan trọng cho người lao động, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần, gia
tăng tinh thần trách nhiệm và sự gắn bó với công việc cho người lao động, hạn chế
những áp lực trong lao động.
64
Bên cạnh những chính sách hướng đến các nhu cầu trực tiếp, hàng ngày, các
chính sách về pháp luật cũng có tác động đáng kể đến người lao động hiện đại. Người
lao động hiện đại cần được trang bị những tri thức pháp luật cần thiết về lao động,
quyền hạn và trách nhiệm trong lao động, kỷ luật lao động; được các tổ chức về lao
động giúp đỡ, tạo điều kiện để họ nâng cao được ý thức chính trị, ý thức pháp luật của
mình; được bảo vệ khi bị mất quyền lợi; được giúp đỡ khi xảy ra tranh chấp về lao
động. Đó là những yếu tố góp phần tạo ra những lợi thế nổi bật của người lao động
hiện đại so với người lao động trước kia. Họ không chỉ cần được phát triển về thể lực,
sức khỏe mà còn được được phát triển về tri thức, ý thức pháp luật, tâm thế chính trị
của mình trong nền sản xuất hiện đại.
Một trong những đặc điểm của người lao động hiện đại là tính sáng tạo và khả
năng ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại để tạo ra những sản
phẩm có giá trị gia tăng lớn. Môi trường xã hội có tác động đáng kể đến việc phát huy
phẩm chất này của người lao động hiện đại. Nếu các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất
kinh doanh có những chính sách hợp lý, điều kiện làm việc và chính sách đãi ngộ tốt
sẽ kích thích tính sáng tạo, tinh thần tự giác của người lao động; khiến người lao động
được tự do sáng tạo theo khả năng của mình, biến quá trình lao động là quá trình sáng
tạo và cống hiến chứ không phải là quá trình lao động bị cưỡng bức, bị trói buộc bởi
những quy tắc cứng nhắc. Ở một số nước tiên tiến trên thế giới, để thu hút nguồn lao
động có trình độ tay nghề cao, họ đã có những chính sách đãi ngộ tốt, tạo điều kiện
thuận lợi để người lao động được làm việc, quan tâm đến cả lợi ích vật chất và tinh
thần cho người lao động. Do đó, các quốc gia đó không chỉ thu hút được nguồn lao
động tại chỗ mà còn thu hút được nguồn lao động tinh hoa từ nhiều nước khác, tạo nên
những lợi thế cạnh tranh về lao động. Đó chính là những nước có nền sản xuất hiện
đại, với lực lượng sản xuất ở trình độ cao.
2.3.3. Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đến
người lao động trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
Trong lịch sử nhân loại, đã từng có những cuộc cách mạng công nghiệp đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và phát triển
kinh tế - xã hội của con người nói chung.
65
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu
thế kỷ 19, đánh dấu bằng sự ra đời của động cơ hơi nước, sau đó là động cơ đốt trong,
mở rộng sử dụng nhiên liệu than đá, xây dựng các tuyến đường sắt, mở ra kỷ nguyên
sản xuất cơ khí và phát triển giao thương..
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 19 kéo dài
tới đầu thế kỷ 20, với sự ra đời của máy phát điện, đèn điện, động cơ điện, mở rộng
việc sử dụng điện năng trong sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào thập niên 1960. Đặc điểm
của cuộc cách mạng này là lần đầu tiên con người đã sáng tạo ra một loại máy có thể
thay thế một phần quan trọng của lao động trí óc - đó là máy tính (chứ không như các
loại máy cơ khí và điện khí chỉ thay thế lao động cơ bắp). Sự ra đời của chất bán dẫn
đã dẫn tới việc sáng chế ra các siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập
niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990).
Trên cơ sở phát triển mạnh mẽ và toàn diện cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ ba, đặc biệt là các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống
mạng trở nên ngày càng phổ biến, được tích hợp cả về tính năng lẫn phạm vi ứng
dụng, từ đó làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội cũng như nền kinh tế toàn cầu. Đó
cũng là cơ sở ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (FIR) vào giữa thập kỷ
thứ hai của thế kỷ 21.
So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng công
nghiệp thứ tư phát triển với tốc độ ở cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng. Hơn
nữa, nó đang làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu
của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý
và quản trị. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là khoa học - công
nghệ sẽ tạo ra năng suất vượt bậc, chất lượng và hiệu quả của sản phẩm, dịch vụ tăng;
chi phí thương mại giảm sẽ làm tăng doanh thu toàn cầu, thúc đẩy tốc độ và chất lượng
tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính tiện ích cho cuộc sống cá nhân.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến sản xuất, thúc
đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức - “thông minh”. Các thành tựu
mới của khoa học - công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân
phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị... Từ góc độ cơ cấu ngành kinh tế, cách
66
mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm “mờ dần” tính chất giữa công nghiệp, dịch vụ
và nông nghiệp. Từ góc độ tiêu dùng, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với
nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp hơn.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động to lớn về kinh tế, xã hội và
môi trường ở tất cả các cấp - toàn cầu, khu vực và từng quốc gia. Cuộc cách mạng này
cũng có tác động to lớn đến phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nói chung và phát
triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại nói riêng. Với việc tăng
cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong quá trình sản xuất, tài nguyên thiên
nhiên, lao động phổ thông ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất chuyển dịch dần sang
những nước phát triển, nhiều lao động có kỹ năng và chuyên môn cao. Kinh tế thế giới
bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực công nghệ và đổi mới sáng
tạo thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào truyền thống. Điều này
cũng đặt ra một thách thức nếu người lao động không có trình độ chuyên môn, không
có kỹ năng lao động, không có ý thức tự đổi mới, phát huy tinh thần tích cực, sáng tạo
thì tất yếu sẽ trở nên lạc hậu, không bắt nhịp được với yêu cầu của nền sản xuất hiện
đại. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại cũng đặt ra yêu cầu nếu các quốc
gia không ưu tiên phát triển nhân tố người lao động theo hướng chuyên sâu tất yếu sẽ
không thể tạo ra những lợi thế có tính cạnh tranh. Do đó, khoảng cách giữa những
người lao động giản đơn, phổ thông với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật ngày càng được nới rộng; khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia cũng khó có
thể được thu hẹp.
2.3.4. Tác động của hợp tác quốc tế đến người lao động trong quá trình xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
Vì lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu nên người lao động trong lực
lượng sản xuất hiện đại cũng có tính toàn cầu. Do đó, hợp tác quốc tế về lao động trở
thành yếu tố tác động trực tiếp đến tính hiện đại của người lao động hiện nay.
Hợp tác quốc tế về lao động là quá trình liên kết, hợp tác trên phạm vi khu vực
và thế giới về việc đào tạo, sử dụng lao động. Đây là một xu hướng tất yếu trong quá
trình toàn cầu hóa hiện nay. Hợp tác quốc tế về lao động tác động đến việc tạo ra một
đội ngũ những người lao động trong lực lượng sản xuất có những phẩm chất tiên tiến,
có khả năng thích ứng với nhiều doanh nghiệp, nhiều cơ sở sản xuất ở các quốc gia
67
khác nhau. Có thể nói, hợp tác quốc tế về đào tạo lao động sẽ góp phần tạo ra những
thay đổi về chất cho lao động trong lực lượng sản xuất. Ngoài ra, hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực kiểm định, đánh giá chất lượng theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế cũng thúc
đẩy việc nâng cao chất lượng lao động đã qua đào tạo theo tiêu chuẩn mới, có khả
năng thích nghi với những thị trường lao động khắt khe.
Ngoài hợp tác quốc tế về đào tạo lao động còn có hợp tác quốc tế về sử dụng
lao động. Trong lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động không bị bó hẹp trong
phạm vi một cơ sở sản xuất, của một quốc gia mà có thể tham gia vào thị trường lao
động ở nhiều nước trên thế giới. Với các nước có trình độ phát triển lực lượng sản xuất
còn thấp, việc hợp tác quốc tế về sử dụng lao động sẽ cho phép tiếp nhận, sử dụng đội
ngũ chuyên gia, những người lao động có trình độ cao, có khả năng sử dụng những
công nghệ tiên tiến để chuyển giao khoa học - công nghệ trong sản xuất. Từ đó, họ
được đội ngũ chuyên gia này đào tạo để nâng cao trình độ, tay nghề. Ngoài ra, chính
bản thân các nước này cũng có thể xuất khẩu sang các nước phát triển đội ngũ công
nhân lành nghề, đã qua đào tạo để tạo ra nguồn thu nhập cao, kim ngạch xuất khẩu lớn.
Xuất khẩu lao động sẽ tạo đà để các nước có thể hợp tác trong phát triển lực lượng sản
xuất, chuyển giao khoa học - công nghệ.
Ngoài ra, xuất khẩu lao động ra nước ngoài sẽ mở ra cơ hội sử dụng số lao động
có trình độ cao nhưng chưa được sử dụng hoặc chưa được sử dụng một cách hợp lý
vào việc sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ tại nước khác, mang lại thu nhập cho người
lao động. Có thể nói, xuất khẩu lao động cũng góp phần tác động đến sự phân công lao
động quốc tế một cách hợp lý hơn. Theo quy luật đào thải khắt khe của thị trường lao
động quốc tế, những lao động đã qua đào tạo, có trình độ cao có thêm nhiều cơ hội
việc làm, thu nhập cao; ngược lại, những lao động phổ thông, ở trình độ thấp dù được
xuất khẩu lao động cũng chỉ có thể làm những công việc giản đơn, có nhiều nguy cơ bị
sa thải. Do đó, những nước có nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra lực hút mạnh để thu hút
lao động ở các nước có nền kinh tế phát triển kém hơn.
Để có thể ra nước ngoài làm việc, người lao động phải có kỹ năng nghề nghiệp
và trình độ ngoại ngữ nhất định theo yêu cầu của chủ sử dụng. Tuy nhiên, không phải
tất cả mọi lao động muốn ra nước ngoài làm việc đều có thể đạt được các yêu cầu của
nhà tuyển dụng. Vì vậy, phải tổ chức huấn luyện và đào tạo lại cho người lao động. Để
68
thực hiện việc này có hiệu quả, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng
viên và các điều kiện khác đảm bảo cho việc đào tạo và đào tạo lại người lao động.
Điều này sẽ tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngắn hạn và thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại trong dài hạn. Trong ngắn hạn, di
chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài sẽ là một trong các con đường vừa giải
quyết việc làm cho số lao động thất nghiệp, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư
theo chiều sâu, nâng cao sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập. Trong dài hạn, trình độ
người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao nhờ được đào tạo và đào tạo
lại trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Chính người lao động đi làm việc ở nước
ngoài sẽ là động lực của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì đây là nguồn lao động
có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư theo chiều sâu.Bên cạnh đó, nếu
được làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến,
trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động cũng ngày càng được
nâng cao. Ngoài ra, hợp tác quốc tế về lao động cũng góp phần đưa nhanh các tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất. Trong quá trình làm việc, người lao động trực
tiếp sử dụng sử dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại để sản xuất ra hàng hoá và dịch
vụ.Theo quy luật nhận thức, người lao động từ bắt chước để làm theo, sau đó là cải
tiến và cuối cùng là sáng tạo. Kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ixraen cho
thấy, những người lao động đi làm việc ở nước ngoài, sau khi về nước, họ mang những
tri thức đã tích luỹ được áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Chính lực
lượng lao động này đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình đưa công nghệ mới vào sản
xuất. Điều này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng sử dụng khoa học -
công nghệ tiên tiến.
Như vậy, có bốn yếu tố cơ bản tác động đến phát triển người lao động trong xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay. Đó là giáo dục - đào tạo, cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, môi trường xã hội phù hợp và công tác hợp
tác quốc tế về đào tạo và sử dụng lao động. Những yếu tố này ở những mức độ khác
nhau đã và đang tác động đến tính hiện đại của người lao động trong lực lượng sản
xuất hiện nay, góp phần gia tăng cả chất và lượng cho người lao động, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của nền sản xuất trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
69
Tiểu kết chương 2
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ; lực lượng sản xuất đã không ngừng phát triển theo hướng tiên tiến, hiện đại, góp
phần đáng kể vào sự phát triển nói chung của xã hội. Ngoài việc được đo bằng hệ
thống công nghệ mới, với những sản phẩm ít tiêu hao năng lượng, có tính bền vững và
thân thiện với môi trường; lực lượng sản xuất hiện đại còn được đánh dấu bằng những
sản phẩm có tính năng vượt trội, có hàm lượng trí tuệ và chất xám cao, có giá trị gia
tăng lớn. Trong bất kỳ thời đại nào, người lao động vẫn luôn là nhân tố quyết định sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, những
yếu tố cấu thành của nhân tố người lao động lại có những vai trò, vị trí khác nhau. Nếu
như trước đây, khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, yếu tố thể lực, kỹ năng, kinh
nghiệm của người lao động chiếm vị trí ưu thế thì trong thời đại ngày nay, trước yêu
cầu của nền kinh tế tri thức, yếu tố trí tuệ, chất xám, đạo đức nghề nghiệp của người
lao động lại đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Vì
vậy, để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại không thể không chú ý đến nhân tố
người lao động với những yếu tố cấu thành của nó, đặc biệt là yếu tố tri thức, trí tuệ.
70
Chương 3
NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU
3.1. THỰC TRẠNG CỦA NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Những thay đổi tích cực của nhân tố người lao động trong lực lượng
sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay
Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta luôn xác định con người là nhân tố quyết định
thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, để phát triển lực lượng sản xuất
theo hướng hiện đại nhằm tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật trong phát triển kinh
tế - xã hội, Đảng ta đã ưu tiên phát triển nhân tố con người nói chung là người lao
động nói riêng.
Ở Việt Nam, trong số những người lao động tham gia vào sản xuất vật chất,
những người công nhân làm việc trong các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh
doanh chiếm một số lượng rất lớn. Hiện nay, số lượng công nhân Việt Nam có xu
hướng tăng nhanh theo quy mô nền kinh tế.
Đến cuối năm 2015, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp và cơ sở
kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 12,8 triệu người, chiếm
14,2% dân số, 27,34% lực lượng lao động xã hội. Trong đó, có 1,84 triệu
công nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước, 1,21 triệu trong các doanh nghiệp FDI, 5,29 triệu
trong các cơ sở kinh tế cá thể. So với năm 1995, tổng số công nhân tăng
2,14 lần, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 1,03 lần, doanh nghiệp
ngoài nhà nước tăng 6,86 lần, doanh nghiệp FDI tăng 12,3 lần, các cơ sở
kinh tế cá thể tăng 1,63 lần [98, tr.151].
Hiện nay, “cả nước có hơn 12,3 triệu công nhân trực tiếp làm việc trong các
doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế” [98,
tr.174]. Do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nhân làm việc ở các khu vực
kinh tế quốc dân cũng có những thay đổi đáng kể. Công nhân thuộc các doanh nghiệp
71
nhà nước có xu hướng giảm do sự sắp xếp lại cơ cấu. Công nhân thuộc các thành phần
kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp có vốn FDI tăng mạnh do số lượng các
doanh nghiệp này tăng nhanh. Năm 1991, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước mới
có khoảng 1.230 doanh nghiệp, đến năm 1995 đã tăng lên 17.143 doanh nghiệp với
hơn 430 nghìn công nhân. Năm 2014, con số này lên tới 28.900 doanh nghiệp với
6.266,5 nghìn công nhân [98, tr.77]. Số lượng công nhân khu vực ngoài nhà nước chủ
yếu tăng ở các tỉnh, thành phố phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ như Thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng. Trong khu vực
có vốn FDI, đến cuối năm 2009, có 1.919,6 nghìn người đang làm việc trong 6.546
doanh nghiệp. Tính đến hết năm 2013, “cả nước có 291 khu công nghiệp, khu chế xuất
được thành lập tại 58 tỉnh, thành phố, thu hút khoảng 1,9 triệu lao động” [96, tr.17].
Theo Tổng Cục Thống kê, hiện nay, công nhân làm việc trong các ngành công
nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các
ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ sở kinh tế cá thể, công nhân chủ yếu làm việc
trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 66,7%, 33,33% làm việc trong lĩnh
vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp [xem 96, tr.28].
Sau hơn 30 năm đổi mới, người lao động là công nhân ở Việt Nam đã có những
tiến bộ vượt bậc cả về sức khỏe, thể lực; trình độ, tay nghề; tinh thần lao động và khả
năng thích nghi với những thay đổi của thực tiễn xã hội. Điều đó góp phần quan trọng
trong sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay. Hiện nay, công
nhân Việt Nam đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60%
ngân sách nhà nước.
Thứ nhất, lao động trẻ, có sức khỏe; thể lực ngày càng được cải thiện, bước
đầu đáp ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện đại.
Tính đến năm 2014, Việt Nam có dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế
giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. “Trong số trên 90 triệu người,
cả nước có 69,3 triệu người từ 15 tuổi trở lên, trong đó có 53,7 triệu người tham gia
vào lực lượng lao động, chiếm 77,7% dân số, trong đó 70,2% tập trung ở nông thôn”
[99, tr.1]. Hàng năm ở nước ta, trung bình có khoảng hơn 1 triệu thanh niên bước vào
độ tuổi lao động.
72
Hiện nay, Việt Nam là nước có cơ cấu dân số trẻ, đang ở thời kỳ dân số vàng.
Trong số 53,7 triệu lao động, có đến 50,2% số người có độ tuổi từ 15 đến 39. Độ tuổi
bình quân của công nhân nước ta nhìn chung trẻ, “nhóm công nhân từ 18 đến 30 tuổi
chiếm 36,4%, đặc biệt trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài công nhân dưới 25
tuổi chiếm 43,4%, từ 26-35 tuổi chiếm 34,7%, từ 36-45 tuổi chiếm 14%” [99, tr.1].Với
nguồn lao động trẻ dồi dào, Việt Nam đang có lợi thế lớn để phát triển lực lượng sản
xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế
của đất nước. Lao động trẻ sẽ gặp nhiều thuận lợi trong việc tiếp thu những tiến bộ của
khoa học - công nghệ vào sản xuất; thích ứng và bắt nhịp nhanh với quá trình sản xuất
đòi hỏi công nghệ cao, áp lực lớn và thích ứng được việc thay đổi nghề nghiệp, điều
kiện làm việc theo yêu cầu của quá trình sản xuất.
Trong những năm qua, thể lực và tầm vóc của người Việt Nam đã được cải
thiện đáng kể. “Chiều cao trung bình nam giới khoảng 1m65 - 1m68, trong đó có
khoảng trên 10% nam giới cao trên 1m70; nữ cao trung bình từ 1m55 - 1m58, trong đó
có khoảng 10% cao trên 1m60. Cân nặng trung bình nam giới khoảng từ 56 - 60 kg; nữ
là 48 - 50 kg” [97, tr.2]. Trong những năm gần đây, những chỉ số đó ở thế hệ trẻ ở
nước ta đang có xu hướng ngày càng được nâng lên. Những cải thiện về thể lực và tầm
vóc đã góp phần đáng kể trong việc tăng cường sức bền, độ dẻo dai, sự linh hoạt,
nhanh nhẹn cho người lao động ở nước ta. Người lao động đã bước đầu đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe của những dây chuyền sản xuất hiện đại, với cường độ cao,
công nghệ tiên tiến.
Sở dĩ có những thay đổi tích cực về thể lực, sức khỏe của người lao động Việt
Nam như vậy là vì sau hơn 30 năm đổi mới, đời sống vật chất của nhân dân đã không
ngừng được nâng cao. Hơn nữa, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho người lao động
cũng được quan tâm. Hiện nay, công nhân ở nhiều nhà máy, xí nghiệp, thuộc các thành
phần kinh tế ở các địa phương trong cả nước đã có thay đổi cơ bản về mức sống, được
mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, được khám sức khỏe định kỳ. Điều đó làm cho
sức khỏe, thể lực của người lao động được cải thiện đáng kể. Đây là một trong những
tiền đề quan trọng để người lao động nước ta có thể tham gia ngày càng nhiều và có
hiệu quả hơn vào quá trình sản xuất vật chất hiện đại với những yêu cầu, đòi hỏi ngày
càng cao.
73
Thứ hai, tri thức, trí tuệ, kĩ năng của người lao động không ngừng được nâng
lên đáp ứng bước đầu được nhu cầu của nền sản xuất hiện đại.
Không chỉ có sức khỏe, thể lực được cải thiện đáng kể; trong những năm qua,
tri thức và trí tuệ của người lao động nước ta cũng không ngừng tăng lên. Điều đó thể
hiện rõ nét nhất ở số lượng lao động đã qua đào tạo.
Theo số liệu thống kê năm 2014:
Trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động
của nước ta, có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm 18,6% trong tổng số
lao động trên cả nước, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỉ lệ này ở
khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với
nam và 15,4% đối với nữ [99, tr.17].
Trong những năm gần đây, tỷ lệ lao động có trình độ đại học của lực lượng lao
động trực tiếp không ngừng tăng lên. Năm 2012, trung bình cả nước có 4,7%, năm
2013 là 5,8%, đến năm 2014, tỷ lệ này là 6,2% [xem 99, tr.18]. Sự tăng lên không
ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã bước đầu đáp ứng được nhu
cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc ứng dụng những thành tựu của
khoa học - công nghệ vào việc cải tạo nền sản xuất theo hướng hiện đại.
Trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh các ngành công nghiệp,
tỉ lệ lao động đã qua đào tạo, lao động có tay nghề tăng lên nhanh chóng. Để bắt nhịp
với những dây chuyền sản xuất hiện đại và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản
xuất, công tác đào nghề cho lao động công nghiệp rất được chú trọng. Trong những
năm gần đây, để hạn chế tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, nhiều trường dạy nghề cho
công nhân đã được mở rộng và phát triển. Các trường dạy nghề truyền thống trước đây
như trường Đại học Công nghiệp Hà Nôi, Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí
Minh, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Đà Nẵng... đã
được đầu tư những trang thiết bị hiện đại để tạo điều kiện cho sinh viên có thể thực
hành trên những dây chuyền máy móc tiên tiến. Các trường Đại học dạy nghề này
cũng thường xuyên liên kết với các nước có nền công nghiệp phát triển trong khu vực
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản vừa để tận dụng đội ngũ chuyên gia của nước
ngoài, vừa để tạo đầu ra cho nguồn lao động đã qua đào tạo. Nhiều trường trung cấp
dạy nghề cũng được mở ra đáp ứng nhu cầu học nghề ngày càng cao của người lao
74
động. Ngoài các trường dạy nghề chung, hầu hết các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế
lớn đều mở các trường dạy nghề để nâng cao chất lượng tay nghề cho người lao động.
Hiện nay, cả nước có gần 200 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp. Cách
thức tổ chức giáo dục nghề nghiệp cũng được đổi mới và ngày càng phù hợp hơn. Đó
là việc giáo dục nghề nghiệp theo nhu cầu và xu hướng của xã hội, giảm tải thời gian
học tập lý thuyết để học viên có nhiều điều kiện thực hành. Các hình thức đào tạo nghề
cũng thường xuyên thay đổi. Các cơ sở dạy nghề trong các doanh nghiệp không chỉ
đào tạo nghề cho lao động mới tuyển mà còn tổ chức đào tạo lại hoặc bồi dưỡng tay
nghề cho người lao động. Nhờ đó, chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo nghề
cho lao động trong các ngành công nghiệp ở nước ta được cải thiện đáng kể nên tay
nghề của người lao động đã không ngừng được nâng cao. Khoảng 70% học sinh, sinh
viên học nghề tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Ở một
số nghề và một số cơ sở dạy nghề, tỉ lệ này đạt trên 90%, thậm chí có trường, học viên
tốt nghiệp đã doanh nghiệp đặt hàng trước.
Do xu hướng công nghiệp hóa đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, trong những
năm gần đây, ở Việt Nam đã và đang hình thành các khu công nghiệp lớn. Ở miền Bắc
là khu công nghiệp Bắc Thăng Long - Nội Bài, khu công nghiệp Bắc Ninh, Hải
Dương, Hà Nam...; ở miền Nam là các khu công nghiệp Bình Dương, Đồng Nai, Sài
Gòn, Vũng Tàu... Những khu công nghiệp đó đang chiếm một số lượng lớn công nhân.
Để có thể dễ dàng tiếp cận những dây chuyền sản xuất hiện đại, hầu hết các công nhân
đều được đào tạo cơ bản về nghề nghiệp, chuyên môn, thường xuyên được kiểm tra
định kỳ để sát hạch tay nghề. Qua điều tra thị trường lao động của Tổng Cục dạy nghề,
tại gần 3000 doanh nghiệp ở nước ta, đa số lao động qua đào tạo đang làm việc trong
các doanh nghiệp đã được sử dụng có hiệu quả.
Hiện nay, trong các ngành công nghệ cao, số lượng công nhân kỹ thuật, công
nhân có tay nghề, đặc biệt là đội ngũ kỹ sư đang ngày một tăng lên. Do đó, trong các
ngành này, xu hướng trí thức hóa công nhân ngày càng rõ rệt. Sự gia tăng đội ngũ lao
động lành nghề trong các ngành này đã góp phần to lớn trong việc chuyển đổi tính chất
của nền sản xuất, từ công nghiệp truyền thống giản đơn, thủ công sang công nghiệp
hiện đại, tự động hóa và tin học hóa. Sự tăng lên nhanh chóng của đội ngũ công nhân
có tri thức cũng đã góp phần chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp ở nước ta theo hướng
75
hiện đại, phù hợp với xu hướng của các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhiều
ngành nghề trước đây được coi là “then chốt” như cơ khí, xây dựng... thì ngày nay, với
phát triển của khoa học - công nghệ và sự gia tăng trình độ, tri thức của người lao
động, có nhiều công nhân nước ta làm việc trong những ngành nghề mới như điện tử
viễn thông, dầu khí, công nghệ thông tin... Cũng từ đó, trong thời gian qua, có nhiều
công nhân có tay nghề ở nước ta đã tham gia xuất khẩu lao động sang các nước có nền
công nghiệp hiện đại như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức... Đây là sự thay đổi
mang tính bản chất, thể hiện tính chất và trình độ hiện đại của người lao động là công
nhân nước ta trong lực lượng sản xuất. Mặc dù còn chiếm tỉ lệ chưa cao nhưng đội ngũ
công nhân có trình độ, lành nghề này là những người trực tiếp sử dụng những tư liệu
sản xuất hiện đại để từng bước góp phần thay đổi trình độ của lực lượng sản xuất nước
ta trong thời gian qua.
Biểu hiện rõ nhất của những thay đổi tích cực về trình độ, tay nghề của nguồn
lao động trong công nghiệp là xu hướng trí thức hoá công nhân đang diễn ra, nhất là ở
lớp công nhân trẻ. Theo kết quả điều tra, hiện nay, công nhân trong các doanh nghiệp
có trình độ văn hoá khá cao: 100% biết chữ, 80% có trình độ trung học cơ sở và trung
học phổ thông; lao động ở nước ta có 37% qua đào tạo, trong đó 25% đã qua đào tạo
nghề [xem 99, tr.67]. Nhờ đó, trình độ tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân
ngày càng được nâng cao. Trong thời gian tới, xu hướng trí thức hoá công nhân sẽ
ngày càng rõ nét. Dự báo, đội ngũ công nhân trí thức sẽ chiếm khoảng 7% - 10% trong
tổng số lao động kỹ thuật, tập trung ở một số ngành kinh tế mũi nhọn, trong các doanh
nghiệp hiện đại có công nghệ cao và tự động hoá, các khu công nghệ cao... Đây là dấu
hiệu quan trọng phản ánh tính hiện đại của đội ngũ công nhân nước ta nói riêng và
người lao động trong lực lượng sản xuất nói chung. Đây cũng là bộ phận người lao
động tiên tiến, vừa có khả năng tạo ra những đối tượng lao động mới, công cụ lao
động hiện đại; vừa có khả năng chuyển giao những máy móc, công nghệ tiến tiến cho
những người lao động khác để ứng dụng vào sản xuất, từng bước góp phần thay đổi
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta.
Nhờ sự gia tăng đáng kể của đội ngũ công nhân trí thức, trong những năm qua,
Việt Nam luôn là nước nằm trong tốp đầu các nước đạt thành tích cao trong cuộc thi
tay nghề ASEAN. Trong kỳ thi tay nghề ASEAN lần thứ 11 diễn ra từ ngày 24 đến
76
26/9/2016 tại Malaysia, đoàn Việt Nam giành vị trí thứ 3 trên tổng số 10 nước tham
gia, vượt qua cả hai nước Thái Lan và Singapore vốn là những quốc gia luôn đạt được
nhiều thành tích cao trong cuộc thi tay nghề các năm trước. Điều đó cũng đánh dấu
những bước chuyển biến tích cực về trình độ, tay nghề của người lao động nước ta, tạo
nên những chuyển biến theo hướng ngày càng hợp lý hơn với sự gia tăng không ngừng
đội ngũ công nhân trí thức trong tổng số những công nhân trong các doanh nghiệp và
các cơ sở sản xuất, kinh doanh các ngành công nghiệp ở nước ta.
Cùng với sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ hiện đại, áp dụng kỹ thuật và
công nghệ cao, tác phong công nghiệp, văn hoá nghề, kỷ cương, kỷ luật lao động, khả
năng thích nghi trong môi trường đa văn hoá, đa sắc tộc... của công nhân sẽ ngày càng
tăng; ý thức hệ giai cấp, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần yêu nước,...
càng được củng cố và tăng cường. Điều đó cũng phản ánh xu hướng tất yếu là công
nhân nước ta đang từng bước đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại và hội
nhập quốc tế.
Trong nhiều ngành công nghiệp, nhất là những ngành công nghiệp mũi nhọn
như dầu khí, điện tử, công nghệ vật liệu mới... số lượng lao động có trình độ chiếm tỷ
lệ khá cao. Có nhiều người lao động là kỹ sư, công nhân lành nghề được đào tạo cơ
bản về chuyên môn, nghiệp vụ. Họ có thể sử dụng những dây chuyền sản xuất hiện
đại, tiên tiến bậc nhất trên thế giới. Do đó, năng suất lao động trong các ngành này so
với các ngành khác có sự chênh lệch rất lớn. Hàm lượng chất xám, trí tuệ trong các sản
phẩm của các ngành công nghiệp này chiếm tỉ lệ cao.
Như vậy, trong những năm qua, chất lượng của người lao động nước ta trong
lĩnh vực công nghiệp ngày càng được cải thiện. Yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao
động đã từng bước được tăng lên; hàm lượng tri thức, chất xám trong mỗi sản phẩm
ngày một nhiều hơn. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo, nhất là lao động trong các ngành
công nghiệp không ngừng tăng lên, bước đầu đáp ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện
đại.
Thứ ba, sự cần cù, sáng tạo; tính linh hoạt, tháo vát; khả năng thích ứng
nhanh; tích cực ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất cũng là những ưu điểm nổi
bật của người lao động Việt Nam trong lực lượng sản xuất hiện đại.
77
Một trong những ưu điểm nổi bật của con người Việt Nam trong lịch sử là sự
cần cù, linh hoạt, sáng tạo. Nhờ đó, người lao động có năng lực trong việc sản xuất
những mặt hàng đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ, có độ tinh xảo cao. Trong thời kỳ bao cấp,
nhiều ngành sản xuấttruyền thống nổi tiếng của nước ta, nhất là các ngành thủ công
mỹ nghệ rơi vào tình trạng trì trệ, có nguy cơ bị mai một, thất truyền nhưng ngày nay,
do thay đổi cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh và ứng dụng những thành tựu của
khoa học, công nghệ vào sản xuất, các ngành sản xuất truyền thống, nhất là dệt, thêu
ren, mộc, khảm, thủ công mỹ nghệ đã và đang có những khởi sắc đáng kể. Vì vậy,
trong những năm qua, các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở
Việt Nam đã thu hút nhiều lao động tại chỗ, giải quyết việc làm cho lao động ở nông
thôn, góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động ngày càng hợp lý
hơn với xu hướng giảm dần lao động nông nghiệp, tăng dần lao động trong các ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Các sản phẩm do người lao động làm ra cũng được
kết tinh ngày càng nhiều tri thức, chất xám, sự khéo léo, độ tinh xảo của người lao
động nên nó thường có giá trị gia tăng lớn, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà
còn xuất khẩu sang các nước khác trên thế giới.
Cũng với tính cần cù, chăm chỉ, ngày nay số lượng lao động Việt Nam làm việc
trong các ngành công nghiệp lắp ráp công nghệ cao cũng chiếm tỉ lệ khá lớn. Do quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm gần đây, ở Việt Nam có rất
nhiều các công ty, nhà máy lớn được xây dựng do các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như
Sam Sung, Toyota, Deawoo... Các chủ đầu tư của những công ty đó đã nhìn thấy ưu
điểm nổi bật của người lao động nước ta là sự cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó, cơ
cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực, giảm dần tỉ lệ
lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ lao động công nghiệp, góp phần giải quyết
tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động của Việt Nam hiện nay cũng theo
xu hướng của các nước có nền công nghiệp phát triển, khác hẳn với cơ cấu lao động
nghiêng hẳn về sản xuất nông nghiệp như trước đây.
Người lao động Việt Nam còn có sự linh hoạt, tính năng động, tháo vát. Điều
đó đã góp phần đáng kể trong việc tạo ra khả năng thích ứng cho người lao động. Nếu
như trước đây, do ảnh hưởng bởi cơ chế bao cấp, người lao động Việt Nam có phần
78
thụ động, ỷ lại, thì ngày nay, người lao động đã thích ứng trước những thay đổi của
nền sản xuất hiện đại. Nhiều công nhân đã biết tự học hỏi để có thể bắt nhịp được
những dây chuyền sản xuất hiện đại, thích ứng với đòi hỏi ngày càng cao về tính
chuyên nghiệp, tính đồng bộ và áp lực của nền sản xuất.
Sự nhanh nhạy, linh hoạt của người lao động còn được thể hiện ở khả năng tự
thay đổi để đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp, công việc. Hiện nay, khá nhiều người lao
động trong lĩnh vực công nghiệp tự dành thời gian để học tập tin học, ngoại ngữ để có
thể sử dụng được các loại máy móc hiện đại, tìm kiếm cơ hội xuất khẩu lao động sang
các nước khác như Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... Việc gia tăng xuất
khẩu lao động đã qua đào tạo cũng góp phần làm cho lực lượng sản xuất của Việt Nam
có tính khu vực và tính toàn cầu.
Như vậy, có thể thấy, trong những năm qua, người lao động trong lực lượng sản
xuất của nước ta có những cải thiện đáng kể, cả về yếu tố thể lực, sức khỏe; cả về yếu
tố trí tuệ, tri thức; cả về yếu tố tâm lực như sự cần cù, tháo vát, linh hoạt, khả năng
thích ứng... Những ưu điểm đó làm cho người lao động nước ta có những biến đổi
đáng kể cả về số lượng và chất lượng, cả về thể lực, trí lực và tâm lực, từng bước đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại, góp phần đáng kể trong
việc tăng năng suất lao động, hiện đại hóa nền sản xuất, thay đổi cơ cấu nghề nghiệp,
tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
3.1.2. Một số hạn chế của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất
hiện đại ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật như trên, người lao động Việt Nam vẫn còn
tồn tại một số hạn chế, yếu kém. Những hạn chế, yếu kém này đã và đang trở thành
“điểm nghẽn” kìm hãm đáng kể sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại ở nước
ta.
Thứ nhất, thể lực, sức khỏe của người lao động Việt Nam nhìn chung chưa đáp
ứng được yêu cầu cao về sức bền, cường độ lao động cao,sự nhanh nhạy cùng những
biến động của nền sản xuất hiện đại.
Trong những năm qua, mặc dù thể lực, tầm vóc của người lao động Việt Nam
đã có nhiều cải thiện nhưng nhìn chung, người Việt Nam nói chung và người lao động
trong lực lượng sản xuất nói riêng vẫn “thấp bé nhẹ cân”. Theo thông tin từ Ủy ban
79
dân số gia đình và trẻ em, chiều cao của người Việt Nam có sự chênh lệch đáng kể so
với một số nước trong khu vực có điều kiện tự nhiên gần giống nước ta:
Do chậm phát triển so với chuẩn quốc tế nên chiều cao nam thanh niên Việt
Nam hiện nay chỉ đạt 163,7cm (thấp hơn 13,1cm so với chuẩn) và chiều cao
trung bình của nữ Việt Nam là 153cm (thấp hơn 10,7cm so với chuẩn).
Đem chỉ số trên ra so sánh với các nước khu vực châu Á, nam thanh niên
Việt Nam kém thanh niên Nhật Bản 8cm, nữ kém 4cm. Còn trong khu vực
Đông Nam Á, đặc biệt là quốc gia có điều kiện tự nhiên gần giống nước ta
là Thái Lan thì chiều cao của nam thanh niên Việt Nam kém 6cm, nữ kém
2cm [108].
Điều này tạo ra nhiều khó khăn cho người lao động trong việc vận hành những
dây chuyền sản xuất có công suất lớn, lao động cường độ cao. Thể lực hạn chế cũng
khiến người lao động Việt Nam gặp nhiều bất lợi khi thường xuyên chịu áp lực của
việc làm tăng ca và gặp nhiều khó khăn khi đối mặt với những rủi ro và thường xuyên
phải thay đổi công việc, môi trường làm việc trong nền sản xuất hiện đại. Nhiều người
công nhân do hạn chế về thể lực, sức khỏe nên đã phải mất việc hoặc thường xuyên
thay đổi việc làm vì không thể làm việc trong môi trường nhiều áp lực với cường độ
lao động cao.
Ngoài ra, vấn đề an toàn, vệ sinh lao động cũng đang là một trong những yếu tố
ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe, thể lực của người lao động ở nước ta hiện nay.
Trong các ngành công nghiệp, một số lĩnh vực luôn tiềm ẩn nguy cơ tai nạn lao động
là các ngành xây dựng, khai khoáng, hóa chất… Theo số liệu của Cục An toàn Lao
động (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong số 540 nghìn doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở nước ta hiện nay, có 66% cơ sở sản xuất bị ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, 30% cơ sở bị ô nhiễm tiếng ồn, 60% doanh nghiệp không tổ chức khám chữa
bệnh cho người lao động không đúng như cam kết. Theo Thông báo về tình hình tai
nạn lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong 6 tháng đầu năm 2016,
trên toàn quốc đã xảy ra 3.674 vụ tai nạn lao động làm 3.777 người bị nạn, cụ thể: Số
vụ tai nạn lao động chết người: 323 vụ; số vụ tai nạn lao động có từ hai người bị nạn
trở lên: 54 vụ; số người chết: 356 người; số người bị thương nặng: 854 người; nạn
nhân là lao động nữ: 1.176 người [xem 9, tr.1].
80
Những vụ tai nạn lao động xảy ra liên tiếp trong thời gian qua không chỉ đe dọa
đến tính mạng của người lao động mà còn ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động và
tính chuyên nghiệp của nền sản xuất hiện đại. Những tai nạn trong lao động đã phản
ánh tình trạng sản xuất manh mún, trên quy mô nhỏ với những công cụ lao động và
phương tiện sản xuất lạc hậu.
Thứ hai, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, chất lượng đào tạo chưa cao so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, trình độ của người lao động phần lớn
chưa đáp ứng được yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại.
Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của sự phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại là tỉ lệ những người lao động đã qua đào tạo, lao động tay có tay nghề, có
trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm đa số nhưng ở Việt Nam hiện nay, tỉ lệ còn khá
thấp. Theo kết quả Điều tra Lao động và Việc làm năm 2014 cho thấy:
Trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động
của cả nước, chỉ có hơn 9,99 triệu người đã được đào tạo, chiếm 18,6%
tổng lực lượng lao động. Ngược lại, hiện cả nước có hơn 43,76 triệu lao
động (chiếm 81,4% lực lượng lao động) chưa được đào tạo để đạt một trình
độ chuyên môn kỹ thuật nào đó [99, tr.17].
Như vậy, nếu so với trước đây, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo của nước ta đã
tăng lên đáng kể nhưng so với nhu cầu hiện tại của nền sản xuất, chất lượng lao động
còn thấp.
Năm 1996, số công nhân chưa qua đào tạo nghề là 45,7%, năm 2005 là 25,1%.
Trình độ chuyên môn, tay nghề của công nhân các loại hình doanh nghiệp năm 2005
như sau: lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm 16,1%, lao động có trình độ
trung cấp chiếm14,6%, công nhân kỹ thuật chiếm 28,1%, lao động không được đào tạo
chiếm 41,2%. Năm 2014, số lao động có trình độ đại học trở lên là 5,7 %, cao đẳng là
1,7 %, trung cấp là 3,5 %, dạy nghề 3,8 % [xem 99, tr.21]. Tình trạng mất cân đối
trong cơ cấu lao động kỹ thuật khá lớn. Nhiều doanh nghiệp có thiết bị công nghệ cao
nhưng lại thiếu công nhân lành nghề. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công nhân đang làm
những công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
tới năng suất, chất lượng sản phẩm, gây lãng phí trong đào tạo nghề.
81
Theo đánh giá của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trên 80% lao động Việt
Nam là lao động phổ thông, có trình độ thấp. Phần lớn người lao động trải qua quá
trình đào tạo chưa thực sự phù hợp với những yêu cầu trình độ chung của khu vực và
trên thế giới. Trong Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội
khóa XIII, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ rõ:
Tỉ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ ở nước ta khoảng 18,2%, trong khi
lao động qua đào tạo có chứng chỉ ở Singapore là 61,5%. Nếu tính cả số
đào tạo dưới 3 tháng của nước ta thì con số đó là 49% năm 2013, so với
Malaysia là 62%, Philippines là 67%. Kỹ năng của người lao động trực tiếp
nước ta nhìn chung không kém lao động các nước nhưng đội ngũ kỹ sư, kỹ
thuật được đào tạo cơ bản, có trình độ cao còn thiếu [107].
Như vậy, nguồn lao động của nước ta tuy trẻ và dồi dào nhưng tỉ lệ lao động đã
qua đào tạo lại khá thấp so với các nước trong khu vực. Trong số lao động qua đào tạo,
nhất là qua đào tạo nghề, chỉ 1/3 là được đào tạo dài hạn nên kỹ năng, tay nghề còn
yếu, đặc biệt là so với tiêu chuẩn nghề của khu vực và thế giới, dẫn đến thiếu nghiêm
trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, các nhà quản lý và chuyên gia giỏi. Hơn nữa, sự
thay đổi về trình độ của người lao động nước ta trong thời gian qua cũng chưa tương
thích với sự thay đổi về tư liệu sản xuất. Trong khi các loại máy móc theo công nghệ
tiên tiến liên tục được tạo ra và đưa vào sản xuất nhưng trình độ, tay nghề của người
lao động nước ta lại chậm biến đổi; không được đào tạo bài bản để tiếp nhận sự
chuyển giao công nghệ nên chưa thể tận dụng hết những lợi thế của công nghệ hiện
đại. Cũng có khi người lao động có thể sử dụng được các loại máy móc hiện đại nhưng
cách thức sản xuất vẫn theo lề thói cũ, làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, không chú trọng đến
những biến động của thị trường; làm ăn theo lối chụp giật, chỉ chú ý đến lợi ích trước
mắt, không chú tâm đến định hướng phát triển lâu dài. Sự mất cân đối, không đồng bộ
giữa tư liệu sản xuất và trình độ, tay nghề, cách thức tổ chức sản xuất của người lao
động đang trở thành một trong những trở ngại làm cản trở sự phát triển của lực lượng
sản xuất theo hướng hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
Hạn chế về trình độ của người lao động tất yếu dẫn đến năng suất lao động
thấp. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, năng suất lao động của Việt Nam năm
2014 tính theo giá hiện hành đạt khoảng 74,3 triệu đồng mỗi lao động. So với các năm
82
trước, năng suất lao động của năm 2014 tăng lên nhưng vẫn ở mức thấp so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Những ngành sản xuất vốn là mũi nhọn của Việt
Nam cũng có sự chênh lệch đáng kể về năng suất lao động so với một số nước như:
“năng suất lao động của ngành điện chỉ bằng 40% Thái Lan, 60% Malaysia và chỉ
bằng 10% Singapore; năng suất lao động của ngành dệt may chỉ bằng 50% Trung
Quốc, 70% Philippines…” [6, tr.25]. Đây là một thách thức lớn đối với nước ta trong
quá trình phát triển lực lượng sản xuất nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Không chỉ nguồn lao động phổ thông có trình độ chuyên môn kỹ thuật thuật
thấp mà ngay cả đội ngũ lao động tốt nghiệp Đại học cũng có trình độ chưa cao. Theo
kết quả từ các cuộc điều tra của JICA Nhật Bản về các doanh nghiệp chế tạo liên kết
với Nhật cho thấy, tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng ở Việt Nam nghiêm trọng
hơn so với các nước trong khối ASEAN có cùng mức độ phát triển. Khó khăn này
đang có xu hướng gia tăng theo thời gian. Tổ chức này đã đưa ra những số liệu cụ thể
để minh chứng cho điều này như sau:
Qua thực tế, Công ty Intel thuê kỹ sư làm việc cho nhà máy chế tạo tại
thành phố Hồ Chí Minh, công ty thực hiện kiểm tra đánh giá tiêu chuẩn đối
với 2.000 sinh viên công nghệ thông tin Việt Nam nhưng chỉ có 90 ứng
viên, tương đương 5% vượt qua được kiểm tra, trong nhóm này chỉ có 40
ứng viên có đủ trình độ tiếng Anh [Dẫn theo 73, tr.18].
Đây chính là một trong những rào cản lớn cho nguồn lao động có trình độ Đại
học nước ta tham gia vào thị trường lao động. Thực tế trên cũng lý giải tại sao trong
khi số lượng các trường Đại học và số lượng sinh viên không ngừng tăng lên nhưng tỷ
lệ sinh viên ra trường không có việc làm ở Việt Nam vẫn còn rất cao. Điều đó gây ra
tình trạng lãng phí nguồn lao động đã qua đào tạo.
Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp hơn đáng kể so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Điều đó được thể hiện cụ thể qua bảng so sánh
sau:
83
Bảng 3. So sánh các tiêu chí chất lượng cơ bản nguồn nhân lực của Việt
Nam so với một số nước (tính theo thang điểm 10)
Nước/Tiêu
chí
Hàn
Quốc
Trung
Quốc
Indonesia Philippin Malaisia Thái
Lan
Việt
Nam
Hệ thống
giáo dục
8,0 5,12 0,5 3,8 4,5 2,64 3,25
Lao động
chất lượng
cao
7,0 7,12 2,0 5,8 4,5 4,0 3,25
Trình độ
tiếng Anh
4,0 3,62 3,0 5,4 4,0 2,82 2,62
Sự thành
thạo công
nghệ
7,0 4,37 2,5 5,0 5,5 3,27 2,5
Nguồn: [36, tr. 26].
Qua bảng so sánh trên, có thể nhận thấy các tiêu chí đánh giá chất lượng lao
độngcủa Việt Nam đều thấp hơn hầu hết so với các nước được so sánh ở châu Á. Có
những tiêu chí như “lao động chất lượng cao” và “sự thành thạo công nghệ” của
người lao động nước ta thấp hơn rất nhiều so với các nước khác. Điều đó phản ánh
sự chênh lệch khá lớn về chất lượng nguồn lao động của Việt Nam so với các nước.
Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo thấp cũng ảnh hưởng đến vấn đề việc làm cho
người lao động ở nước ta.
Hiện nay cả nước mới chỉ có khoảng 9,6 triệu người (chiếm 18,2%) có việc
làm đã được đào tạo. Ngoài ra, trong số những lao động có việc làm, có
2,7% lao động chưa bao giờ đi học; tỉ lệ lao động có việc làm chưa tốt
84
nghiệp tiểu học cũng rất đáng kể, chiếm 11,3%; trong khi đó, tỉ lệ lao động
có việc làm có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 18,2% [99, tr.23-
24].
Như vậy, phần lớn người lao động có việc làm ở nước ta đều chưa được đào tạo
về chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, dân trí còn thấp. Điều đó ảnh hưởng đáng
kể đến việc việc tiếp cận những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại trong sản
xuất, ảnh hưởng đến cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh của người lao động. Trình
độ dân trí chưa cao, nhất là trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp là những yếu tố cơ bản
phản ánh chất lượng của người Việt Nam còn hạn chế. Đó cũng chính là nguyên nhân cơ
bản làm cho năng suất lao động thấp, lực lượng sản xuất nhìn chung còn ở trình độ lạc
hậu.
Hiện nay, việc thua lỗ và thất thoát số tiền hàng chục ngàn tỷ đồng ngân sách
Nhà nước tại các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước không chỉ do sự yếu kém trong
quản lý, điều hành, quản trị của người đứng đầu tập đoàn cộng với thói quen “xin-cho”
hay “trách nhiệm tập thể” vẫn còn tồn tại trong tư duy của họ mà còn xuất phát từ
chính những người lao động là công nhân làm việc trong các tập đoàn, doanh nghiệp
này. Trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ phát triển rất nhanh, toàn cầu
hóa trở thành xu thế tất yếu, kinh tế tri thức trở thành một đặc trưng của nền kinh tế,
thì vai trò và vị trí trung tâm của con người trong quá trình phát triển đã được khẳng
định. Để xây dựng và phát triển nền kinh tế bền vững cần hội đủ năm yếu tố. Đó là
vốn, khoa học - công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà
nước. Ở một số tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, dù được đầu tư về vốn và khoa học -
công nghệ hiện đại nhưng vì trình độ của công nhân còn thấp, chưa được đào tạo
chuyên sâu về nghề nghiệp nên chưa tương thích, đồng bộ với trình độ hiện đại của
máy móc, công nghệ; cách thức quản xuất còn lạc hậu theo cơ chế bao cấp nên hiệu
quả sản xuất và năng suất lao động chưa cao. Những hạn chế về trình độ của người lao
động trong các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế nhà nước là một trong những
nguyên nhân khiến cho các công ty, tập đoàn này thường xuyên rơi vào tình trạng làm
ăn thua lỗ, thậm chí phá sản.
Như vậy, mặc dù đã tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ sớm nhưng nhìn
chung, trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Việt Nam
85
vẫn còn rất thấp. Đây là một trong những rào cản lớn, một trong những “điểm nghẽn”
đáng kể trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay bởi lẽ
yếu tố tri thức, trí tuệ, chất xám của người lao động Việt Nam hiện vẫn chưa là một
yếu tổ nổi bật đóng vai trò quyết định so với yếu tố thể lực, sức khỏe. Vì phần lớn
chưa được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật nên hầu như người lao động Việt Nam hiện
nay vẫn phụ thuộc phần nhiều vào thể lực, kinh nghiệm. Do đó, sức lao động chưa
được giải phóng mạnh mẽ, chưa tạo ra được những phát minh, sáng chế cải tiến kỹ
thuật, chưa có những đột phá về công nghệ trong sản xuất vật chất.
Thứ ba, tính kỷ luật, ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường sinh
thái... của người lao động Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Do ảnh hưởng lâu dài bởi phương thức sản xuất theo mô hình công xã nông
thôn dựa trên nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, tự cấp, tự túc và kép kín, cũng như ảnh hưởng
bởi các cuộc chiến tranh lâu dài, liên tục để chống địch họa đã tạo nên lối sống khép
kín, lối làm ăn manh mún, tản mạn,... nên tính kỷ luật trong lao động của người Việt
Nam nhìn chung còn thấp. Điều đó đã ảnh hưởng đến lối sản xuất nhỏ lẻ, tùy tiện,
thiếu quy củ, thiếu tính chiến lược của người lao động Việt Nam. Vì vậy, trong nền
sản xuất hiện đại, người lao động Việt Nam tuy có nhiều cơ hội về việc làm hơn trước
nhưng họ lại chỉ hay nghĩ đến lợi ích trước mắt, dễ dao động, dễ thay đổi công việc có
lợi cho mình, ít có sự gắn bó lâu dài với công việc.
Hơn nữa, chế độ phong kiến tồn tại lâu dài cũng góp phầncũng tạo nên tính trì
trệ, bảo thủ, khép kín, làm hạn chế đáng kể ý thức tự giác, chủ động trong việc tiếp thu
những tiến bộ về khoa học - công nghệ và những tri thức khoa học khác của các nước
tiên tiến trên thế giới đối với người lao động Việt Nam. Lối sống tùy tiện, cách thức
làm việc nhỏ lẻ, manh mún, nặng kinh nghiệm, coi nhẹ khoa học - công nghệ cũng
đang là một trong những hạn chế lớn của người lao động nước ta hiện nay. Bởi vậy,
phần lớn người lao động, nhất là ở các cơ sở sản xuất nhỏ đều ngại thay đổi cách thức
sản xuất, không chủ động tiếp thu và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất; ít
có sự sáng tạo nên thường xuyên thiếu việc làm. Công nhân nước ta phần lớn xuất thân
từ nông dân nên họ cũng dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống tùy tiện, ý thức tổ chức kỷ luật
kém, coi trọng kinh nghiệm sản xuất mà ít có ý thức tự học tập để nâng cao trình độ
tay nghề. Có thể nhận thấy một số điểm phức tạp, gần như là mâu thuẫn trong tập
86
quán, lối sống của người lao động nước ta hiện nay như: người lao động Việt Nam vốn
kế thừa được truyền thống anh dũng, can đảm của cha ông trong lịch sử nhưng khi làm
kinh tế lại không táo bạo, quyết đoán; có đức tính cần cù, chăm chỉ nhưng nhiều lúc lại
hướng tới triết lý an lạc, có tư tưởng coi thường lao động chân tay; bền bỉ, dẻo dai
song lại tùy tiện, tản mạn; thông minh, nhanh nhạy nhưng chưa tiến tới sáng tạo trong
việc cải tiến công cụ sản xuất, phương tiện kỹ thuật hiện đại trong sản xuất; đoàn kết,
gắn bó khi gặp khó khăn, hoạn nạn nhưng trong lao động sản xuất lại hẹp hòi, cục bộ;
tiết kiệm đến chi ly trong sinh hoạt hàng ngày nhưng lại lãng phí trong các hoạt động
hiếu hỉ, lễ hội... Những điều đó tưởng như là nghịch lý nhưng đó lại là một thực tiễn
trong lề lối lao động, làm việc của người lao động nước ta, ảnh hưởng đáng kể đến tâm
lý, cách thức sản xuất, tư duy trong công việc khiến nền sản xuất nước ta vẫn luôn bị
trói buộc bởi những tập quán cũ kĩ, lạc hậu, khó có sự bứt phá và cất cánh.
Ngoài ra, ý thức đạo đức nghề nghiệp của người lao động Việt Nam nhìn chung
còn thấp. Với việc đề cao lợi nhuận, nhiều chủ doanh nghiệp, nhất là các cơ sở sản
xuất, chế biến lương thực, thực phẩm đã sử dụng quá mức cho phép các hóa chất độc
hại, phẩm màu. Vì vậy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là một trong những vấn
đề nhức nhối của toàn xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng
của người tiêu dùng. Chính ý thức đạo đức nghề nghiệp của người lao động còn kém
nên chất lượng sản phẩm hàng hóa còn thấp, có độ an toàn không cao, tính cạnh tranh
thấp. Điều đó cũng ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển lực lượng sản xuất theo
hướng bền vững.
Không chỉ hạn chế về ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường
sinh thái của người Việt Nam cũng vẫn còn thấp. Một trong những đặc điểm nổi bật
của lực lượng sản xuất hiện đại là sử dụng công nghệ mới để tạo ra những sản phẩm
gần gũi và thân thiện với môi trường sinh thái. Trong khi đó, ý thức bảo vệ môi trường
sinh thái của người Việt Nam còn rất hạn chế. Do tư duy cục bộ, thiếu ý thức trách
nhiệm, hầu hết các khu công nghiệp ở nước ta đều gây ra tình trạng ô nhiễm môi
trường. Nước thải không qua xử lý từ các khu công nghiệp được xả trực tiếp vào môi
trường gây ra những thiệt hại không nhỏ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy
hải sản ở các vùng lân cận. Không khí ở các khu chế xuất cũng bị ô nhiễm nghiêm
trọng. Ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp đã gây ảnh hưởng lớn đến sức
87
khỏe, tinh thần của bản thân người lao động và nhân dân sống gần các khu công
nghiệp, gây nên những tác hại nghiêm trọng về biến đổi khí hậu, tổn hại đến ngân sách
quốc gia khi phải xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường.
Ngoài các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là các làng nghề
sản xuất các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ cũng đang bị ôm nhiễm nghiêm trọng. Hiện
nay, cả nước có hơn 3000 làng nghề, thu hút hơn 13 triệu lao động. Sự phát triển của
làng nghề góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm cho
người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Tuy nhiên, hầu hết
các làng nghề ở nước ta hiện nay đang phải đối mặt với một vấn đề rất nghiêm trọng là
ô nhiễm môi trường. Hiện tượng này một phần lớn là do ý thức trách nhiệm của người
lao động. Các loại rác thải phát sinh trong hoạt động sản xuất từ các làng nghề hầu hết
đều chưa được xử lý đã được các thợ thủ công, người làm nghề xả ra môi trường, ảnh
hưởng trực tiếp đến nguồn nước, không khí, đất và cảnh quan môi trường. Nhiều làng
nghề, nhất là những nghề liên quan đến chế tác, kim loại còn gây ô nhiễm tiếng ồn
nghiêm trọng từ những tiếng đục, đẽo, khoan, mài... Như vậy, các làng nghề ở nước ta
một mặt đang cố gắng giữ gìn và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc, nhưng mặt khác lại đang gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, làm
cản trở đến chiến lược phát triển kinh tế xanh, phát triển bền vững của đất nước.
Ngoài những hạn chế về ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường
sinh thái, nhìn chung còn nhiều hạn chế về ý thức chấp hành pháp luật và kỷ luật lao
động nhìn chung còn hạn chế. Tỉ lệ người lao động là đảng viên, đoàn viên công đoàn
trong các doanh nghiệp, công ty còn thấp. Thực tế đó khiến lao động nước ta khó có
cơ hội tiếp cận với những ngành đòi hỏi công nghệ cao, có tính chuyên nghiệp, tính
ứng dụng, khó vươn lên vị trí làm chủ. Điều đó cũng lý giải tại sao lao động Việt Nam
cũng dễ mất việc làm, phần lớn chỉ tập trung ở những ngành lao động giản đơn, thủ
công, lắp ráp truyền thống. Những hạn chế về trình độ ngoại ngữ, tin học, trình độ lý
luận chính trị cũng là một trong những rào cản lớn cho nguồn lao động nước ta trên
con đường hội nhập và tiếp cận những tiến bộ trong khoa học - công nghệ.
Bên cạnh đó, người lao động Việt Nam có đời sống văn hóa tinh thần còn
nghèo nàn, đơn điệu. Do những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, người lao động nước
ta thường bị trói buộc vào “miếng cơm, manh áo” nên ít có thời gian và tâm trí quan
88
tâm đến các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Phần đông công nhân nước ta ở các khu
công nghiệp lớn phải đi thuê nhà, có cuộc sống tạm bợ, khó khăn. Điều đó khiến họ
không được giải phóng về tư tưởng, ảnh hưởng lớn đến sự tích cực, hăng hái trong lao
động, khiến họ luôn có tâm lý chỉ là lao động làm thuê, được trả công nên không thật
sự hết mình, không có ý thức phấn đấu và gắn bó lâu dài với công việc. Cũng do
những hạn chế về đời sống vật chất và tinh thần nên người lao động nước ta thường
không chủ động và tích cực trong việc tiếp cận những tiến bộ của khoa học - công
nghệ, không tự đầu tư thời gian và tiền bạc để học tập nâng cao trình độ, tay nghề.
Chính những hạn chế này đã tạo ra hệ quả là nước ta có nguồn lao động trẻ, dồi
dào nhưng lại có số lượng người thất nghiệp trong độ tuổi lao động khá lớn do không
đáp ứng được nhu cầu công việc: “Năm 2014, cả nước có hơn 1 triệu người thất
nghiệp, trong đó khu vực thành thị là 516 nghìn người, khu vực nông thôn là 487
nghìn người. Số lượng người thất nghiệp tập trung nhiều ở nhóm tuổi trẻ, đặc biệt là
nhóm thanh niên từ 15 đến 24 tuổi chiếm đến 47,3% số người thất nghiệp trên cả
nước” [99, tr.40].
Những bất cập về thể lực, trình độ, ý thức nghề nghiệp cũng đang là một trong
những rào cản lớn để người lao động nước ta tham gia vào thị trường lao động của các
nước trong khu vực và trên thế giới. Ngày 31/12/2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN
(ASEAN Economic Community, viết tắt là AEC) được thành lập. Cộng đồng Kinh tế
ASEAN là việc thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn
ASEAN 2020", nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng
và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển
tự do, và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và
chênh lêch kinh tế - xã hội được giảm bớt vào năm 2020. Đây là cơ hội để người lao
động Việt Nam tham gia rộng khắp vào thị trường lao động trong khu vực. Tuy nhiên,
tính cạnh tranh của nguồn lao động nước ta lại thấp, chưa có nhiều lợi thế nổi bật.
Như vậy, có thể nhận thấy, tất cả những yếu tố cấu thành của nhân tố người lao
động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế, bất cập. Thể lực, sức khỏe của người lao động nước ta tuy đã được cải thiện
so với trước kia nhưng nhìn chung còn chậm và kém so với các nước trong khu vực và
trên thế giới; trình độ, tay nghề, kỹ năng của người lao động còn thấp, chưa theo kịp
89
những tiến bộ của khoa học - công nghệ được ứng dụng vào sản xuất; ý thức trách
nhiệm trong công việc, ý thức đạo đức nghề nghiệp và ý thức bảo vệ môi trường sinh
thái còn nhiều hạn chế. Những bất cập đó đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất ở nước ta hiện nay.
3.2. NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU CỦA NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN
CHẾ Ở NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.2.1. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực ở người lao động trong
lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay
Không thể phủ nhận được những thay đổi tích cực của người lao động Việt
Nam sau hơn 30 năm đổi mới. Những thay đổi tích cực đó bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu như sau:
3.2.1.1. Đảng, Nhà nước có những chủ trương đúng đắn trong phát triển
nguồn nhân lực nói chung và phát triển người lao động trong lực lượng sản xuất
nói riêng
Với quan điểm: con người là trung tâm mọi chiến lược phát triển, trong hơn 30
năm đổi mới, Đảng ta luôn đặt con người nói chung và người lao động nói riêng ở vị
trí trung tâm trong mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ở Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quan trọng, đóng vai trò
quyết định đến sự phát triển đất nước: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định đến
sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [29, tr.41]. Hơn nữa, phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực cũng được coi là một khâu đột phá quan trọng để thúc đẩy
nền kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay: “Phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là
yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất,
đảm bảo cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [29, tr.130]. Đây là một quan
điểm đúng đắn nhằm khắc phục những “điểm nghẽn” trong phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
90
Để cụ thể hóa quan điểm này, Đảng ta đã có nhiều đường lối, chủ trương nhằm
phát triển nguồn nhân lực, trong đó Đảng ta đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ. Đảng ta xác định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát
triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
[31, tr.114]; “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công
nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại và kinh tế tri thức” [31, tr.119-120]… Từ đó, công tác đào tạo cho người
lao động được chú trọng theo chiều sâu, hướng đến mục tiêu đào tạo để nâng cao trình
độ, tay nghề cho người lao động. Những thành tựu khoa học và công nghệ cũng được
ứng dụng rộng rãi vào sản xuất tại các doanh nghiệp, công ty; góp phần thay đổi đáng
kể tính chất của lao động từ thủ công truyền thống sang cơ khí hóa, tự động hóa, làm
tăng năng suất lao động và gia tăng giá trị của sản phẩm hàng hóa.
3.2.1.2. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập quốc tế đã
góp phần thay đổi tích cực người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta tuy được bắt đầu từ những
năm 60 của thế kỷ XX nhưng nó chỉ thực sự được đẩy mạnh từ khi đổi mới đến nay.
Với mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
Đảng ta còn gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế. Đây là một chủ trương đúng đắn góp phần làm thay đổi tích cực
người lao động Việt Nam trong những năm qua.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết làm thay đổi cơ cấu kinh tế
và cách thức tổ chức sản xuất của người lao động. Từ một nước nông nghiệp thuần túy
với ngành nông nghiệp chiếm phần lớn trong tỉ trọng đóng góp của các ngành, cho đến
nay, tỉ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp đang ngày một giảm dần, tỉ trọng đóng
góp của hai ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên nhanh chóng. Cùng với đó, cơ cấu
lao động của các ngành cũng có sự chuyển biến đáng kể. Từ một nước đa số là nông
dân, cho đến nay, số lượng công nhân nước ta cũng ngày càng tăng lên. Nếu như nông
dân lao động chủ yếu theo những tập tính, thói quen đã sẵn có từ lâu đời thì công nhân
hầu như đều được đào tạo nghề (ngắn hạn hoặc dài hạn). Quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa còn làm xuất hiện đội ngũ công nhân mới - công nhân trí thức với trình độ
tay nghề cao, biết cách sử dụng các loại máy móc hiện đại, có ý thức tổ chức kỷ luật
91
tốt. Đội ngũ công nhân này không phải là những lao động trực tiếp thuần túy mà họ có
thể là những chuyên gia, những kỹ sư... tham giam quản lý, điều hành sản xuất. Điều
đó góp phần từng bước thay đổi tính chất của người lao động, từ phụ thuộc đến từng
bước làm chủ quá trình lao động của mình.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế còn tạo ra một thế hệ người
lao động Việt Nam mới mà ở thế kỷ trước hầu như chưa có. Đó là những người lao
động làm việc ở nước ngoài. Trong những năm gần đây, mỗi năm nước ta không chỉ
xuất khẩu hàng nghìn lao động phổ thông sang các nước trong khu vực như Đài Loan,
Malaysia, Indonesia... mà sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)... đã tạo
điều kiện cho Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn lao động có trình độ sang các nước
có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Đức, Mỹ... Điều này giúp cho lao động Việt
Nam có thêm nhiều cơ hội làm việc ở những nước có nền sản xuất hiện đại, tiếp thu
được những tiến bộ về khoa học - công nghệ ứng dụng trong sản xuất, trau dồi được
tác phong làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm... Khi trở về nước, họ
mang theo những tiến bộ đó để làm việc một cách có hiệu quả và chuyên nghiệp hơn.
3.2.1.3. Bản thân người lao động Việt Nam đã biết thích nghi trước những
thay đổi của nền sản xuất hiện đại
Một trong những nguyên nhân chủ yếu mang đến những thay đổi tích cực của
người lao động Việt Nam sự thích nghi trước những thay đổi của nền sản xuất hiện
đại. Con người Việt Nam nói chung và người lao động nói riêng luôn có tính nhạy bén,
năng động nên trước yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, người lao
động Việt Nam đã chủ động thích nghi. Nếu như trước đây, học sinh nước ta chủ yếu
theo học các trường Đại học, cao đẳng thì trong những năm gần đây, xu hướng học
sinh học nghề đang ngày một tăng lên. Họ hướng đến những nghề mà xã hội đang cần
nên sau một thời gian ngắn đào tạo, hầu hết học sinh học nghề đều có việc làm; trong
khi đó, một số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học, cao đẳng ra trường
lại không có việc làm, hoặc phải làm việc không đúng với chuyên ngành đã được đào
tạo. Không chỉ có vậy, ngay cả những công nhân đã được nhận vào làm cũng tích cực,
chủ động học nghề theo yêu cầu công việc để có thu nhập cao hơn.
Nhận thấy lao động nông nghiệp đang gặp nhiều khó khăn trong sản xuất như
giá thành đầu vào cao (giống, phân bón...), thị trường tiêu thụ hạn chế, gặp nhiều rủi ro
92
vì thời tiết..., nhiều lao động nông nghiệp, nhất là những lao động trẻ đã chuyển từ sản
xuất nông nghiệp truyền thống sang làm công nhân tại các nhà máy, các khu công
nghiệp ở địa phương. Vì muốn có thu nhập cao, nhiều lao động ở nông thôn chủ động
học ngoại ngữ, tin học để tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động... Để thích nghi
với nền sản xuất hiện đại, công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất đã
biết thay đổi tập quán sản xuất từ thủ công sang sử dụng máy móc; từ sản xuất nhỏ lẻ,
manh mún sang sản xuất theo dây chuyền, tập trung với trình độ chuyên môn hóa cao.
Ở các doanh nghiệp lớn, để tránh bị đào thải và có được thu nhập ổn định, có vị trí
cao, người lao động phải tự thích nghi với môi trường làm việc cường độ cao, kỷ luật
lao động nghiêm ngặt. Do đó, ý thức trách nhiệm của người lao động cũng được cải
thiện rõ rệt. Có thể nói, chính môi trường làm việc chuyên nghiệp theo hướng hiện đại
đã tạo nên động lực quan trọng để người lao động tự thay đổi chính mình để có thể
thích nghi.
3.2.2. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt hạn chế ở người lao động trong
lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay
3.2.2.1. Sản xuất chậm phát triển, đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn
nên sức khỏe thể lực của người lao động Việt Nam chậm được cải thiện
Trong những năm qua, mặc dù nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển ở
mức độ khá, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao - đó là điều kiện tiên quyết
để chăm lo phát triển thể lực con người Việt Nam nhưng trên thực tế, trong khi dân số
của nước ta đứng thứ 13 thế giới nhưng kinh tế chỉ đứng vị trí 42 thế giới, thu nhập
bình bình quân đầu người cũng chỉ ở mức “trung bình thấp”
Nhìn chung, đời sống vật chất của người Việt Nam nói chung và người lao
động nước ta nói riêng còn thấp. Phần lớn người Việt Nam đều ở mức độ thiếu dinh
dưỡng, hoặc dinh dưỡng không cân đối nên so với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Mức lương của người lao động hiện nay về cơ bản không đáp ứng được nhu cầu
sinh hoạt tối thiểu của bản thân, chưa nói đến việc tích lũy hay chăm lo cho con cái...
Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương tối thiểu, thậm chí có quy định về
mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm ở các loại hình doanh nghiệp
(Nghị định số 70/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên, mức tăng thường không theo kịp tốc độ
tăng giá của thị trường. Chẳng hạn, năm 2010, tiền lương của người lao động trong các
93
loại hình doanh nghiệp tăng 10,3% so với năm 2009 nhưng chỉ số giá sinh hoạt tăng
11,75%, nên việc tăng lương không có tác dụng nhiều trong việc cải thiện đời sống
công nhân, đặc biệt là công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong khi đó,
phần lớn các chủ doanh nghiệp vẫn đang lấy mức lương tối thiểu để trả lương cho
người lao động, chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng thang, bảng lương. Ngoài ra,
các chủ doanh nghiệp còn bớt một phần lương của người lao động chi cho các khoản
phụ cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi lại, thưởng...
Không chỉ đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn mà điều kiện lao động,
làm việc của người lao động, nhất là trong những ngành công nghiệp nặng ở nước ta
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến độ an toàn trong lao động.
Điều kiện làm việc trong ngành xây dựng rất phức tạp do thường xuyên
phải thay đổi địa điểm, máy móc, thiết bị… Công nhân xây dựng chủ yếu
phải làm việc ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết, chóng mệt
mỏi, suy yếu, cảm nóng, cảm lạnh. Hơn nữa, môi trường lao động còn có
rất nhiều yếu tố độc hại như mụi đá, rung, ồn, hơi độc [40, tr.35].
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, thể lực mà còn tác động không
nhỏ đến cả tâm lý sản xuất của người lao động.
3.2.2.2. Cơ chế, chính sách để thực hiện lợi ích còn nhiều hạn chế, bất cập
nên chưa phát huy được tính tích cực của người lao động
Không chỉ nền kinh tế chậm phát triển, đời sống vật chất của người lao động là
công nhân nước ta còn gặp nhiều khó khăn mà công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho
người lao động nhìn chung còn thấp. Hiện nay, chi tiêu của Chính phủ còn khá thấp so
với nhu cầu khám chữa bệnh của người lao động: “Chi tiêu của chính phủ cho công tác
chỉ tương đương với 2,8% GDP. Hơn 50% chi tiêu cho y tế chính là chi tiêu từ túi tiền
của bệnh nhân. Chi tiêu công cho y tế chiếm khoảng 8,7% chi tiêu công ở Việt Nam so
với mức 14,1% ở Thái Lan và 9,9% ở Trung Quốc” [6, tr.28]. Với mức đầu tư cho y tế
còn thấp như vậy, cơ sở vật chất trong y tế thiếu thốn, lạc hậu. Hiện tượng quá tải về
bệnh nhân trong các bệnh viện, nhất là ở các bệnh viện lớn vẫn đang là vấn đề nhức
nhối. Hơn nữa, mức đầu tư, các dịch vụ y tế cũng như nhân lực của ngành y, tập trung
chủ yếu ở đô thị, còn ở nông thôn, nhất là vùng núi cao, xa, sâu, dịch vụ y tế còn thiếu
thốn và kém chất lượng. Vì vậy, có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, các địa
94
phương trong việc hưởng lợi từ những dịch vụ y tế. Mức đầu tư cho công tác y tế còn
thấp cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến việc khám chữa bệnh và công tác bảo hiểm y tế
cho người lao động. Mặc dù hầu hết những người lao động trong các ngành công
nghiệp nước ta đều được mua bảo hiểm y tế nhưng công tác khám sức khỏe định kỳ
chưa được tổ chức thường xuyên, có những nơi tổ chức khám sức khỏe chỉ mang tính
hình thức, qua loa nên người lao động không được chăm sóc sức khỏe một cách tích
cực, phần lớn lao động công nghiệp nước ta đều mắc bệnh nghề nghiệp. Theo số liệu
của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2014, chỉ có khoảng 21% doanh nghiệp
ngoài nhà nước đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho công nhân và trích nộp kinh
phí công đoàn. Hầu như người lao động phải tự bỏ tiền ra mua bảo hiểm y tế nên tỉ lệ
những người nông dân có bảo hiểm y tế ở nước ta còn thấp. Điều đó ảnh hưởng rất lớn
đến việc chăm sóc sức khỏe, phát hiện và điều trị kịp thời bệnh tật cho người lao động.
Do đó, độ bền bỉ, dẻo dai về thể lực và “tuổi thọ nghề nghiệp” của người lao động Việt
Nam nhìn chung còn thấp.
Ngoài ra, cơ chế, chính sách về nhà ở cho người lao động là công nhân nước ta
còn nhiều hạn chế. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các tỉnh, thành phố lớn,
các khu công nghiệp, khu chế xuất không xây nhà lưu trú cho công nhân. Số người lao
động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất khoảng 1,6 triệu người, trong đó, chỉ có
20% số người có chỗ ở ổn định. Đa số người lao động ngoại tỉnh làm việc tại các khu
công nghiệp, khu chế xuất đều phải thuê nhà trọ, với điều kiện vệ sinh, môi trường
không bảo đảm.
Thực hiện Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về Cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người lao động trong các khu
công nghiệp, các tỉnh, thành phố đã đăng ký 110 dự án nhà ở cho người lao động tại
các khu công nghiệp giai đoạn 2010 - 2015. Tuy nhiên, cho đến nay, các dự án nhà ở
cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đều chậm tiến độ so với yêu cầu,
trong số 27 dự án đã được khởi công xây dựng mới có 9 dự án hoàn thành. Trong quy
hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, phần lớn chưa tính tới nhu cầu về
chỗ ở, nhà trẻ, trường học cho gia đình người lao động. Một số nơi xây nhà ở cho
người lao động thì lại thiếu đồng bộ với việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội. Do vậy,
gây khó khăn không nhỏ đối với người lao động trong sinh hoạt, làm việc... Ngoài ra,
95
ở Việt Nam còn thiếu những cơ chế tạo động lực cho người lao động như cơ chế tuyên
dương, khen thưởng cho những người lao động có thành tích tốt, có sáng kiến cải tiến
kỹ thuật. Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất mới chỉ chú trọng đến việc khai thác,
sử dụng sức lao động của người công nhân mà chưa ưu tiên đến việc đáp ứng nhu cầu
giải trí, văn hóa tinh thần nhằm tái sản xuất sức lao động, khích lệ, động viên tính tích
cực, sáng tạo cho người lao động. Vì thế, nhìn chung người lao động là công nhân ở
nước ta có đời sống tinh thần còn nghèo nàn, chưa thực sự gắn bó với doanh nghiệp,
chưa phát huy được hết tinh thần hăng hái, ý thức trách nhiệm trong công việc. Ở
nhiều doanh nghiệp và cơ sở sản xuất còn nhiều hiện tượng công nhân tự ý bỏ việc, bãi
công, làm việc chống đối… Những hiện tượng đó đang đè tặng lên tâm lý sản xuất của
người lao động nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, các tổ chức công đoàn các cấp ở Việt Nam hiện nay cũng chưa
phát huy được hết vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục, tuyên truyền cho
người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất về luật lao
động, quyền hạn và trách nhiệm của người lao động; chưa nói lên được tiếng nói của
mình khi người lao động đứng lên đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Người lao động, kể cả lao động có trình độ, lao động chất lượng cao ở nước ngoài
cũng chưa thực sự được quan tâm, giúp đỡ và được bảo vệ khi xảy ra những tranh
chấp về lao động. Do đó, người lao động ở nước ta hiện nay vẫn chưa có sự gắn kết
chặt chẽ, chưa có ý thức pháp luật và chưa có nhiều cơ chế, chính sách tạo động lực để
họ có thể phát huy tốt tâm lực của mình trong nền sản xuất hiện đại và hội nhập quốc
tế.
3.2.2.3. Chất lượng công tác đào tạo, nhất là đào tạo nghề còn thấp nên hiệu
quả lao động chưa cao
Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, một trong những khâu đột phá chiến
lược được Đảng ta xác định là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và
người lao động nói riêng. Giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nghề cho người lao động
được coi là khâu then chốt nhằm cải thiện chất lượng người lao động trong lực lượng
sản xuất ở nước ta hiện nay.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về trình độ, tay nghề của
người lao động nước ta là do sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu đào tạo nghề.
96
Năm 2007, trong số lao động qua đào tạo thì cứ 1 qua đào tạo đại học, chỉ có 0,76 qua
đào tạo trung học và 3 qua đào tạo nghề; chất lượng đào tạo nghề nghiệp chưa cao nên
khả năng cạnh tranh của lao động rất thấp. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
(WB):
Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm
10), xếp thứ 11 trong 12 nước ở châu Á được tham gia xếp hạng; thiếu
nhiều chuyên gia trình độ cao, thiếu công nhân lành nghề; Chỉ số Kinh tế
Tri thức ( KEI) của nước ta còn thấp, chỉ đạt 3,02 điểm, xếp thứ 102/133
quốc gia được phân loại; lao động nông thôn chủ yếu chưa được đào tạo
nghề, năng suất lao động thấp [21, tr.22].
Hiện nay, hệ thống đào tạo nghề chuyên môn kỹ thuật nước ta hiện có 300 cơ
sở, mỗi năm đào tạo được từ 85 nghìn đến 90 nghìn lao động. Năng lực đào tạo các
khóa ngắn hạn theo nhu cầu chính sách đối với lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ,
người tàn tật và những đối tượng khác hàng năm mới đạt khoảng từ 110 đến 120 nghìn
người. Cùng với hệ đào tạo lao động kỹ thuật, cả nước hiện có 345 trường đại học cao
đẳng, 273 trường trung học chuyên nghiệp. Hệ thống đào tạo này cung cấp cho nền
kinh tế nguồn nhân lực theo một cơ cấu trình độ: 1 đại học, 0,8 trung học và 3,7 công
nhân. Trong khi đó, theo nghiên cứu của các chuyên gia, cơ cấu lao động kỹ thuật hợp
lý phải là: 1 đại học, 4 trung học chuyên nghiệp và 15 - 20 công nhân (lao động kỹ
thuật). Những tính toán của chuyên gia Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã
hội Quốc gia (NCEIF) vào năm 2009 cho thấy: “Nếu tiếp tục đào tạo theo hệ thống
hiện hành, đến năm 2020 Việt Nam sẽ thiếu từ 3,8 triệu đến 5,12 triệu lao động kỹ
thuật, thiếu từ 3,14 triệu đến 3,4 triệu lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và
thừa từ 3,6 triệu đến 3,68 triệu lao động có trình độ đại học, cao đẳng” [73, tr.17].
Những bất cập trong cơ cấu đào tạo như trên đã dẫn đến tình trạng “thừa thầy
thiếu thợ”, làm lãng phí đáng kể đến nguồn lao động, ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở
rộng sản xuất; đồng thời tất yếu dẫn đến những bất hợp lý trong tỷ lệ người lao động
thất nghiệp ở nước ta hiện nay. Điều này đã tạo ra một số bất hợp lý đối với nguồn lao
động của nước ta bởi để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại cần nguồn lao động trẻ,
có trình độ, có tay nghề, nhanh nhạy, tháo vát, sáng tạo nhưng số lượng thanh niên thất
nghiệp lại chiếm gần một nửa số lượng người thất nghiệp trên cả nước. Đặc biệt, khi
97
phân chia tỷ trọng người thất nghiệp theo trình độ, số lượng người có trình độ tốt
nghiệp Đại học, cao đẳng chiếm tỷ lệ khá cao. Điều đó được thể hiện qua bảng số liệu
sau:
Bảng 4. Cơ cấu người thất nghiệp chia theo các bậc học cao nhất
đã đạt được năm 2014
Tỷ trọng (%) Bậc học cao nhất đã
đạt được Tổng số Nam Nữ
Tổng số 100,0 100,0 100,0
Chưa đi học 2,1 2,0 2,2
Chưa tốt nghiệp tiểu học 5,2 4,2 6,3
Tốt nghiệp tiểu học 14,0 14,1 13,8
Tốt nghiệp THCS 21,1 21,7 20,5
Sơ cấp nghề 3,1 5,3 0,6
Tốt nghiệp PTTH 17,6 19,1 15,9
Trung cấp nghề 3,1 4,5 1,6
Trung cấp chuyên nghiệp 8,1 6,0 10,6
Cao đẳng nghề 1,5 2,3 0,6
Cao đẳng 7,7 5,4 10,3
Đại học trở lên 16,5 15,4 17,7
98
Nguồn: [99, tr. 41].
Qua bảng số liệu trên, có thể thấy rõ một nghịch lý là tỷ lệ những người thất
nghiệp có trình độ Đại học, cao đẳng cao hơn hẳn những người có trình độ thấp hơn.
Nếu những người thất nghiệp có trình độ cao đẳng là 7,7%, Đại học là 16,5% thì
những người thất nghiệp có trình độ sơ cấp nghề chỉ 3,1%, trung cấp nghề 3,1%, thậm
chí những người chưa đi học là 2,1%. Điều này trái với quy luật chung là nạn thất
nghiệp có mối liên hệ mật thiết, và thường là tỉ lệ nghịch với trình độ giáo dục. Thông
thường, việc tham gia đào tạo tại các cơ sở (nhà trường, trung tâm dạy nghề) làm tăng
cơ hội việc làm, tăng thu nhập từ việc làm bằng cách cung cấp tri thức, kỹ năng về
nghề nghiệp. Hay nói cách khác, những người học cao hơn (đặc biệt là đại học) là
những người có nhiều năng lực hơn, có nhiều cơ hội việc làm hơn và họ có năng suất
lao động cao hơn và thu nhập từ việc làm của họ cũng cao hơn những người chỉ học
các cấp thấp hơn. Việc trái quy luật này cho thấy việc không gặp nhau giữa cung và
cầu của công tác đào tạo và thị trường lao động. Điều này phản ánh thực trạng sinh
viên tốt nghiệp các trường Đại học, cao đẳng khó xin được việc làm hơn những người
có trình độ thấp hơn. Do những bất cập trong công tác đào tạo như vậy nên ở Việt
Nam đang xảy ra tình trạng có một lực lượng không nhỏ có trình độ đại học và trên đại
học đang làm các nghề yêu cầu chuyên môn kỹ thuật thấp hơn. Để có việc làm kỹ năng
thấp hơn này, nhiều người đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng chưa có việc làm theo
chuyên môn đã mất thêm chi phí về tài chính và thời gian quay lại học trung cấp ở
những ngành nghề phù hợp hơn, dễ tìm việc làm hơn. Thực trạng này phản ánh sự mất
cân đối trầm trọng giữa đào tạo và sử dụng lao động hiện nay, gây ra sự lãng phí lớn
về nguồn lực con người và nguồn lực tài chính của gia đình và của toàn xã hội.
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong quý 2 năm
2016, cả nước có 1,088 triệu người lao động trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp, tăng
16.400 người so với quý 1 năm 2016. Đáng chú ý, “trong số những người bị thất
nghiệp có tới 418.200 người có chuyên môn kỹ thuật, cụ thể có 191.300 người có trình
99
độ từ đại học trở lên, 94.800 người có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp và 59.100
người có trình độ trung cấp chuyên nghiệp” [102, tr.5]. Lý giải về việc lao động có
trình độ chuyên môn thất nghiệp, đặc biệt là lao động có trình độ tốt nghiệp từ đại học
trở lên, ông Đào Quang Vinh - Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho
rằng hiện nay, Việt Nam đang thừa ở nhóm lao động mà thị trường lao động không
cần như ngành quản trị kinh doanh, kinh tế; nhưng chúng ta lại đang thiếu các kỹ sư
công nghệ, kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật. Thực tế đã cho thấy đang có độ vênh giữa
công tác đào tạo và nhu cầu tuyển dụng trên thị trường lao động. Những bất cập đó
cũng đã dẫn đến tình trạng bản thân những người lao động đã được đào tạo những lại
chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Vì vậy, trong khi nước ta đang
lãng phí một nguồn lao động lớn có chất xám thì ở nhiều cơ sở sản xuất, nhất là những
công ty, xí nghiệp lớn phải bỏ tiền thuê nhân công, người quản lý nước ngoài với giá
cao. Hơn nữa, trong nhiều cơ sở sản xuất tuy được đầu tư máy móc, công nghệ tiên
tiến nhưng trình độ của người lao động thấp nên không tận dụng hết ưu thế của công
nghệ hiện đại.
Những bất cập trong công tác đào tạo nghề cho người lao động đã khiến tỉ lệ
lao động đã qua đào tạo của Việt Nam không chỉ thấp mà còn chưa đáp ứng được với
nhu cầu của công việc. Trong các trường Đại học, cao đẳng chủ yếu mới chú trọng đến
dạy kiến thức, dạy nghề mà chưa chú ý đúng mức đến việc giảng dạy các kỹ năng
nghề nghiệp, khả năng thích ứng với thị trường và với những rủi ro, thay đổi về nghề
nghiệp, kiến thức về hội nhập... Trong khi đó, các nhà tuyển dụng đòi hỏi ngày càng
cao các kỹ năng mềm khi họ dành đến 75% số điểm khi tuyển dụng cho các kỹ năng
như (nghiệp vụ chuyên môn, tác phong, thái độ làm việc, khả năng xử lý công việc) và
chỉ có khoảng 25% số điểm còn lại là cho bằng cấp. Do chưa bắt kịp được xu thế sử
dụng lao động của doanh nghiệp và chưa đủ đội ngũ giáo viên để thay đổi ngành đào
tạo đáp ứng cầu trong thị trường lao động hướng theo sự chuyển dịch mô hình, cơ cấu
kinh tế của xã hội, các cơ sở giáo dục và các trường đại học thường đưa ra những
chương trình học và đào tạo các sinh viên tốt nghiệp ra trường với những kỹ năng
không phản ánh đầy đủ nhu cầu của thị trường lao động.
Ở Việt Nam hiện nay, cơ cấu ngành kỹ thuật chiếm khoảng 35% nhu cầu thị
trường việc làm, tuy nhiên trong nhiều năm gần đây, các trường đại học lại
100
tập trung đào tạo khối ngành kinh tế, tài chính dẫn đến sự dư thừa nguồn
nhân lực. Nếu tính người có bằng đại học trên tổng số dân thì tỉ lệ người có
bằng đại học ở nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, nhưng
tốc độ đào tạo ngày càng tăng và mất cân đối giữa cung và cầu đã dẫn đến
thừa nhân lực trình độ đại học theo kiểu cục bộ [45, tr.14].
3.2.2.4. Sự phân bố lao động, nhất là lao động đã qua đào tạo còn bất hợp lý
đã hạn chế khả năng của người lao động Việt Nam
Hiện nay, trình độ dân trí và lao động được đào tạo có sự chênh lệch lớn giữa
các vùng, các địa phương. Ở các đô thị và các vùng có điều kiện phát triển về kinh tế
- xã hội, có trình độ dân trí cao, tập trung nhiều, thậm chí dư thừa lao động có trình
độ; còn ở các vùng sâu, vùng xa trình độ dân trí nhìn chung còn lạc hậu, lao động
chủ yếu chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật:
Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất là ở Hà Nội (39,0%) và thấp nhất là
ở Đồng bằng sông Cửu Long (10,4%)....Tỉ trọng lực lượng lao động có
trình độ đại học trở lên khác nhau đáng kể giữa các vùng. Nơi có tỷ trọng
này cao nhất là Hà Nội (21,2%) và Thành phố Hồ Chí Minh (18,8%).
Ngược lại, Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất của cả nước lại là
vùng có tỉ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên thấp nhất
(4,5%) [99, tr.18].
Với mục tiêu: Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng ta xác định cần phải phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại trên cả nước, ở các vùng miền, nhất là những vùng nông thôn, miền núi còn
gặp nhiều khó khăn: “Phát triển hài hòa giữa các vùng đô thị và nông thôn. Đẩy mạnh
phát triển các vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ
phát triển các vùng còn nhiều khó khăn. Hình thành hệ thống đô thị phân bổ hợp lý ở
các vùng; phát triển hài hòa giữa thành thị và nông thôn” [29, tr.39-40]. Đây là một
chủ trương đúng đắn góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã
hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, sự phân bổ lao động,
nhất là lao động đã qua đào tạo ở nước ta còn nhiều bất cập, mất cân đối giữa các vùng
miền, các ngành nghề sản xuất, các thành phần kinh tế.
101
Hiện nay, trong tổng số 53,748 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng
lao động mới có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm 18,6% tổng lực lượng lao
động. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo có sự chênh lệch khá lớn giữa thành thị và nông
thôn; giữa các vùng trong cả nước. “Năm 2014, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ở thành
thị là 34,7%, trong khi đó, ở nông thôn là 11,5%. Trong các vùng trên cả nước, Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh là hai địa phương có tỉ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất
cả nước là 39,0% và 32,5%; trong khi đó, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và Tây
Nguyên chỉ có 10,4% và 12,6% tỷ lệ lao động đã qua đào tạo” [xem 99, tr.17]. Sự
chênh lệch đó đã tạo nên rất nhiều khó khăn cho các vùng sâu, vùng xa trong việc phát
triển lực lượng sản xuất. Do trình độ tay nghề của người lao động thấp nên người lao
động ở các vùng này hầu như chỉ lao động thủ công với máy móc lạc hậu, chưa tận
dụng được ưu thế của khoa học - công nghệ hiện đại nên năng suất lao động thấp.
Với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong những
năm qua, tỉ lệ lao động trong các ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch nhưng chưa thực
sự hợp lý. Số lao động tập trung trong các ngành nông, lâm, thủy sản vẫn chiếm gần
một nửa là 46,3%; các ngành công nghiệp và xây dựng có tỉ lệ lao động còn khá khiêm
tốn là 28,3%; các ngành dịch vụ chiếm tỉ lệ 25,4% tổng số lao động trong các ngành
[xem 99, tr.21]. Tỉ lệ lao động ở các ngành kinh tế có sự chênh lệch đáng kể giữa các
vùng, miền trên cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh có tỉ lệ lao động trong lĩnh vực công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ cao nhất cả nước, chiếm 97,4%. Ở các vùng miền núi và
ven biển, tỉ lệ lao động làm việc trong các ngành nông, lâm, thủy sản còn khá cao; ở
Tây Nguyên là 72,6%, ở Trung du và Miền núi phía Bắc là 69,5%, ở Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung là 53,8% [xem 99, tr.27-28]. Việc lao động nông nghiệp chiếm
tỷ lệ gần một nửa trong tổng số lao động của tất cả các ngành đã cho thấy nền kinh tế
nước ta vẫn còn là nền kinh tế nông nghiệp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất còn thấp. Chỉ khi lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
chiếm đa số, hơn hẳn ngành nông nghiệp thì mục tiêu phát triển nước ta thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại mới có thể trở thành hiện thực.
Không chỉ có những bất hợp lý trong việc phân bố lao động theo các ngành
kinh tế, sự phân bố này còn được thể hiện trong các loại hình kinh tế. Năm 2014, loại
hình kinh tế cá nhân/hộ sản xuất kinh doanh cá thể đang chiếm đa số với 40,4 triệu
102
người, chiếm 76,7%. Ngược lại, loại hình kinh tế tập thể vốn là loại hình kinh tế chủ
đạo trong những năm 70 của thế kỷ trước đã từng có những đóng góp to lớn vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì nay, số lượng lao động của loại hình
kinh tế này chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ là 0,2%. Từ năm 2009 đến nay, tỉ lệ lao
động đang làm việc ở khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang có
xu hướng tăng lên nhưng còn khá chậm với tỉ lệ tương ứng là 8,8% và 3,9%. Cơ cấu
lao động trong một số năm gần đây được thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 5. Cơ cấu lao động chia theo các loại hình kinh tế
thời kỳ 2009 - 2014 (đơn vị %)
Loại hình kinh tế Năm 2009 Năm 2011 Năm 2014
Tổng số 100,0 100,0 100,0
Cá nhân/Hộ sản xuất
kinh doanh cá thể
78,6 77,8 76,7
Tập thể 0.5 0.3 0,2
Tư nhân 8,0 8,1 8,8
Nhà nước 10,0 10,4 10,4
Vốn đầu tư nước ngoài 2,9 3,4 3,9
Nguồn: [99, tr.28]
Bởi vậy, để thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch theo hướng kinh tế thị trường cần
có tham gia ngày càng đông đảo hơn nữa đội ngũ lao động vào thành phần kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
3.2.2.5. Hợp tác quốc tế về lao động còn nhiều bất cập, chưa góp phần vào
việc xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
103
Trong những năm gần đây, công tác hợp tác quốc tế về lao động ở nước ta còn
nhiều bất cập, làm cản trở đến việc người lao động tham gia vào thị trường lao động
quốc tế. Hiện nay, có khoảng hơn 500.000 lao động Việt Nam đang làm việc trên 40
quốc gia và vùng lãnh thổ với 30 nhóm ngành nghề, công việc. Kể từ năm 2011 đến
nay, mỗi năm Việt Nam đưa được khoảng trên 100.000 lao động đi làm việc ở nước
ngoài. Tuy nhiên, phần lớn lao động Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài chủ yếu là
lao động phổ thông, chưa có trình độ, tay nghề; làm việc trong các ngành nghề công
nghiệp giản đơn, nặng nhọc như xây dựng, cơ khí. Nhiều phụ nữ xuất khẩu lao động
để giúp việc gia đình, bán hàng… Do đó, thu nhập của người lao động Việt Nam ở
nước ngoài thường thấp hơn nhiều so với lao động các nước khác. Theo thống kê của
Tổ chức lao động quốc tế ILO khu vực châu Á, “xét trên mặt bằng lương tối thiểu theo
quy định, lao động tại Việt Nam vẫn có giá thành rẻ với mức trung bình dưới 50
USD/tháng, thấp hơn Jakarta (Indonesia) và Bắc Kinh (Trung Quốc) hơn 50
USD/tháng và bị Manila (Philippines) bỏ xa, với trung bình khoảng 140 USD/tháng”
[84, tr.5].
Nhìn chung, chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam thấp chưa đáp ứng
với yêu cầu ngày càng cao của thị trường, đặc biệt là thị trường có thu nhập cao. Công
tác xuất khẩu lao động còn thiếu tính chuyên nghiệp, chưa xuất phát từ nhu cầu của thị
trường. Hầu như những lao động được đưa đi xuất khẩu chưa đều chưa được đào tạo
cơ bản về ngành nghề mình sẽ làm việc, chưa được trang bị kiến thức về pháp luật,
văn hóa của nước sở tại; chưa được trang bị kỹ năng làm việc nên có tình trạng một bộ
phận lao động Việt Nam vi phạm hợp đồng đang là một vấn đề nổi cộm, bức xúc trong
công tác xuất khẩu lao động hiện nay.
Hơn nữa, công tác quản lý việc xuất khẩu lao động còn nhiều bất cập. Nhiều cơ
sở tự ý thành lập trung tâm giới thiệu việc làm và tổ chức cho người lao động đi xuất
khẩu lao động. Vì cần việc nên người lao động phải nộp số tiền lớn, chờ đợi trong thời
gian dài với nhiều rủi ro. Hành vi lừa đảo đưa người đi xuất khẩu lao động gia tăng,
gây bất ổn xã hội. Lợi dụng chính sách thông thoáng của Nhà nước về xuất khẩu lao
động, nhiều tổ chức, cá nhân đã lừa đảo tổ chức đưa người ra nước ngoài. Tại
Malaysia, Thái lan có đến hàng nghìn lao động ở các tỉnh miền Trung, như Nghệ an,
104
Hà Tĩnh, Thanh Hóa,… bị lừa đảo đưa đi bằng đường du lịch không tìm được việc làm
và sống bất hợp pháp.
Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do ở một số địa phương vẫn chưa
có doanh nghiệp, công ty nào chuyên làm nhiệm vụ xuất khẩu lao động, ký trực tiếp
với thị trường lao động các nước, mà chỉ có doanh nghiệp trong vai trò môi giới; hệ
quả là việc đi lao động xuất khẩu không mang tính bền vững và ổn định.
Tình trạng lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp tại một số nước như
Hàn Quốc, Nhật bản, Đài Loan… đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc giữ gìn và mở rộng
các thị trường này, ảnh hưởng đến uy tín của lao động Việt Nam. Nguyên nhân của
tình trạng này một phần là do mức thu nhập ở bên ngoài cao hơn so với mức mà người
lao động được hưởng khi làm việc tại các doanh nghiệp theo hợp đồng. Cùng làm tăng
thêm mức độ nghiêm trọng của vấn nạn này là việc các cam kết về hợp đồng lao động
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam ở nước ngoài nhiều khi
không được đảm bảo, gây khó khăn, thua thiệt cho người lao động.
Hơn nữa, ở nước ta cũng chưa có chính sách định hướng, hỗ trợ cho người lao
động sau khi xuất khẩu lao động, gây nên tình trạng lãng phí trong việc sử dụng nguồn
nhân lực “hậu xuất khẩu”. Nhờ nguồn thu nhập hàng tháng cao gấp nhiều lần trong
nước, số lao động ở nước ngoài gửi về nước khoảng 1,6 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, ngoài ưu tiên cải thiện cuộc sống, xây dựng nhà cửa, mua đất đai, vật dụng
gia đình,… chỉ có một số ít dùng nguồn vốn này để đầu tư sinh lợi, tự tạo việc làm
hoặc làm chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, trang trại. Mặt khác, khi trở về nước, họ
không biết dùng nguồn vốn làm gì cho hiệu quả, nên nhiều người đã trở thành tay
trắng sau vài năm về nước. Đây là một sự lãng phí rất lớn, bởi vì trước yêu cầu phát
triển, mở rộng đầu tư, nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp trong nước đều thiếu
nguồn nhân lực có trình độ. Để đào tạo được một lao động đạt trình độ kỹ thuật, tay
nghề cao ở trong nước, nhà nước và người lao động phải đầu tư một số tiền khá lớn.
Thế nhưng, nhiều năm qua nhiều địa phương hầu như chưa quan tâm và có chiến lược
tái sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu trở về. Trừ một số ít lao động tái đăng ký đi
nước ngoài làm việc, số đông còn lại chưa hội nhập vào thị trường lao động trong
nước để phát huy các kỹ năng mà họ đã học hỏi được ở nước ngoài. Thực tế cho thấy,
nếu được chính quyền, các cơ quan chức năng tại địa phương quan tâm bằng cách tư
105
vấn, hoặc giới thiệu việc làm phù hợp với tay nghề, kỹ thuật, thì lực lượng lao động
xuất khẩu từ nước ngoài về sẽ đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương.
Như vậy, những hạn chế trong công tác xuất khẩu lao động khiến cho đội ngũ
những người lao động ở Việt Nam được đưa đi làm việc đều tăng lên qua các năm
nhưng chưa thực sự tạo nên những chuyển biến đáng kể về chất cho người lao động
nước ta. Hơn nữa, những người lao động này chưa đóng góp nhiều cho việc hiện đại
hóa lực lượng sản xuất, chưa góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa về lực lượng
sản xuất ở Việt Nam.
Tiểu kết chương 3
Sau hơn 30 năm đổi mới, nhìn chung trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
ở Việt Nam đã được cải thiện. Công cụ lao động được cải tiến, nhiều đối tượng lao
động mới được ra đời thay thế cho những đối tượng tự nhiên đang dần cạn kiệt, các
phương tiện sản xuất được hiện đại hóa; khoa học - công nghệ hiện đại được ứng dụng
ngày càng nhiều vào quá trình sản xuất, mang lại diện mạo mới cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại. Tuy nhiên, so với các nước trong
khu vực và trên thế giới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta còn ở
mức độ thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất hiện đại, chưa thực sự góp
phần đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến tới mục tiêu phấn đấu đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như định
hướng ban đầu của Đảng.
Là nhân tố quan trọng đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản
xuất hiện đại, so với trước kia, người lao động Việt Nam đã được cải thiện về thể lực,
sức khỏe; trình độ, tay nghề; khả năng thích nghi, tính sáng tạo... Tuy nhiên, con người
Việt Nam nói chung và người lao động nước ta vẫn còn nhiều hạn chế về thể lực, với
trình độ tay nghề còn thấp; ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường sinh
thái chưa cao. Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến độ bền, sự dẻo dai, tính chuyên nghiệp,
khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại của người lao động
nước ta. Những hạn chế đó bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản như nền kinh tế
chậm phát triển; cơ chế, chính sách xã hội; công tác giáo dục - đào tạo về lao động;
106
công tác xuất khẩu lao động còn nhiều hạn chế, bất cập. Do đó, cần có những giải pháp
thiết thực, có tính khả thi để khắc phục những hạn chế trên, góp phần phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Chương 4
NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN
NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM
107
4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI
LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở
VIỆT NAM
Để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất
hiện đại ở Việt Nam, cần dựa trên những quan điểm cơ bản sau:
4.1.1. Coi người lao động là trung tâm, có ý nghĩa quyết định trong lực
lượng sản xuất hiện đại
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển lực lượng sản
xuất là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất nhằm tạo ra những tiền đề về vật chất - kỹ thuật
cho nền kinh tế. Vì lực lượng sản xuất được cấu thành bởi nhiều yếu tố trong đó người
lao động là nhân tố quan trọng đóng vai trò quyết định nên để phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại cần quán triệt quan điểm coi người lao động là trung tâm sự phát triển.
Quan điểm coi người lao động là trung tâm của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại cần được hiểu ở cả hai khía cạnh: người lao động vừa là điểm xuất phát của mọi
chiến lược phát triển, vừa là mục tiêu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ hiện đại, nhiều
người đã cho rằng khoa học - công nghệ chính là chìa khóa vạn năng. Thậm chí, khoa
học - công nghệ đang dần thay thế sức lao động của con người để trở thành chủ nhân
của quá trình sản xuất. Do đó, khoa học - công nghệ đang trở thành tiêu chí để phân
biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế, giữa hình thái kinh tế - xã hội này với hình
thái kinh tế - xã hội khác. Vì vậy, ở nhiều cơ sở sản xuất chỉ chú trọng đến việc đầu tư
các máy móc, trang thiết bị sản xuất hiện đại mà không chú ý đến việc nâng cao trình
độ, tay nghề cho người lao động. Mặc dù chúng ta không thể phủ nhận được vai trò to
lớn của khoa học - công nghệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại nhưng
đúng như nhiều nhà nghiên cứu lý luận khẳng định: “Khoa học, kỹ thuật dù phát triển
mạnh mẽ đến đâu, có sức mạnh to lớn như thế nào thì cũng không thể đẩy con người
ra ngoài quá trình sản xuất xã hội nói chung mà chỉ thay thế những hoạt động lao động
nặng nhọc phức tạp, giúp cho con người có điều kiện tốt hơn để học tập, phát triển trí
tuệ” [13, tr.23].
108
Như vậy, trong bất cứ thời đại nào, người lao động vẫn luôn là điểm xuất phát
của quá trình sản xuất vật chất vì người lao động chính là người tạo ra tư liệu sản xuất,
ứng dụng khoa học - công nghệ sản xuất và quản lý, điều hành quá trình sản xuất ấy.
Người lao động không chỉ là xuất phát điểm của quá trình sản xuất mà còn phải
là mục tiêu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Khi lực lượng sản xuất phát
triển, năng suất lao động nâng cao, cần hướng đến việc tiếp tục phát triển người lao
động cả về thể lực, sức khỏe; tri thức, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp cũng như đời sống
tinh thần để họ phát triển một cách toàn diện hơn. Điều đó giúp cho người lao động có
thể tham gia vào quá trình sản xuất một cách tích cực và có hiệu quả hơn.
Như vậy, cần quán triệt quan điểm coi người lao động là trung tâm của sự phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại. Có như vậy, chúng ta mới có thể có được những
đường lối, chính sách cần thiết và phù hợp nhằm tiếp tục phát triển những thế mạnh,
hạn chế những yếu kém của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt
Nam trong thời gian tới.
4.1.2. Phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại
phải gắn với chiến lược phát triển bền vững của đất nước
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát
triển của xã hội loài người. Quan điểm phát triển bền vững đã trở thành đường lối,
quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Quan điểm phát triển bền vững của Đảng ta đã được cụ thể hóa qua luận điểm:
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu
phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều
sâu; vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả,
tính bền vững; từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài
nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang tăng trưởng chủ yếu do áp dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng
suất lao động và chất lượng sản phẩm, phát triển công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh trnah lớn gắn với
phát triển kinh tế tri thức; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường [29, tr.37-38].
109
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều Chỉ thị, Nghị quyết khác của
Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai
thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và
thu được những kết quả bước đầu; nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi
vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
Trong những năm qua, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn còn dựa nhiều
vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao động còn thấp; công nghệ sản
xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều
chất thải. Dân số tăng nhanh, tỉ lệ hộ nghèo còn cao; các dịch vụ cơ bản về giáo dục và
y tế hiện còn bất cập, các loại tệ nạn xã hội chưa được ngăn chăn triệt để... đang là
những vấn đề bức xúc. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử
dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại
nghiêm trọng, ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động.
Nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu cầu về phát triển bền vững ít có
đủ điều kiện vật chất để thực hiện. Đầu tư được tập trung chủ yếu cho những công
trình mang lại lợi ích trực tiếp, còn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường. Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác chưa
thuộc loại cao và chưa tới giới hạn nguy hiểm, song nó đang tăng lên nhanh chóng và
sẽ có nguy cơ đe doạ tính bền vững của sự phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn
vay chưa được sử dụng có hiệu quả. Mức độ chế biến, chế tác nguyên vật liệu trong
nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp và mức độ chi phí nguyên, nhiên, vật liệu cho một
đơn vị giá trị sản phẩm còn cao; sản phẩm tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu
phần lớn là sản phẩm thô; sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là theo chiều rộng...trong khi
đó những nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ có hạn và đã bị khai thác đến mức tới hạn.
Xu hướng giảm giá các sản phẩm thô trên thị trường thế giới gây ra nhiều khó khăn
cho tăng trưởng nông nghiệp ở Việt Nam. Với cơ cấu sản xuất như hiện nay, để đạt
được một giá trị thu nhập như cũ từ thị trường thế giới, Việt Nam đã phải bán đi một
số lượng hàng hoá hiện vật nhiều hơn trước.
Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng, tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc,
tỷ lệ hộ nghèo còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với sự phát triển bền vững. Chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp. Số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu
110
ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Vì
vậy, nguồn lao động trong sản xuất ở nước ta chủ yếu mới chỉ là lao động thô, phần
nhiều mang tính thời vụ, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất lâu dài.
Bởi vậy, để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, cần quán triệt quan điểm phát
triển bền vững. Cần coi phát triển kinh tế tiếp tục là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn
phát triển sắp tới, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững, bảo
đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường bền vững. Ngoài
ra, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ
hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Tạo lập điều kiện
để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được
tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công bằng những lợi ích công
cộng, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hoá tốt đẹp cho những thế hệ mai
sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được, gìn giữ và cải thiện
môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với môi trường; xây
dựng lối sống lành mạnh, hài hoà, gần gũi và yêu quý thiên nhiên. Ngoài ra, công nghệ
hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các
ngành sản xuất, trước mắt cần được đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và lĩnh vực sản
xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
và lĩnh vực sản xuất khác.
Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại theo hướng bền vững, cần quán triệt
quan điểm phát triển nhân tố người lao động một cách bền vững. Cần ưu tiên phát triển
theo chiều sâu, ưu tiên phát triển về chất lượng như trình độ tay nghề, ý thức lao động,
ý thức bảo vệ môi trường sinh thái để nguồn lao động nước ta vừa có thể đáp ứng được
những yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại, vừa có thể tham gia ngày càng
nhiều vào thị trường của các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển nhân tố
người lao động trong lực lượng sản xuất ở nước ta cần hướng đến mục tiêu phát triển
kinh tế tri thức, sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
4.1.3. Phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại
một cách toàn diện
111
Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất không phải là một khái niệm
trừu tượng mà được tạo thành bởi các yếu tố cụ thể như thể lực, trí lực và tâm lực. Mỗi
yếu tố lại đóng vai trò, vị trí khác nhau. Thể lực của người lao động là cơ sở của quá
trình sản xuất vật chất, giúp họ đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao động
trong quá trình sản xuất với những công việc khác nhau. Trí lực là yếu tố đóng vai trò
quyết định sự sáng tạo của người lao động, giúp họ không ngừng cải tiến quá trình sản
xuất một cách có hiệu quả hơn. Tâm lực tạo ra động cơ bên trong của người lao động,
thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của người lao động, góp phần vào việc phát huy vai
trò của các yếu tố thể lực và trí lực của người lao động với tư cách là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất. Như vậy, để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng nhu cầu
của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, cần chú ý phát triển tất cả các
yếu tố cấu thành nên nhân tố người lao động như thể lực, trí lực và tâm lực. Quan điểm
phát triển toàn diện con người nói chung cũng như phát triển người lao động nói riêng
đã được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh ở Đại hội XII: “Xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh, tạo điều kiện để con người Việt Nam phát triển toàn diện, đẹp về nhân
cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất,
phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc” [31,
tr.29].
Một trong những tiêu chí đánh giá sự khác biệt của lực lượng sản xuất hiện đại
so với lực lượng sản xuất trước kia là yếu tố trí tuệ, tri thức của người lao động trở
thành yếu tố nổi trội, đánh dấu sự khác biệt về chất của người lao động trong giai đoạn
hiện nay so với các giai đoạn trước. Do đó, để phát triển nhân tố người lao động đáp
ứng nhu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại, ngoài việc triển đồng bộ tất cả các yếu tố
cấu thành của người lao động nói chung, cần nhấn mạnh và chú ý hơn đến việc phát
triển yếu tố trí lực để tạo ra những lợi thế so sánh nổi bật của người lao động nước ta
trong bối cảnh hiện nay.
Khi phát triển các yếu tố cấu thành của nhân tố người lao động trong lực lượng
sản xuất hiện đại cần có những chiến lược toàn diện, đồng bộ và dài hạn để cải thiện cả
về thể lực, trí lực và tâm lực cho người lao động nước ta. Ngoài ra, cũng cần chú ý đến
tính đặc thù của từng ngành kinh tế, từng vùng miền để ưu tiên phát triển thế mạnh về
lao động ở các ngành và các vùng miền đó.
112
Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi phải phát triển tất cả các mặt cấu thành nên
nhân tố người lao động. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, để phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại cần chú trọng đào tạo tri thức, tay nghề cho người lao động để tạo ra
những sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao. Ưu tiên vào các lĩnh vực sản xuất mũi nhọn,
công nghệ cao; hướng đến những lĩnh vực sản xuất mới nhằm tạo ra những bước đột
phá trong phát triển sản xuất hiện đại.
Quan điểm toàn diện cũng cần hướng tới việc khắc phục sự phân bố không
đồng đều, mất cân đối về lao động, nhất là lao động đã qua đào tạo ở các vùng miền
trong cả nước và các ngành kinh tế quốc dân. Mặc dù mục tiêu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là phấn đấu sớm đưa Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại nhưng hiện nay, gần 70% lao động nước ta tập trung ở
nông thôn. Hơn nữa, phần lớn lực lượng lao động này lại chưa qua đào tạo. Điều đó
ảnh hưởng lớn đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở
nước ta. Đa phần lực lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta tập trung ở các thành
phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, ở những nơi này thường xuyên
xảy ra tình trạng dư thừa lao động đã qua đào tạo, thậm chí một bộ phận không nhỏ
lực lượng lao động chấp nhận làm trái công việc, ngành nghề đã được đào tạo để ở lại
các thành phố lớn. Trong khi đó, ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo lại rất thấp nên không tạo ra được những bước đột phá trong việc
ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ và cải tiến quy trình sản xuất. Sự
mất cân đối trong việc phân bổ lao động, nhất là nguồn lao động có tay nghề, có trình
độ chuyên môn kỹ thuật đã tạo nên sự chênh lệch đáng kể về trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trên các vùng miền của nước ta.
Không chỉ có vậy, ngay bản thân các ngành nghề sản xuất cũng có sự phân bố
lao động không đồng đều. Trong khi một số ngành công nghiệp sử dụng công nghệ
cao với đội ngũ kỹ sư, công nhân lành nghề rất đông đảo thì cũng không ít ngành vẫn
chủ yếu sử dụng nguồn lao động thủ công, với trình độ tay nghề thấp. Sự chênh lệch
này đã tạo ra một khoảng cách lớn, một sự mất cân đối đáng kể giữa trình độ, tay nghề
của người lao động ở các ngành kinh tế khác nhau.
Mặc dù không thể phủ nhận được thế mạnh của một số vùng miền, một số
ngành kinh tế nhưng để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, cần tính đến tính tổng
113
thể, toàn diện, đồng bộ. Do đó, phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản
xuất hiện đại cần phải đảm bảo được tính cân đối, hài hòa giữa các vùng miền, các
thành phần kinh tế.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI LAO
ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT
NAM
Để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất
hiện đại ở Việt Nam trong những năm tiếp theo, cần chú ý đến những giải pháp cơ bản
như sau:
4.2.1. Thực hiện tốt chính sách nâng cao thể lực, sức khỏe, cải thiện tầm
vóc cho người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại
Để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất
hiện đại, một trong những giải pháp trước tiên cần thực hiện là nâng cao thể lực, sức
khỏe cho người lao động bởi đó là điều kiện đầu tiên đảm bảo sự đáp ứng và thích
nghi của người lao động với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.
Để nâng cao thể lực và sức khỏe cho người lao động, Nhà nước cần có những
chiến lược cụ thể. Điều này cũng đã được Đảng ta khẳng định ở Đại hội XI của Đảng:
“Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người
Việt Nam” [29, tr.129]. Cần xây dựng chiến lược cụ thể về dinh dưỡng để cải thiện
tầm vóc của người Việt Nam, từng bước thoát khỏi tình trạng “thấp bé nhẹ cân”. Để
tạo nên những người lao động khỏe mạnh, có tầm vóc ngang hàng với các nước trong
khu vực và tương xứng với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, cần quan tâm đến chế
độ dinh dưỡng cho người Việt ngay từ khi còn nhỏ, tích cực hỗ trợ những vùng, những
địa phương gặp nhiều khó khăn về kinh tế để cải thiện chế độ ăn uống, dinh dưỡng cho
trẻ em bởi đó chính là chủ nhân tương lai của nền sản xuất hiện đại. Cần xây dựng tiêu
chuẩn dinh dưỡng phù hợp, nhất quán; đồng thời giáo dục, tư vấn mọi người thực hiện
theo đúng chế độ dinh dưỡng đã đề ra.
Một trong những việc để cải thiện thể lực, sức khỏe cho người lao động là công
tác chăm sóc sức khỏe. Hiện nay, do điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn
nên ở một số nơi, công tác chăm sóc sức khỏe cho người lao động còn nhiều hạn chế.
Nhiều cơ sở sản xuất, nhất là cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là những cơ sở tư nhân
114
còn thoái thác trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho người lao động như không mua bảo
hiểm, nợ bảo hiểm của người lao động; không tổ chức khám sức khỏe định kỳ hoặc tổ
chức khám một cách qua loa… Do đó, sức khỏe của người lao động không được đảm
bảo. Điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất. Ở
Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ đạo: “Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… Khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình
bảo hiểm” [29, tr.125-126]. Ở Đại hội XII, Đảng ta còn nhấn mạnh thêm: “Thực hiện
tốt chính sách bảo hiểm y tế cho toàn dân, đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế” [31, tr.139].
Trong thời gian qua, hệ thống bảo hiểm ở nước ta đã được mở rộng nhưng hoạt
động chưa thực sự hiệu quả. Do đó, cần thắt chặt hơn nữa hoạt động của các đơn vị
bảo hiểm, nhất là bảo hiểm xã hội qua việc chăm sóc sức khỏe và bù đắp thiệt hại cho
người lao động trong những trường hợp gặp rủi ro trong lao động. Việc giải quyết thủ
tục bảo hiểm cần nhanh gọn, hiệu quả. Đẩy mạnh việc phát triển hệ thống bảo hiểm
thất nghiệp để hỗ trợ người lao động trong những khi mất việc, tạo điều kiện cho họ có
thời gian tìm kiếm việc làm mới, góp phần giảm thiểu tính trạng thất nghiệp và lãng
phí nguồn lao động ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, cần tích cực hạn chế tỉ lệ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Các
cơ sở sản xuất, cơ quan quản lý lao động cần trang bị cho người lao động kiến thức, kỹ
năng phòng tránh tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; trang bị cho người lao động
những công cụ lao động hiện đại để giảm thiểu sức lao động cơ bắp, thủ công, hạn chế
bệnh nghề nghiệp. Khi tai nạn lao động xảy ra, cần tiến hành cấp cứu và xử lý kịp thời.
Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất cần cam kết và thực hiện an toàn lao động bằng
cả trách nhiệm và lương tâm của mình. Nhà nước tăng cường việc quản lý, giám sát về
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc khám sức khỏe định kỳ cho người lao
động để nắm bắt được tình hình sức khỏe của người lao động. Từ đó, có sự bố trí lao
động hợp lý dựa trên năng lực, trình độ, cũng như sức khỏe của người lao động; ưu
tiên đối với lao động nữ, lao động đang trong giai đoạn mang thai, nuôi con nhỏ.
Tuyên truyền, giáo dục cho họ ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường làm
115
việc để đảm bảo sức khỏe, tránh những bệnh nghề nghiệp, bệnh do ô nhiễm môi
trường gây nên.
4.2.2. Đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ để
không ngừng nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động
Để thực sự tạo nên những bước chuyển biến về chất của nhân tố người lao động
đáp ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện đại, không thể không chú đến việc đẩy mạnh
phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ bởi đây là một giải pháp thiết thực
và hữu hiệu nhất nhằm nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động. Từ Đại hội X
(năm 2006), Đảng ta đã xác định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” [28, tr.94-95]. Đây là một quan điểm đúng đắn nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nói chung và người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở
Việt Nam nói riêng.
Qua 30 năm đổi mới, nền giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể,
góp phần to lớn vào sự nghiệp nâng cao dân trí, tăng cường nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước. Tuy nhiên, xét ở góc độ kinh tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở
nước ta vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Giáo dục
còn mang tính lý thuyết nhiều hơn thực hành, lý luận nhiều hơn ứng dụng nên người
học mới chỉ có khả năng “biết” chứ chưa có nhiều kỹ năng “làm”. Do đó, để cải tiến
chất lượng của người lao động, cần có những biện pháp đồng bộ về giáo dục - đào tạo;
kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ.
Thứ nhất, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo nghề cho người lao động.
Để nâng cao chất lượng của người lao động, quan trọng nhất là đào tạo nghề
cho họ. Nội dung chương trình đào tạo nghề cần thiết thực, tập trung vào những năng
lực chuyên môn then chốt. Đây là giải pháp chính nhằm cung cấp cho người học
những tri thức về nghề nghiệp của họ.
Thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho lao động tuy đã có những chuyển biến
tích cực, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, chưa đáp ứng
được yêu cầu đặt ra và chưa gắn với nhu cầu sản xuất, kinh doanh, nhiều trường hợp
doanh nghiệp phải đào tạo lại mới có thể sử dụng được. Một số địa phương, nhu cầu
116
về công nhân kỹ thuật công nghiệp tại các huyện thị khá cao, trong khi ngành nghề đào
tạo cho lao động nông thôn của tỉnh lại thiên về kỹ thuật nông nghiệp. Ở một số tỉnh,
hệ thống các khu công nghiệp phát triển nhanh, nhu cầu công nhân lành nghề về công
nghiệp nặng tăng nhưng tỉnh lại mở các lớp may công nghiệp, trồng cây cảnh, hoặc
nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, có tình trạng đúng chuyên môn đào tạo nhưng chất
lượng nguồn nhân lực thấp không đáp ứng được nhu cầu lao động của doanh
nghiệp. Thực trạng đó đã gây ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu không đáp ứng được
nhu cầu lao động thực tế của địa phương. Điều này đã được Đảng ta chỉ rõ ở Đại hội
XII: “Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu
của thị trường lao động, chưa chú trọng đến giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng làm
việc” [31, tr.114]. Những thiếu sót trong nội dung và cách thức đào tạo đó đã khiến
người lao động đã được đào tạo nghề nhưng khi làm việc tại các doanh nghiệp, khu
công nghiệp lại không đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Do đó, công tác đào tạo nghề cho người
lao động cần phải bám sát với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng
địa phương, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh để có hiệu quả thiết thực đúng như
Đảng ta đã định hướng: “Phát triển giáo dục và đào tạo cần gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu
cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” [31, tr.115].
Nội dung đào tạo nghề cần hướng vào thực tiễn, gắn với nhu cầu của địa
phương, doanh nghiệp và của xã hội. Điều này cũng đã được Đảng ta nhấn mạnh trong
Đại hội XI như sau: “Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của
công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, các ngành nghề. Thực hiện liên kết
chặt chẽ giữa doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để
phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu của xã hội” [29, tr.130]. Trong nền sản xuất
hiện đại, người lao động không chỉ cần có một kỹ năng nghề nghiệp nhất định mà còn
cần có những kỹ năng tổng hợp, liên ngành nên nội dung đào tạo nghề vừa đảm bảo
tính chuyên sâu, vừa cần có sự tích hợp kiến thức liên ngành để trang bị cho người học
kiến thức phong phú, khả năng thích nghi với những thay đổi về nghề nghiệp và có
nhiều cơ hội hơn về việc làm. Ngoài ra, nội dung chương trình đào tạo nghề cũng cần
được thường xuyên cập nhật kiến thức giúp cho người học nắm bắt được nhu cầu và
xu hướng phát triển của xã hội, của ngành nghề và của địa phương. Để những người
117
công nhân trở thành những người lao động hiện đại, song song với việc truyền đạt kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị cho họ những kiến thức tiêu chuẩn an toàn sản
phẩm, về thị trường, kiến thức kinh doanh trong điều kiện hội nhập.
Trong chương trình đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn cần chú trọng phát
triển các ngành nghề thủ công. Đó là những ngành nghề có thể tự đào tạo, bồi dưỡng
tại địa phương. Đào tạo nghề ở nông thôn không thể không chú trọng việc phát triển
các ngành nghề thủ công, nhất là việc thực hiện “mỗi làng, một nghề” đang được triển
khai. Trong nông thôn đang có một số nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống cần được
bảo tồn và có khả năng phát triển, cần được quan tâm và đưa vào chương trình dạy
nghề. Cụ thể như: chế biến gỗ, sơn mài, chạm, khảm; làm đồ gốm, đồ đồng; nghề mây
tre đan, nghề thêu ren, nghề dệt, lụa, thổ cẩm…
Để người lao động Việt Nam có thể thích nghi với nền sản xuất hiện đại trong
điều kiện hội nhập quốc tế, nội dung đào tạo nghề cho người lao động không chỉ
hướng đến việc trang bị kiến thức về nghề nghiệp mà còn trang bị cả kiến thức về tin
học, ngoại ngữ, thị trường, hội nhập… Người lao động hiện đại cần được đào tạo cả
tác phong làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức bảo vệ môi trường, tinh thần hợp tác
trong lao động sản xuất… Điều đó sẽ góp phần tạo nên tính chuyên nghiệp cho người
lao động Việt Nam trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đáp ứng nhu cầu của
cả thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ hai, đổi mới phương pháp, cách thức đào tạo nghề cho người lao động.
Đào tạo nghề là đào tạo gắn với thực tiễn nên để người học thực sự hứng thú và
thu được hiệu quả trong việc học nghề, cần đổi mới mạnh mẽ hình thức đào tạo nghề ở
nước ta hiện nay. Đào tạo nghề không chỉ cần trang bị kiến thức cho người học mà còn
hướng họ đến việc tự học, tự sáng tạo, tự nghiên cứu, đánh giá hoạt động học tập của
mình dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt của người thầy. Dạy nghề không chỉ dạy bằng các
phương pháp truyền thống mà còn cần kết hợp với các phương pháp giảng dạy tích
cực, với những phương tiện hiện đại. Kết quả của quá trình học nghề là cần thu nhận
được ngay những kiến thức về nghề nghiệp để áp dụng vào quá trình sản xuất nên khi
học, người học cần được tiếp xúc trực tiếp với các loại máy móc, nông cụ. Đào tạo
nghề cho lao động công nghiệp cần gắn với đặc thù của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất;
còn đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn cần chú ý đến tính đa dạng vùng miền và
118
tính đặc thù của người nông dân và lao động nông thôn như trình độ học vấn không
đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh tác… Do đó, việc tổ chức các khóa
đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào
tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình đào tạo phải gắn với học liệu sinh động,
đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.
Thứ ba, tích cực áp dụng những tiến bộ của khoa học - công nghệ vào sản xuất
để nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động.
Trong thời gian qua, những thành quả của khoa học - công nghệ hiện đại đã góp
phần to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay. Khoa
học - công nghệ không chỉ cải tiến công cụ lao động, tạo ra những đối tượng lao động
mới theo hướng thân thiện và bền vững với môi trường, thúc đẩy sự phát triển của
phương tiện sản xuất, hạ tầng cơ sở trong sản xuất mà còn góp phần đáng kể trong việc
nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động. Nếu một doanh nghiệp, một cơ sở sản
xuất sử dụng những loại máy móc tiên tiến, có trình độ công nghệ cao thì để thích
nghi, người lao động phải tự học hỏi, tìm tòi, không ngừng nâng cao nhận thức và
trình độ tay nghề của mình để có thể sử dụng, vận hành các loại máy móc ấy. Khi công
nghệ được sử dụng vào sản xuất, để đạt được năng suất lao động cao, người lao động
phải tự học hỏi để có thể ứng dụng được những tiến bộ của khoa học - công nghệ vào
sản xuất. Do đó, việc tích cực áp dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện
đại vào sản xuất sẽ tạo ra “cú hích” quan trọng để người lao động tự thấy mình cần
phải nâng cao trình độ, tay nghề, tích cực tìm tòi cải tiến sáng kiến kỹ thuật để ứng
dụng vào sản xuất. Ở Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh việc đẩy mạnh việc ứng
dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất thông qua việc đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế
đầu tư tài chính: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức hoạt
động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư, cơ chế tài
chính để giải phóng năng lực sáng tạo, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào
hoạt động thực tiễn” [30, tr.28].
Thứ tư, đào tạo nghề cho người lao động cần gắn với định hướng nghề nghiệp
và giải quyết việc làm.
Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng của công tác đào tạo nghề là
người lao động sau khi tham gia học nghề có việc làm, có thể sử dụng những kiến thức
119
đã học vào sản xuất. Trong thời gian qua, ở nước ta, công tác đào tạo nghề chưa gắn
liền với công tác định hướng nghề nghiệp và giới thiệu việc làm cho người lao động
nên nhiều người đã tham gia đào tạo nhưng vẫn không có việc làm, hoặc làm việc trái
với ngành nghề được đào tạo. Tại Đại hội Đảng XI, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đẩy
mạnh dạy nghề và tạo việc làm. Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng,
chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hóa” [29, tr.125]; “Tạo cơ
hội để mọi người có việc làm và đảm bảo thu nhập” [31, tr.136]. Đây là một chủ
trương đúng đắn nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo nghề ở nước
ta hiện nay.
Việc đào tạo nghề cho lao động công nghiệp cần phải gắn bó chặt chẽ với công
tác định hướng về nghề nghiệp để người lao động có mục tiêu, động cơ phấn đấu. Các
cơ sở đào tại nghề cần gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất để giải
quyết việc làm cho lao động sau khi tham gia đào tạo nghề. Nếu khi đã được đào tạo
nghề mà người lao động vẫn không có việc làm sẽ gây ra tình trạng lãng phí nguồn lao
động đã qua đào tạo.
4.2.3. Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, phù hợp tạo điều
kiện phát huy tốt những khả năng của người lao động Việt Nam
Để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng nhu cầu của lực lượng sản xuất
hiện đại, cần chú ý đến việc phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của họ. Đó là
đòn bẩy quan trọng để người lao động phát huy được vai trò của mình trong phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay. Một khi tính tích cực trở thành lối
sống thường trực của người dân lao động thì khi đó, mọi chủ trương, kế hoạch sản xuất
kinh doanh sẽ được thực hiện một cách có hiệu quả.
Ở Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ đạo: “Thực hiện tốt chính sách về lao động, việc
làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người
lao động. Bảo đảm quan hệ lao động hài hòa, cải thiện môi trường và điều kiện lao
động” [29, tr.125].
Quan điểm đó cần được cụ thể hóa bằng những giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, xây dựng chính sách tiền lương hợp lý đảm bảo lợi ích kinh tế cho
người lao động.
120
Để phát huy tính tích cực của người lao động trong phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, cần xây dựng được chính sách tiền lương hợp lý
dựa trên nguyên tắc công bằng xã hội, tránh tình trạng giải quyết lợi ích theo kiểu bình
quân. Tiền lương, tiền công của người lao động cần căn cứ vào năng lực thực tế của
họ, không chỉ đảm bảo lợi ích vật chất mà còn tạo điều kiện để người lao động nâng
cao đời sống tinh thần, tái sản xuất sức lao động và làm việc một cách hiệu quả hơn.
Vì vậy, cần “Xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công, khắc phục cơ
bản những bất hợp lý” [31, tr.136]. Đây là một giải pháp hữu hiệu và cần thiết nhằm
giải quyết lợi ích kinh tế cho người lao động. Mặc dù công cuộc đổi mới đã khơi dậy
tính tích cực của người lao động, biến nó thành nguồn sức mạnh to lớn để đưa đất
nước vượt qua những khó khăn, thử thách song nếu chỉ dựa vào tinh thần tích cực và ý
chí vươn lên đơn thuần của người lao động, chúng ta không thể xây dựng được một
nền sản xuất hiện đại. Vì vậy, việc xây dựng chính sách tiền lương hợp lý là một trong
những điều kiện cần thiết để tác động vào lợi ích kinh tế của người lao động Việt Nam
hiện nay.
Thứ hai, xây dựng môi trường dân chủ hóa đời sống kinh tế cho người lao
động.
Để kích thích tính chủ động, tích cực của người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại, không chủ quan tâm đến nhu cầu, lợi ích kinh tế mà còn cần
chú ý đến cả lợi ích về xã hội của họ. Một trong những công cụ để thực hiện lợi ích ấy
là dân chủ hóa đời sống xã hội, trước hết là dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế. Bản
chất của dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế là trong giới hạn pháp luật, người lao động
phải được tự do sản xuất, kinh doanh. Họ được phép làm tất cả những gì không cấm
như tự do được lựa chọn công việc, nghề nghiệp phù hợp với khả năng của mình, được
hưởng quyền bảo vệ tài sản và thu nhập hợp pháp từ sức lao động mà mình bỏ ra. Dân
chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế còn tạo điều kiện cho người lao động được hưởng đúng
với thành quả lao động và đóng góp của mình. Trên con đường thực hiện dân chủ hóa,
Nhà nước cần mở rộng dân chủ cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh. Các chính sách
thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế của Nhà nước cần định hướng vào việc nâng
cao tính tích cực của người lao động như cần có chính sách ưu đãi, thu hút và trọng
dụng những nhân tài trong sản xuất, nhất là đội ngũ lao động có tay nghề, có chuyên
121
môn kỹ thuật trong các ngành kinh tế mũi nhọn, những vùng kinh tế trọng điểm và cả
những vùng kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài việc tạo điều kiện về vật chất, cần
quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần của người lao động để họ được yên tâm lao
động, cống hiến cho xã hội.
Thứ ba, tích cực cải thiện điều kiện sống, điều kiện làm việc và môi trường xã
hội cho cho người lao động.
Để phát huy tinh thần và trách nhiệm của người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại, cần tích cực cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc của
họ. Việc cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc của người lao động phải nhằm
đạt hiệu quả trước mắt là đáp ứng tốt nhu cầu ăn ở, học tập, đi lại, chữa bệnh của
người lao động; đồng thời, xét về lâu dài nhằm tạo ra thế hệ người lao động mới có thể
lực tốt, sức khỏe dẻo dai, tinh thần thoải mái thích hợp với môi trường sống và làm
việc hiện đại.
Hiện nay, người lao động nước ta đang sống và làm việc trong môi trường của
nền kinh tế thị trường. Môi trường đó không chỉ tạo ra những thuận lợi mà còn đặt ra
những thử thách rất lớn cho bản thân mỗi người lao động. Xét về mặt thuận lợi, nền
kinh tế thị trường giúp cho người lao động thay đổi những tập quán sản xuất lạc hậu,
tự cấp, tự túc khép kín, phụ thuộc của nền sản xuất bao cấp trước đây; giúp người lao
động chủ động, tích cực, cạnh tranh trong quá trình sản xuất. Nền kinh tế thị trường
đòi hỏi mỗi người lao động phải tự mình vươn lên để tạo ra những sản phẩm tốt, đáp
ứng nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, cũng vì thế mà kinh tế thị trường tạo ra những
hệ quả xấu cho người lao động, trong đó biểu hiện trước tiên là rơi vào tình trạng phụ
thuộc vào những sản phẩm của sản xuất hàng hóa (đó là tệ “sùng bái hàng hóa” như
C.Mác đã từng nói). Từ đó, mối quan hệ giữa người với người bị quan hệ vật chất chi
phối nên một bộ phận người lao động cũng có tâm lý chụp giật, cạnh tranh khốc liệt vì
lợi ích của đồng tiền, đạo đức suy đồi… Bởi vậy, người lao động trong nền sản xuất
hiện đại cần được định hướng một cách đúng đắn về kinh tế thị trường, cần được trang
bị những hiểu biết, tri thức về môi trường làm việc, môi trường xã hội để họ có thể có
những lựa chọn đúng đắn về nghề nghiệp, xác định rõ trách nhiệm của mình với công
việc và với nền sản xuất xã hội nói chung.
122
Để phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của người lao động là công nhân, cần mở
rộng cơ hội cho công nhân mua cổ phần trong doanh nghiệp, nhằm góp phần xây dựng
quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, giảm thiểu tranh chấp lao động và đình
công trong doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng nhà nước và tổ chức công đoàn cần
tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người lao động, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm quyền lợi của người
lao động. Cần có chính sách cụ thể giải quyết nhà ở cho người lao động. Khi phê duyệt
các khu công nghiệp, khu chế xuất, cần yêu cầu dành quỹ đất tương xứng để xây dựng
nhà ở và các công trình thuộc kết cấu hạ tầng xã hội cho công nhân. Cần có chính sách
ưu đãi thích đáng cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở tại các khu công nghiệp
như chính sách ưu đãi về tiền sử dụng đất, miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ hạ
tầng… Để nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho công nhân, Nhà nước cần thể
chế hóa các quy định, xác định trách nhiệm rõ ràng đối với các cấp chính quyền, các
doanh nghiệp trong việc chăm lo xây dựng đời sống văn hóa cho người lao động. Có
các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư xây dựng các dịch vụ văn hóa, thể thao, chăm
sóc sức khỏe cho người lao động.
Ngoài ra, cần xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên
quan đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Xây dựng,
hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đời sống, nâng cao thể chất
cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức công
đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp, có chế tài xử lý
nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật. Khuyến khích, tạo điều
kiện cho người lao động chủ động học tập nâng cao nhận thức, nắm bắt những quy
định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động, giúp họ tự bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng trong trường hợp cần thiết. Bên cạnh đó, cần tăng cường
vai trò của các cấp uỷ Đảng, Đoàn Thanh niên và đặc biệt là của Công đoàn trong việc
nâng cao đời sống, đảm bảo quyền lợi cho công nhân nhất là công nhân ở các khu
công nghiệp. Tăng tỉ lệ tham gia của công nhân trong cơ cấu tổ chức chính trị - đoàn
thể ở doanh nghiệp, nhất là tổ chức Công đoàn để tăng cường tính đại diện cho lợi ích
của công nhân.
123
Thứ tư, hoàn thiện chính sách pháp luật về việc sử dụng, phát triển và quản lý
người lao động.
Để phát huy được những ưu điểm, hạn chế những yếu điểm của nhân tố người
lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước
cần chú trọng đến việc khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lao động ở các ngành kinh
tế và các địa phương trong cả nước. Nhà nước cần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ,
thực trạng cơ cấu nguồn lao động ở từng giai đoạn, nắm rõ những nơi, những ngành có
nguồn lao động thừa - thiếu, phân bổ hợp lý hay chưa hợp lý. Từ đó, áp dụng những
chính sách và công cụ đòn bẩy nhằm khai thác, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn
lao động. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng, hướng nghiệp trong
đào tạo, nhất là đào tạo nghề của người lao động, qua đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng tích cực, phù hợp với nhu cầu cụ thể, thiết thực của từng ngành
sản xuất, từng địa phương. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm thu hút
nguồn lao động, nhất là nguồn lao động có trình độ, có tay nghề từ nơi thừa sang nơi
thiếu; từ thành phố, đồng bằng đến những vùng sâu, vùng xa. Trước mắt, cần có kế
hoạch cụ thể và hợp lý để tận dụng được lực lượng lao động đã qua đào tạo, tránh tình
trạng lãng phí, dư thừa như hiện nay.
Để khắc phục những hạn chế trong việc sử dụng, phân bổ nguồn lao động ở
nước ta như hiện nay, Nhà nước cần tăng cường công tác dự báo nguồn nhân lực. Cần
nghiêm túc đánh giá cơ cấu nguồn lao động hiện có cũng như dự báo về nhu cầu lao
động của các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, các địa phương khác nhau nhằm chủ động
tránh tình trạng thừa hoặc thiếu nhân lực. Tăng cường công tác dự báo phát triển
nguồn lao động trên phạm vi vùng, ngành, quốc gia đảm bảo sự phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Nhiệm vụ này cần được
tiến hành thường xuyên để có sự điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi của thực
tiễn cuộc sống.
4.2.4. Nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò, vị trí, trách nhiệm
của mình trong nền sản xuất hiện đại
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hạn chế, yếu kém của
người lao động Việt Nam trong phát triển lực lượng sản xuất hiện nay là do họ chưa có
ý thức một cách rõ ràng về vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình trong nền sản xuất nói
124
riêng và trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Để thúc đẩy nền sản xuất hiện đại,
người lao động cần có những đổi mới cả về nhận thức và thực tiễn về vai trò của mình.
Việc thay đổi vị trí, vai trò của người lao động theo hướng xác lập địa vị làm chủ của
họ trong sản xuất, dưới những hình thức sở hữu phù hợp bao giờ cũng là nhiệm vụ căn
bản gắn việc giải phóng những người lao động với việc giải phóng từng bước lực
lượng sản xuất.Trong nền sản xuất hiện đại, phải khắc phục triệt để những bất hợp lý
trong xã hội tư bản với hiện tượng “lao động bị cưỡng bức”, “lao động bị tha hóa”, tức
tình trạng người lao động bị tách rời khỏi tư liệu sản xuất như C.Mác đã từng nêu ra
cách đây gần 2 thế kỷ.
Để phát huy tính tích cực của người lao động trong sản xuất, cần phải từng
bước thay đổi tính chất của lao động - từ lao động làm thuê trở thành lao động làm
chủ; từ lao động rời rạc, manh mún trở thành lao động liên kết, hợp tác; từ lao động tự
cấp, tự túc, lấy việc thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của chính mình làm mục đích thành lao
động sản xuất hàng hóa theo nhu cầu của thị trường. Sự thay đổi đó sẽ làm gia tăng
tinh thần, ý thức trách nhiệm cũng như vị thế của người lao động trong nền sản xuất
mới.
Để nâng cao vai trò, vị thế, trách nhiệm của người lao động trong nền sản xuất
hiện đại, cần đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ sản xuất. Cần cải tạo đồng bộ cả ba quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối
sản phẩm một cách thỏa đáng, phù hợp. Người lao động không chỉ là chủ thể của quá
trình sản xuất mà họ cần được làm chủ của việc sở hữu tư liệu sản xuất, được quyền sử
dụng những thành quả lao động của mình. Khi gắn chặt họ với các khâu của quá trình
sản xuất, tất yếu họ sẽ ý thức hơn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình. Điều đó góp
phần xóa bỏ tình trạng “lao động bị tha hóa”, “lao động bị cưỡng bức”.
Ngoài ra, để nâng cao vai trò, vị thế của người lao động trong nền sản xuất hiện
đại, cần tăng cường việc giáo dục ý thức chính trị, tri thức về kinh tế - xã hội để họ
hiểu được vai trò, tính chất của nền sản xuất vật chất, vị trí của mình trong nền sản
xuất ấy, có ý thức thức bảo vệ thành quả lao động của mình và có ý thức đấu tranh để
bảo vệ địa vị kinh tế, vị thế chính trị của mình trong nền sản xuất xã hội.
4.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo và xuất khẩu lao động để thúc
đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
125
Một trong những đặc điểm của lực lượng sản xuất hiện đại là lực lượng sản xuất
có tính toàn cầu. Do đó, người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
không chỉ cần đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đạt được những tiêu chuẩn mang
tính quốc tế. Vì vậy, việc tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo lao động là một giải
pháp cần thiết nhằm cải thiện chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam trong những năm
tới.
Thứ nhất, tích cực, chủ động hợp tác quốc tế về đào tạo và đánh giá chất lượng
người lao động theo tiêu chuẩn quốc tế.
Để người lao động Việt Nam có thể hội nhập với thị trường lao động quốc tế,
Nhà nước cần xây dựng chiến lược về phát triển nguồn lao động vừa phù hợp với trình
độ phát triển của Việt Nam, vừa đạt tiêu chuẩn quốc tế về nguồn lao động trong phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại. Từ đó, thiết lập khung trình độ đào tạo, nội dung
chương trình và phương pháp giáo dục, đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn quốc
tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa các
cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận lẫn
nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế
giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các
nước.
Để người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam được thế giới công
nhận, Nhà nước cần chủ động và tích cực tham gia kiểm định quốc tế về chương trình
đào tạo, trong đó có đào tạo nghề. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo nghề; liên kết các đề tài, dự án
nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở đào tạo của Việt Nam và thế giới.
Hiện nay, người lao động Việt Nam với nhiều ưu thế như trẻ, năng động, cần cù
chăm chỉ đang là một tiềm năng lớn thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế
giới nên việc đào tạo nghề cho lao động Việt Nam cần hướng tới những ngành nghề
của thế giới đang trông chờ vào nguồn lao động Việt Nam có thể đáp ứng. Các cơ sở
đào tạo nghề, nhất là các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp có uy tín cần liên
kết với các doanh nghiệp nước ngoài để đào tạo theo yêu cầu và đơn đặt hàng của họ.
Có như vậy, người lao động Việt Nam vừa có định hướng đầu ra, vừa có thể đạt được
tiêu chuẩn của các nước trên thế giới.
126
Thứ hai, chủ động và tích cực hợp tác quốc tế về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, chuyển giao khoa học - công nghệ về đào tạo nghề cho người lao động.
Hiện nay, nhiều cơ sở đào tạo, nhất là cơ sở đào tạo nghề còn thiếu trang thiết
bị kỹ thuật, nhất là các mô hình máy học, học cụ hiện đại. Một trong những điểm khác
biệt của đào tạo nghề so với các loại hình đào tạo khác là sử dụng chủ yếu giáo cụ trực
quan. Bởi vậy, để nâng cao nhận thức, trình độ tay nghề cho người học, cần đẩy mạnh
hợp tác quốc tế về việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại. Ngoài ra, cần tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và
kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào
tạo nhân lực trình độ cao và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở đào tạo
nghề ở Việt Nam. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy
động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường
đại học, cao đẳng và dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề
có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động. Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại
ngữ, tin học, kỹ năng giao tiếp, khả năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc
tế cho người lao động Việt Nam.
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động để tăng cường hợp tác quốc tế
về sử dụng lao động.
Vì lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu nên để phát huy tính tích cực
của lao động Việt Nam, cần chú ý đến việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động
nhằm tăng cường hợp tác quốc tế về lao động. Ở Đại hội XI, Đảng ta đã nhấn mạnh:
“Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài” [29, tr.125].
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một việc làm cần thiết đối với sự phát triển
nguồn lao động ở Việt Nam hiện nay. Nó vừa tạo điều kiện cho người lao động có việc
làm, tăng thu nhập, xóa đỏi giảm nghèo mà tạo nên sự hợp tác quốc tế giữa các quốc
gia trong việc sử dụng lao động. Tuy nhiên, cần hướng đến việc xuất khẩu nguồn lao
động có trình độ, tay nghề cao, đã qua đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn lao động
xuất khẩu của Việt Nam. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao
động, hỗ trợ kinh phí cho người lao động khi đăng ký tham gia xuất khẩu lao động.
Trước khi xuất khẩu lao động, cần tổ chức đào tạo để trang bị cho họ những kỹ năng
127
nghề nghiệp, giáo dục truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nơi tiếp nhận,
trang bị cho họ khả năng tự vệ, tự thích nghi trước những khó khăn, rủi ro khi lao động
ở nước ngoài. Ngoài ra, Đại sứ quán Việt Nam ở các nước có người xuất khẩu lao
động cần thường xuyên liên kết với các nước sở tại để theo dõi, bảo vệ người lao động
Việt Nam, tránh tình trạng người lao động Việt Nam bị lợi dụng, ngược đãi. Mở rộng
thị trường xuất khẩu lao động sang các nước có nền kinh tế phát triển để nâng cao chất
lượng nguồn lao động Việt Nam.
Tiểu kết chương 4
Xuất phát từ những ưu điểm và hạn chế của nhân tố người lao động trong phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay trên cả ba phương diện: thế lực, trí lực
và tâm lực, để phát huy nhân tố người lao động trong thời gian tới, cần chú ý đến
những quan điểm cơ bản sau: Trước hết, cần quán triệt quan điểm luôn coi người lao
động là trung tâm trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Đây là quan
điểm trước tiên có ý nghĩa rất quan trọng, nó không chỉ là sự kế thừa quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của người lao động trong phát triển lực lượng
sản xuất mà nó còn là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta khi coi con người là trung
tâm của mọi sự phát triển. Đó là một sự phát triển mang tính bền vững và kết tinh
những giá trị nhân văn. Ngoài ra, phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng
sản xuất hiện đại phải gắn với chiến lược phát triển bền vững; đảm bảo tính cân đối,
hài hòa giữa các vùng miền và các ngành sản xuất.
Dựa trên ba quan điểm cơ bản trên, để phát triển nhân tố người lao động đáp
ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện đại của Việt Nam trong thời gian tới, cần chú ý đến
một số giải pháp cơ bản: nâng cao thể lực, sức khỏe; cải thiện tầm vóc cho người lao
động ở Việt Nam; đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ để
không ngừng nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động, cải tiến sáng kiến kỹ
thuật để thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất;, xây dựng môi trường kinh tế - xã
hội thuận lợi, chính sách pháp luật phù hợp để người lao động phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của mình; nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò,
vị trí, trách nhiệm của mình trong nền sản xuất hiện đại; tăng cường hợp tác quốc tế về
đào tạo và xuất khẩu lao động đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội nhập.
128
KẾT LUẬN
Để đạt được mục tiêu sớm đưa Việt Nam trở thành thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, không thể không ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất. Trong điều
kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế hiện nay, lực lượng sản xuất của
Việt Nam cần phát triển với một trình độ cao, hiện đại. Trình độ đó được quyết định
129
bởi tư liệu sản xuất tiên tiến; khoa học - công nghệ hiện đại và người lao động với thể
lực tốt, sức khỏe dẻo dại; trình độ tay nghề cao; có khả năng thích nghi, có ý thức tổ
chức kỷ luật, có đạo đức nghề nghiệp và ý thức bảo vệ môi rường sinh thái. Đó chính
là những yêu cầu cơ bản cơ bản của người lao động Việt Nam nhằm phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại hiện nay.
Sau hơn 30 năm đổi mới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam
đã có những bước phát triển đáng kể so với trước kia: Công cụ lao động và đối tượng
lao động ngày càng được cải tiến; khoa học - công nghệ được ứng dụng ngày càng
nhiều vào quá trình sản xuất, góp phần đáng kể trong việc giải phóng sức lao động,
tăng năng suất lao động và hiện đại hóa nền sản xuất. Đặc biệt, với quan điểm: Coi con
người là trung tâm của mọi sự phát triển, Đảng ta đã rất chú trọng đến việc phát triển
nhân tố con người, coi việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược quan trọng. Do đó, người lao động
Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể về thể lực, sức khỏe; trình độ, tay
nghề; khả năng thích nghi, tính sáng tạo... Tuy nhiên, nhìn chung, con người Việt Nam
nói chung và người lao động nước ta vẫn còn còn nhiều hạn chế cả về thể lực và trình
độ tay nghề; ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái chưa cao.
Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến độ bền, sự dẻo dai, tính chuyên nghiệp, khả năng đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại ở người lao động nước ta.
Xuất phát từ thực trạng trên, để tiếp tục phát triển nhân tố người lao động đáp
ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam trong những năm tiếp theo,
cần quán triệt ba quan điểm cơ bản sau: Thứ nhất, luôn coi người lao động là trung tâm
trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Khi quán triệt quan điểm coi người
lao động là trung tâm của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, chúng ta không chỉ
xuất phát từ việc phát huy nhân tố người lao động để làm nòng cốt để phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại mà còn hướng sự phát triển của lực lượng sản xuất nhằm mục
đích phát triển người lao động, vì chính bản thân người lao động. Đó là một sự phát
triển mang tính bền vững và kết tinh những giá trị nhân văn. Thứ hai, cần quán triệt
quan điểm phát triển bền vững trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nói chung
và phát triển nhân tố người lao động nói riêng. Đó là phát triển lực lượng sản xuất cần
phải kết hợp cả phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, tận dụng những thành quả của
130
khoa học, công nghệ hiện đại để phát triển sản xuất một cách có chọn lọc, nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Đặc biệt,
cần ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thứ ba, cần quán triệt quan điểm
toàn diện trong phát triển nhân tố người lao động. Phát triển nhân tố người lao động
trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại là phát huy tất cả các yếu tố cấu thành của
nhân tố người lao động như cần chú ý tăng cường cả về thể lực, sức khỏe; nâng cao
trình độ, tay nghề; bồi đắp ý thức, trách nhiệm, tính chuyên nghiệp. Trong những yếu
tố trên, cần nhấn mạnh hơn đến yếu tố trí lực bởi đó là lợi thế so sánh nổi bật của
người lao động trong nền sản xuất hiện đại với nền sản xuất truyền thống trước kia,
đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế về đào tạo và sử dụng nguồn lao động có chất lượng
cao hiện nay. Phát huy nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại cũng phải đảm bảo tính cân đối, hài hòa giữa các vùng miền và các ngành sản xuất.
Dựa trên ba quan điểm cơ bản trên, để phát triển nhân tố người lao động đáp
ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện đại của Việt Nam trong thời gian tới, cần chú ý đến
một số giải pháp cơ bản sau: Một là, nâng cao thể lực, sức khỏe; cải cách chế độ bảo
hiểm, chế độ chăm sóc sức khỏe cho người lao động.Đây là giải pháp trước tiên nhằm
cải thiện tình trạng sức khỏe, tăng cường thể lực và tầm vóc của người lao động Việt
Nam, đáp ứng nhu cầu về độ bền, sự dẻo dai, nhanh nhẹn của những dây chuyền sản
xuất có cường độ cao; đồng thời hạn chế tình trạng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
đang rất phổ biến và là vấn đề xã hội đáng quan tâm ở nước ta hiện nay. Hai là, đẩy
mạnh phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ để không ngừng nâng cao
trình độ, tay nghề của người lao động, cải tiến sáng kiến kỹ thuật để thúc đẩy sự phát
triển lực lượng sản xuất. Đây là một giải pháp quan trọng nhằm khắc phục những hạn
chế, yếu kém về chất lượng, nhất là trình độ, tay nghề, kỹ năng của người lao động
Việt Nam hiện nay. Ba là, xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, chính sách
pháp luật phù hợp để người lao động phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của mình. Giải pháp này hướng đến việc tạo ra động lực cả về vật chất và tinh thần cho
người lao động, giúp họ phát huy được tính chủ động, tích cực của mình trong việc sản
xuất vật chất. Bốn là, nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò, vị trí, trách
nhiệm của mình trong nền sản xuất hiện đại. Đây là một giải pháp cần thiết để giúp
cho người lao động thấy được ý thức trách nhiệm của mình trong sản xuất, ý thức bảo
131
vệ môi trường sinh thái, ý thức trong việc đảm bảo an toàn trong sản xuất và an toàn
với những sản phẩm lao động do họ làm ra. Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về đào
tạo và xuất khẩu lao động đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội nhập. Giải pháp này tạo điều
kiện thúc đẩy toàn cầu hóa lực lượng sản xuất hiện đại, giúp cho người lao động Việt
Nam có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu sang thị trường lao động quốc tế.
Như vậy, phát triển nhân tố người lao động chính là cách thức quan trọng, đóng
vai trò quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, góp
phần đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế tri thức và tăng cường hội nhập quốc tế.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Thị Chiên (2014), “Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất theo quan
điểm mácxít và ý nghĩa của nó đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 2, tr. 61-68.
132
2. Lê Thị Chiên (2014), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức để
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý,
số 3, tr. 10-16.
3. Lê Thị Chiên (2014), “Hoàn thiện chính sách phân phối vì mục tiêu công bằng xã
hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 52-56.
4. Lê Thị Chiên (2014), “Khoa học và công nghệ hiện đại với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 4, tr. 23-27.
5. Lê Thị Chiên (2015), “Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Phát triển Nhân lực thành phố Hồ Chí Minh, số 2 (45), tr. 54 - 60.
6. Lê Thị Chiên (2015), “Về lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí Lý luận chính trị, số
5.
7. Lê Thị Chiên (2016), “Yếu tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam
sau 30 năm đổi mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 53-59.
8. Lê Thị Chiên (2016), “Những thách thức chủ yếu của người lao động Việt Nam khi
gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN”, Tạp chí Mặt trận, số 149 (3/2016), tr.28-
32.
9. Lê Thị Chiên (2016), “Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
của C.Mác và một số gợi mở với Việt Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận
chính trị, số 4 (17), tr. 38-44.
10. Lê Thị Chiên (2016), “Người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí
Khoa học xã hội, số 7 (104), tr. 51-57.
11. Lê Thị Chiên (2016), “Quan điểm của Đại hội XII về phát triển lực lượng sản xuất
và xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Sinh
hoạt lý luận, số 5 (138), tr. 3-8.
12. Lê Thị Chiên (2016), “Vai trò của khoa học, công nghệ trong phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, tr.40-44.
13. Lê Thị Chiên (2016), “Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam theo tinh thần của
Đại hội XII”, Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, số 9, 10 (22, 23), tr. 16-23.
14. Lê Thị Chiên (2017), “Những yêu cầu cơ bản của người lao động trong phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 02 (45),
tr.24-30.
133
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Ngọc Anh (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức
đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử
(tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn), truy cập ngày 27/1/2017.
134
2. Lê Ngọc Anh (2006), “Quan điểm về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức - bước phát triển mới trong đường lối công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng ta”, Tạp chí Triết học, (12), tr.3-8.
3. Nguyễn Vân Thùy Anh (2012), “Những khó khăn trong hoạt động đào tạo công
nhân kỹ thuật tại doanh nghiệp: Nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Lao động và
Xã hội, (438), tr.9-11.
4. Báo Kinh tế Việt Nam điện tử, “Nguồn thị trường lao động nông thôn còn nhiều
thách thức”, tại trang http://vcn.vn, truy cập ngày 22/3/2013.
5. Ban Kinh tế Trung ương và Viện Hàn lân Khoa học xã hội Việt Nam (2016), "Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Hà Nội.
6. Nguyễn Anh Bắc (2015), “Năng suất lao động ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã
hội, số 5(90), tr.24-29.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dùng trong các
trường Đại học, cao đẳng), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng Cục thống kê (2014), Báo cáo điều tra dân số và nhà
ở năm 2012, NXB Thống kê, Hà Nội.
9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015), Thông báo số 653 /TB - LĐTBXH về
tình hình tai nạn lao động năm 2014, Hà Nội.
10. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo tình hình môi trường quốc gia năm 2010,
(tại trang http://vea.gov.vn), truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2011.
11. Chu Văn Cấp (2012), “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội nhanh và bền vững”, Tạp chí Khoa học Chính trị, (2), tr. 8-15.
12. Nguyễn Đức Chính (2012), “Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (189), tháng 12, tr.40-42.
13. Nguyễn Trong Chuẩn (1993), “Phát triển nhân tố con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Chuyên đề: Chiến lược con người trong
công cuộc đổi mới và phát triển, Tạp chí Triết học, (1), tr. 23-30.
14. Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), “Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (2), tr. 3-5.
135
15. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên)
(2002), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Vũ Đình Cự (2003), “Những đặc điểm của hệ thống công nghệ mới và lực lượng
sản xuất mới tác động quyết định đến quá trình hình thành kinh tế tri thức”, Tạp
chí Lý luận chính trị, (2), tr.20-29.
17. Vũ Đình Cự, Trần Xuân Sầm (chủ biên) (2009) với Lực lượng sản xuất mới và
kinh tế tri thức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Hùng Cường (2012), “Chính sách trợ cấp cho người bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp: Kết quả và những vẫn đề đặt ra”, Tạp chí Lao động và Xã hội,
(445), tr.30-31,41.
19. Lê Kim Dung (2012), “An toàn - Sức khỏe nghề nghiệp trong chiến lược thúc đẩy
việc làm bền vững ở Việt Nam”, Tạp chíLao động và Xã hội, (462), tr.44-45.
20. Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Nguyễn Huy Dũng (2012), “Những phẩm chất nghề nghiệp của người lao động
Việt Nam”, Tạp chí Phát triển nhân lực, Thành phố Hồ Chí Minh, (6), tr.22-26.
22. Lê Văn Dương (2002), “Đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Triết học,
(1), tr.5-9.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành
TW khóa 6, tháng 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
Trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
32. Trần Tiên Đạt (chủ biên) (2006), Nguyên lý Triết học Chủ nghĩa Mác, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
33. Lê Thị Hồng Điệp (2014), “Những hạn chế về lao động và việc làm trên thị trường
lao động ở Việt Nam thời kỳ hội nhập”, Tạp chí Kinh tế và Kinh doanh, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tập 30, (4), tr. 42-46.
34. Đặng Quang Định (2012), “Phát triển lực lượng sản xuất trong mối tương quan với
quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (114), tr. 23-
29.
35. Đặng Quang Định (2014), “Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam theo tinh
thần Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Mặt trận, (12), tr.8-13.
36. Trần Khánh Đức (2014), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo
ISO & TMQ, NXB Giáo dục Hà Nội.
37. Trần Thanh Đức (2002), Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với vấn đề
đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay (Từ thực tiễn Đồng Bằng Sông Cửu Long), Luận án Tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Nguyễn Tĩnh Gia (1987), Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Triết học, Học
viện cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
39. Lương Đình Hải (2009), “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6), tr.3-9.
137
40. Nguyễn Hiền (2012), “Giải pháp tăng cường an toàn vệ sinh cho các ngành có
nguy cơ cao tại Việt Nam”, Tạp chí Lao động và xã hội, (435), tháng 7, tr.35-36.
41. Trần Đắc Hiến (2011), “Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp” của C.Mác và sự vận dụng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1), tr.9-
15.
42. Nguyễn Cảnh Hồ (2002), “Có phải khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp”, Tạp chí Triết học, (2), tr.58-62.
43. Lê Hồng Huyền (2015), “Tác động của chuyển dịch lao động quốc tế đến phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (4),
tr.23-28.
44. Vũ Thanh Huyền (2014), “Nhà ở cho công nhân - thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học Quốc gia, Bình Dương, tr. 61 - 68.
45. Đào Thị Minh Hương (2015), “Phát triển con người Việt Nam hiện nay nhìn từ
góc độ lao động, việc làm và năng suất lao động”, Tạp chí Nghiên cứu con người,
số 2.
46. Nguyễn Thị Lan Hương (2006), “Tác động của cuộc cách mạng trong công nghệ
thông tin đến lực lượng sản xuất - nhìn từ góc độ triết học”, Tạp chí Triết học,
(9), tr.46-52.
47. Đặng Hữu (2002), “Phát triển kinh tế tri thức, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng sản, (22), tháng 8, tr.26-30.
48. Đặng Hữu (2005), “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
dựa trên tri thức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (4), tháng 2, tr.29-33.
49. Đặng Hữu, Đinh Quang Ty, Hồ Ngọc Luật (2009), Phát triển kinh tế tri thức gắn
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
50. Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Đình Phan (1994), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam và các nước trong khu vực, NXB Thống kê, Hà Nội.
51. Nguyễn Hữu Khiển (2009), “Học thuyết Mác và vấn đề hoàn thiện các yếu tố của
lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.3-8.
52. Sơn Lâm, Nguồn nhân lực Việt Nam phát triển mất cân đối, (tại trang
laodong.com.vn), cập nhật ngày 05/07/2011.
138
53. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, t. 38, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva.
54. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, t. 39, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva.
55. Trương Giang Long (1997), “Xem xét nhân tố người lao động trong cấu trúc của
lực lượng sản xuất”, Tạp chí Cộng sản, (13), tháng 7, tr.27-31.
56. Trương Giang Long (2007), “Giai cấp công nhân Việt Nam - thực trạng và suy
ngẫm”, Tạp chí Cộng sản, (12), tr. 26 - 31.
57. Nguyễn Đức Luận (2011), “Về khái niệm lực lượng sản xuất và trình độ của lực
lượng sản xuất”, Tạp chí Triết học, số 11 (246), tr.23-30.
58. Lương Công Lý (2014), Giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
59. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t.13, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.19, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.23, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.27, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. C. Mác và Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập, t.34, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, t.42, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. C. Mác và Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập, t.46, phần I, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
71. C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, t.46, phần II, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
72. Đoàn Công Mẫn (2011), “Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt
trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 5
(108), tr.28-32.
73. Phạm Văn Nam (2012), “Nguồn nhân lực trình độ Đại học ở Việt Nam: Thực trạng
và một số kiến nghị”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (440), tr.17-19.
139
74. Nguyễn Thế Nghĩa (1996), “Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học, (1), tr.9-13.
75. Nguyễn Thế Nghĩa (2000), “Để khoa học và công nghệ trở thành “quốc sách hàng
đầu””, Tạp chí Triết học, (4), tr.10-12.
76. Phạm Công Nhất (2007), Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng
sản xuất ở Việt Nam hiện nay (sách chuyên khảo), NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
77. Hoàng Văn Phong (2003), “Để khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và động
lực trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng sản, (29), tháng
10, tr.11-16.
78. Trần Văn Phòng (chủ biên) (2015), Giáo trình Triết học (Dùng cho cao học không
chuyên ngành Triết học), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
79. Đào Mai Phước (2012), “Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật
của Hà Nội đến năm 2020”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (437), tr.26-28.
80. Phạm Ngọc Quang (2003), “Kinh tế tri thức - xét từ giác độ lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất”, Tạp chí Triết học, số 3 (142), tháng 3, tr.22-29.
81. Nguyễn Thị Quế - Nguyễn Thị Tú Hoa (2013), “Thực trạng giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr. 23 - 28.
82. Nguyễn Thị Tú Oanh (2008), “Nguồn lực con người - chủ thể trực tiếp quyết định
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Khoa học chính trị,
(6), tr. 24- 29.
83. Cao Văn Sâm (2012), “Vai trò của lực lượng lao động có tay nghề trong việc xây
dựng nông thôn mới”, Tạp chí Lao động xã hội, (434), tháng 7, tr. 21-22.
84. Cao Văn Sâm (2015), “Xuất khẩu lao động Việt Nam - những vấn đề đang đặt ra”,
Tạp chí Lao động và Xã hội, (612), tr.3-7.
85. Hoàng Thanh Sơn (2008), “Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
con người trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Triết học, (7), tr. 64-69.
86. Nguyễn Văn Sơn (2007), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức”, Tạp chí
Triết học, (9), tr. 61-66.
140
87. Bùi Ngọc Thanh (2012), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở
Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (438), tr.2-6.
88. Hoàng Thị Thành (2014), “Một số định hướng chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ
XXI”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
89. Phạm Trung Thông (2012), “Thúc đẩy phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (436), tr.40-41.
90. Thông tin những vấn đề lý luận (2008), “Quan niệm mới về phát triển lực lượng
sản xuất”, (Bài của tác giả Lý Quảng Hân được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
chủ nghĩa Mác của Trung Quốc), (19), Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.9-16.
91. Dương Văn Thịnh (2016), : “Về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác”,
Tạp chí Khoa học xã hội, số 5(102).
92. Thuật dùng người (Bản dịch Tiếng Việt), NXB Lao động, Hà Nội.
93. Lê Huy Thực (2003), “Về luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp”, Tạp chí Triết học, (2), tr. 60-62.
94. Mạc Văn Tiến (2012), “Cơ hội mới cho phát triển đào tạo nghề”, Tạp chí Lao động
và Xã hội, (437), tr.39-40.
95. Tổng Cục thống kê (2011), Niên giám thống kê năm 2010, NXB Thống kê, Hà
Nội.
96. Tổng Cục thống kê (2014), Niên giám thống kê năm 2013, NXB Thống kê, Hà
Nội.
97. Tổng Cục Thống kê (2014), Báo cáo điều tra Dân số và nhà ở năm 2013, Hà Nội,
98. Tổng Cục thống kê (2015), Niên giám thống kê năm 2014, NXB Thống kê, Hà
Nội.
99. Tổng Cục thống kê (2015), Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2014, NXB
Thống kê, Hà Nội.
100. Nguyễn Thị Tùng (2014), Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay, Luận ánTiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
141
101. Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), “Về vai trò nền tảng, động lực của khoa học và
công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển xã hội ở
Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (7), tr.12-18.
102. Phan Văn Trinh (2011), “Lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay - những yêu cầu
đặt ra”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 3 (106), tr. 23-28.
103. Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong “thần kỳ” kinh tế Nhật Bản,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Đào Quang Vinh (2016), “Lý giải về tình trạng lao động có trình độ thất nghiệp ở
Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (512), tr. 3-6.
105. Nguyễn Quang Vinh (2015), “Phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam”, Tạp chí
Kinh tế và Phát triển, (217), tháng 7, tr. 4-11.
106. William Pounstone (2006), Làm thế nào dịch chuyển núi Phú Sĩ - Bài toán tuyển
dụng nhân tài của các công ty hàng đầu thế giới ở Nhật Bản, Bản dịch tiếng
Việt, NXB Tri thức, Hà Nội.
107. Http://chinhphu.org, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn trước đại biểu
Quốc hội tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIII, truy cập ngày 12/2/2015.
108. Http://anninhthudo.vn, Nâng thể lực và tầm vóc người Việt, Ủy ban Dân số - Gia
đình và Trẻ em, truy cập ngày 28/11/2016.