LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2017/6/4/Luan an tien si_LTC.pdf ·...

147
HC VI N CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH & LÊ THCHIÊN NHÂN TNGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIN LC LƯỢNG SN XUT HIN ĐẠI VIT NAM HIN NAY LUN ÁN TIN SĨ TRIT HC HÀ NI - 2017

Transcript of LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2017/6/4/Luan an tien si_LTC.pdf ·...

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ù&ú

LÊ THỊ CHIÊN

NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN

LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ CHIÊN

NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN

LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử

Mã số: 62 22 03 02

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS,TS NGUYỄN HÙNG HẬU

2. PGS,TS ĐẶNG QUANG ĐỊNH

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án của tôi là một công trình nghiên

cứu nghiêm túc, khoa học. Các thông tin và số liệu trích dẫn đều có

nguồn gốc rõ ràng, tin cậy. Những đánh giá, kết luận được đưa ra

trong luận án là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không trùng lặp,

sao chép ở bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đó.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước những lời cam đoan của

mình!

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Thị Chiên

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận về nhân tố

người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại 6

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng của nhân tố người lao động

trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 16

1.3. Những nghiên cứu liên quan đến quan điểm, giải pháp nhằm phát triển

nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt

Nam hiện nay 22

1.4. Giá trị của những công trình nghiên cứu đã tổng quan và những vấn đề

đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm 28

Chương 2: NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

HIỆN ĐẠI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 32

2.1. Lực lượng sản xuất và lực lượng sản xuất hiện đại 32

2.2. Vai trò và những yêu cầu cơ bản của người lao động trong lực lượng

sản xuất hiện đại 55

2.3. Những yếu tố chủ yếu tác động đến người lao động trong quá trình xây

dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 66

Chương 3: NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN

CHỦ YẾU 76

3.1. Thực trạng của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện

đại ở Việt Nam hiện nay 76

3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực và hạn chế ở

người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 96

Chương 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT

TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC

LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM 114

4.1. Những quan điểm cơ bản để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng

yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam 114

4.2. Những giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng

yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam 120

KẾT LUẬN 137

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 140

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 142

DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

STT TÊN BẢNG TRANG

Bảng 1 Thời gian đưa các phát minh khoa học vào ứng dụng 44

Bảng 2 So sánh sự khác nhau giữa kinh tế công nghiệp và kinh

tế tri thức

61

Bảng 3 So sánh các tiêu chí chất lượng cơ bản nguồn nhân lực

của Việt Nam so với một số nước (tính theo thang

điểm 10)

89

Bảng 4 Cơ cấu người thất nghiệp chia theo các bậc học cao

nhất đã đạt được năm 2014

104

Bảng 5 Cơ cấu lao động phân chia theo loại hình kinh tế thời

kỳ 2009 - 2014 (đơn vị tính: %)

109

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người

chính là sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội

trong lịch sử được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản

xuất là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt của quá trình sản xuất vật chất là lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan

hệ biện chứng với nhau, tạo ra sự vận động và biến đổi của phương thức sản xuất. Mọi

sự biến đổi của phương thức sản xuất và sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội

xét đến cùng đều bắt nguồn từ sự thay đổi của lực lượng sản xuất, cho nên lực lượng

sản xuất là yếu tố quyết định mọi sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội.

Lực lượng sản xuất được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó người lao động là

yếu tố quyết định. Mặc dù ngày nay, khoa học - công nghệ đã có bước phát triển mạnh

mẽ, khoa học đã từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nhưng có thể khẳng

định,người lao động vẫn là yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện

đại.

Kế thừa quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình

xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng nhấn mạnh trước hết đến sự phát triển lực

lượng sản xuất để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức

và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đưa ra quan điểm: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản

xuất" [29, tr.30-31]; nhất là "phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [31, tr.27]

Trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, Đảng ta đặc biệt ưu tiên phát triển

nhân tố người lao động, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng

cao. Đây được coi là một trong ba khâu đột phá chiến lược, góp phần phá vỡ những

“điểm nghẽn” đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta nói riêng và

phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đại hội XI khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu

tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [29, tr.41]. Quan điểm này tiếp

tục được Đại hội XII nhấn mạnh thêm: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách,

2

giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội” [31, tr.295-296].

Trong những năm qua, mặc dù đội ngũ người lao động tham gia vào quá trình

sản xuất vật chất ở nước ta ngày càng tăng lên về số lượng; được cải thiện về thể lực;

nâng cao về trình độ, tay nghề, có đóng góp lo lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát

triển đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, người lao động ở

nước ta còn nhiều bất cập. Nhìn chung, sức khỏe, thể lực còn kém; trình độ, tay nghề

còn thấp; ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi

trường sinh thái chưa cao, tính tích cực trong lao động sản xuất chưa được phát huy

một cách tối đa… Những hạn chế đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển

của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam, làm cho “nền kinh tế chủ yếu vẫn phát

triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn,

tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức và khoa học công nghệ, thiếu

nhiều lao động có kỹ năng” [31, tr.84], năng suất lao động thấp, tốc độ phát triển kinh

tế chưa cao, đời sống nhân dân chậm được cải thiện. Ngoài ra, những hạn chế đó còn

tạo ra những rào cản đáng kể khi người lao động nước ta tham gia vào thị trường lao

động thế giới cũng như các nước trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Do vậy, để

hiện đại hóa nền sản xuất xã hội, một trong những vấn đề cốt lõi nhất, cần được ưu

tiên hàng đầu là phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại,

tạo ra bước đột phá để thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước.

Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chọn vấn đề “Nhân tố người lao động trong phát

triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong

luận án tiến sĩ triết học.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng nhân tố người lao động trong lực lượng sản

xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản

để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở

Việt Nam trong những năm tiếp theo.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

3

Để đạt được được mục tiêu trên, luận án thực hiện được những nhiệm vụ cụ thể

sau:

Một là, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến lực lượng sản

xuất hiện đại, nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại;

Hai là, làm rõ khái niệm, biểu hiện của lực lượng sản xuất hiện đại; vai trò và

yêu cầu của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại;

Ba là, phân tích thực trạng của nhân tố người lao động trong phát triển lực

lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay trên cả hai phương diện là ưu điểm và hạn chế;

đồng thời chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng đó;

Bốn là, đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố

người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

trong những năm tiếp theo.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân tố người lao động với tư cách là yếu

tố cấu thành của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi đối tượng nghiên cứu: Trong nền sản xuất hiện đại, không chỉ có

người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất mà cả những người quản lý

sản xuất, những kĩ sư, những nhà khoa học - công nghệ cũng chính là chủ thể của quá

trình sản xuất vật chất. Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn trong phạm vi khảo sát, phân

tích thực trạng người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất

kinh doanh vì lực lượng lao động này chiếm tỷ lệ lớn và cũng phản ánh nét đặc trưng

cơ bản về trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.

- Phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu: nhân tố người lao động ở Việt

Nam từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về lực lượng sản

xuất, về vai trò của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất. Luận

án cũng dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; chính

4

sách, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc phát triển nhân

tốcon người nói chung và phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất

hiện đại. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa giá trị của những công trình nghiên cứu trước

đó những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa

duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, như phương pháp trừu tượng hóa

khoa học, phương pháp lôgíc - lịch sử... Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương

pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... để triển khai các nội dung của luận án.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

5.1. Ý nghĩa khoa học của luận án

- Luận án góp phần nghiên cứu sâu thêm, làm phong phú thêm một số vấn đề lý

luận về lực lượng sản xuất. Đặc biệt, luận án làm rõ thêm vai trò của nhân tố người lao

động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo

cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác - Lênin nói riêng và các ngành

khoa học xã hội khác nói chung.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm thực trạng của nhân tố người lao động

trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay; đặc biệt là góp phần làm rõ hơn những

ưu điểm và hạn chế của người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ

sở sản xuất kinh doanh ở nước ta trong thời gian qua.

- Luận án cũng có giá trị tham khảo trong việc hoạch định chính sách về phát

triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và phát triển lực lượng sản xuất ở các tỉnh,

thành trong cả nước nói riêng.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4

chương với 11 tiết.

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Lực lượng sản xuất và nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản

xuất vốn là một trong những vấn đề rất cơ bản của triết học Mác - Lênin. Vì vậy, cho

đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Liên quan đến nội dung của

luận án, tác giả đã tổng quan những tài liệu đó thành ba nhóm chính theo bố cục ba

chương của luận án.

1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI

1.1.1. Những nghiên cứu lý luận về lực lượng sản xuất hiện đại

Trước sự phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất

đã có những bước phát triển đáng kể, theo hướng hiện đại. Vì vậy, gần đây có một số

công trình bàn về lực lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới. Trong giới hạn

của vấn đề nghiên cứu, luận án không tổng quan những công trình nghiên cứu về lực

lượng sản xuất nói chung mà chỉ đi sâu tổng quan những công trình nghiên cứu về lực

lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới. Dưới góc độ đó, có thể kể đến những

công trình nghiên cứu tiêu biểu là:

Cuốn sách Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức do hai tác giả Vũ Đình

Cự, Trần Xuân Sầm (chủ biên) [17] đã phân tích luận điểm của C.Mác về vai trò của

khoa học đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các tác giả đã khẳng định, trong

thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất không đơn thuần chỉ là sự kết hợp của hai yếu tố

người lao động và tư liệu sản xuất nữa mà sự phát triển không ngừng của khoa học -

công nghệ để dẫn đến sự ra đời của lực lượng sản xuất mới - lực lượng sản xuất hiện

đại. Nhờ đó, nền kinh tế của thế giới đã có bước chuyển biến quan trọng từ nền kinh tế

công nghiệp thuần túy sang nền kinh tế tri thức.

Trong chương 7: “Những đặc điểm chủ yếu của lực lượng sản xuất mới”, các

tác giả đã chỉ ra 5 biểu hiện chứng tỏ khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực

tiếp: Một là, số lượng nhân lực khoa học tham gia vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ

ngày càng cao, vượt trội so với số lượng lao động thủ công; hai là, các máy móc, các

dây truyền sản xuất trong các xí nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với các phòng thí

6

nghiệm; ba là,thời gian cho các ứng dụng khoa học đi từ phòng thí nghiệm ra thị

trường ngày càng được rút ngắn; bốn là, các doanh nghiệp, trường đại học và viện

nghiên cứu gắn bó với nhau ngày càng chặt chẽ; năm là, khoa học trong lực lượng sản

xuất mới không chỉ bao hàm khoa học công nghệ mà còn bao hàm cả các ngành khoa

học xã hội. Những đặc điểm trên đã cho thấy sự khác biệt rất lớn của lực lượng sản

xuất mới so với lực lượng sản xuất trước kia. Từ đó, các tác giả khẳng định, tri thức

chính là sức mạnh nòng cốt của lực lượng sản xuất mới:

Vì tri thức có vai trò quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế nên lực lượng sản

xuất mới không chỉ có mặt trong những ngành sản xuất mới xuất hiện mà

nó còn lan tỏa, cải tạo, đổi mới các ngành sản xuất cũ của nền kinh tế. Như

vậy, lực lượng sản xuất mới cuối cùng sẽ thay thế hoàn toàn lực lượng sản

xuất cũ, qua một quá trình phát triển biện chứng, có sử dụng triệt để những

tiền đề mà lực lượng sản xuất cũ tạo ra [17, tr.145-146].

Từ những phân tích chung đó, trong chương 18 với tên gọi: “Công nghiệp hóa,

hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”, các tác giả đã khẳng định

đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của Đảng ta

hiện nay là hoàn toàn đúng đắn, góp phần vào mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ

bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu

đó cần thiết phải phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại.

Cuốn sách của các tác giả là một công trình khoa học khá công phu đã cung cấp

những vấn đề lý luận rất quan trọng và mới mẻ về lực lượng sản xuất hiện đại, diện

mạo của lực lượng sản xuất hiện đại, vai trò của lực lượng sản xuất hiện đại đối với sự

phát triển xã hội. Tuy nhiên, cần phân tích thêm những nhận định về khoa học trở

thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vấn đề này sẽ được tác giả trình bày trong nội dung

luận án.

Bài viết: “Những đặc điểm của hệ thống công nghệ mới và lực lượng sản xuất

mới tác động quyết định đến quá trình hình thành kinh tế tri thức”, của tác giả Vũ Đình

Cự [16] đã đưa ra những quan niệm về lực lượng sản xuất mới. Theo tác giả, hệ thống

công nghệ mới thực chất chính là hệ thống công nghệ cao được hình thành từ giữa thế

kỷ XX đã có tác động to lớn đến sự biến đổi của lực lượng sản xuất, cho ra đời của lực

lượng sản xuất mới. Tác giả đã đưa ra quan niệm về lực lượng sản xuất mới như sau:

7

Lực lượng sản xuất mới, tức là lực lượng sản xuất hiện đại, dựa trên hệ

thống công nghệ mới được đặc trưng bằng năng suất rất cao, hiệu quả lớn,

ngày càng ít tác hại môi trường và ít gây mất cân bằng sinh thái (“thân” môi

trường), tiêu hao ngày càng ít năng lượng và vật liệu cho một sản phẩm,

đồng thời hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng cao” [16, tr.20-21].

Từ quan điểm này, có thể nhận thấy, tác giả đã đồng nhất lực lượng sản xuất

mới với lực lượng sản xuất hiện đại, nội hàm của khái niệm này gắn liền với trình độ

phát triển theo hướng hiện đại của lực lượng sản xuất. Trong quan điểm này, tác giả đã

đưa ra những đặc trưng nổi bật của lực lượng sản xuất mới, dùng để phân biệt với lực

lượng sản xuất cũ có trình độ lạc hậu trước kia. Từ đó, có thể nhận thấy, tác giả đề cao

vai trò của khoa học - công nghệ hiện đại trong việc hình thành nên lực lượng sản xuất

mới. Tác giả còn khẳng định thêm, sự khác nhau giữa lực lượng sản xuất mới dựa trên

hệ thống công nghệ mới so với lực lượng sản xuất của thời kỳ công nghiệp cổ điển là

lực lượng sản xuất cổ điển có các đối tượng chủ yếu là nguyên liệu, vật liệu; trong lực

lượng sản xuất mới, đối tượng lao động ngoài nguyên liệu, vật liệu còn có thông tin,

dữ liệu, tri thức.

Theo tác giả, khi lực lượng sản xuất mới ra đời, nó không chỉ làm thay đổi diện

mạo của một nền kinh tế - xã hội mà còn làm “phát sinh một hệ quả quan trọng”, đó là

toàn cầu hóa kinh tế. Vì lực lượng sản xuất phát triển nên đã tạo ra một lượng hàng

hóa dồi dào không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng ra thị trường quốc

tế:

Toàn cầu hóa kinh tế hình thành do nhiều nguyên nhân khác nhưng nguyên

nhân do lực lượng sản xuất là quyết định. Nếu không có một lực lượng sản

xuất mới đảm bảo một nguồn hàng hóa và dịch vụ vô cùng phong phú, sẵn

sàng đáp ứng nhu cầu của toàn thế giới và một kết cấu hạ tầng thông tin cực

kỳ mạnh mẽ như hiện nay thì chưa thể có toàn cầu hóa kinh tế [16, tr.24].

Theo tác giả Vũ Đình Cự, vì lượng sản xuất mới có hàm lượng tri thức cao nên

việc xuất hiện toàn cầu hóa kinh tế sẽ tất yếu dẫn đến toàn cầu hóa tri thức bởi tri thức

của con người không bị giới hạn bởi những khuôn khổ chật hẹp trong một vùng, một

lãnh thổ, một quốc gia nhất định mà luôn có tính xã hội hóa, tính quốc tế rất cao. Vì

vậy, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay, muốn phát triển lực

8

lượng sản xuất theo hướng hiện đại, muốn gia nhập vào quá trình toàn cầu hóa lực

lượng sản xuất cần chú trọng đến việc phát huy nguồn lao động có tri thức, có trình độ

tay nghề cao.

Như vậy, trong bài viết, tác giả không chỉ đưa ra nội hàm khái niệm lực lượng

sản xuất mới hay lực lượng sản xuất hiện đại mà còn chỉ ra tác động của lực lượng sản

xuất mới đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như với quá trình toàn cầu hóa kinh

tế, toàn cầu hóa lực lượng sản xuất.

Trong bài viết: “Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt trong

việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [72], tác giả Đoàn Công Mẫn trình bày vai

trò to lớn của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của xã hội nói chung và lực

lượng sản xuất nói riêng: “Chính sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất

mới đã từng bước đưa nhân loại tiến vào nền kinh tế tri thức ở mức độ khác nhau,

trong đó động lực chủ yếu làm nên sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của xã hội là

khoa học và công nghệ” [72, tr.29].

Trong phần hai của bài viết, tác giả đã phân tích thực trạng phát triển lực lượng

sản xuất ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay còn

chậm phát triển và không đều, chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những hạn chế đó được thể hiện trên cả ba

phương diện là người lao động, tư liệu sản xuất và việc ứng dụng khoa học - công

nghệ, trong đó quan trọng nhất là những hạn chế về khoa học - công nghệ. Bởi vậy, để

tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ nhằm thúc đẩy lực lượng sản

xuất lên trình độ hiện đại, cần có một giải pháp đồng bộ, toàn diện và phù hợp với thực

tiễn sản xuất. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra bảy giải pháp để phát triển khoa học và

công nghệ nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam. Những giải pháp

đó có tính khá toàn diện và có tính khả thi.

Đáng chú ý là trong những công trình viết về vai trò của khoa học - công nghệ

trong sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại có nhiều bài viết bàn về luận điểm:

Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác. Điển hình là các tác giả

Trần Đắc Hiến với “Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của

C.Mác và sự vận dụng ở nước ta hiện nay” [41]; Nguyễn Cảnh Hồ với “Có phải khoa

học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [42]; Lê Huy Thực với “Về luận điểm

9

“Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [93]. Trong ba bài viết này, các tác

giả đã phân tích quan điểm của C.Mác về vai trò của khoa học đối với sự phát triển lực

lượng sản xuất, những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Từ

đó, các tác giả phân tích quan điểm của Đảng ta về việc phát triển khoa học - công nghệ

phục vụ sự phát triển lực lượng sản xuất đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát

triển khoa học - công nghệ ở nước ta. Những bài viết này gợi mở một số nội dung để tác

giả luận án phân tích sâu hơn về vai trò của khoa học trong phát triển lực lượng sản

xuất hiện đại.

Ngoài những quan điểm về lực lượng sản xuất mới, lực lượng sản xuất hiện đại,

theo một số nhà khoa học, cũng cần có những quan niệm mới về lực lượng sản xuất để

bắt nhịp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay. Trong bài

viết: “Quan niệm mới về phát triển lực lượng sản xuất”[ 90], tác giả Lý Hân (Trung

Quốc) đưa ra những quan điểm đáng chú ý về phát triển lực lượng sản xuất. Trước hết,

tác giả đã phê phán những quan điểm cũ về lực lượng sản xuất: “Sách giáo khoa cũ ở

Trung Quốc định nghĩa lực lượng sản xuất là khả năng của con người chinh phục và

cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất” [90, tr.9]. Đây không chỉ là quan điểm của

riêng Trung Quốc mà cũng chính là quan điểm của Việt Nam trước kia về lực lượng

sản xuất. Theo tác giả, trong quá trình sản xuất vật chất, con người không chỉ chinh

phục tự nhiên mà còn phải thích nghi với giới tự nhiên nên khi đề cập đến phạm trù

lực lượng sản xuất mà chỉ nhấn mạnh đến hoạt động chinh phục, xem nhẹ hoạt động

thích nghi là phiến diện. Tác giả nhấn mạnh thêm: “Quan niệm như vậy không chỉ hạn

chế nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất mà còn khó dung nạp với sự phát triển

bền vững, phát triển liên tục” [90, tr.10]. Hệ quả của quan điểm này theo tác giả là

“con người tìm mọi cách chinh phục, khai thác sao cho được nhiều nhất của cải từ

thiên nhiên, bất chấp mọi hậu quả” [90, tr.10].

Từ sự phê phán đó, theo tác giả, cần có những thay đổi trong quan niệm về phát

triển lực lượng sản xuất. Tác giả cho rằng, nếu con người biết chung sống hòa bình với

giới tự nhiên, con người sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ nó, sẽ có những hiểu biết sâu

sắc hơn về giới tự nhiên. Do đó, khả năng chung sống hòa bình với thiên nhiên là một

phương diện có ý nghĩa rất quan trọng trong quan niệm về lực lượng sản xuất. Trên cơ

sở đó, tác giả đã đưa ra quan niệm mới về lực lượng sản xuất: “Thuật ngữ “lực lượng

10

sản xuất” là khái niệm thể hiện không chỉ hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự kết

hợp hài hòa giữa con người và giới tự nhiên” [90, tr.9].

Tác giả đã chỉ ra trong lịch sử loài người đã và đang trải qua ba giai đoạn phát

triển của lực lượng sản xuất. Giai đoạn 1: Lực lượng sản xuất phát triển một cách tự

phát. Đây là giai đoạn mà kinh nghiệm sản xuất trực tiếp của người lao động sinh ra kỹ

thuật. Nó xảy ra trước cách mạng công nghiệp. Giai đoạn 2: Lực lượng sản xuất phát

triển bằng mọi giá. Đây là giai đoạn sau cách mạng công nghiệp, con người đã tận

dụng những thành quả của khoa học và kỹ thuật để khai thác ngày càng nhiều tự nhiên

nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Giai đoạn 3: Lực lượng sản xuất phát triển một cách

có chọn lọc. Do mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xung khắc, biểu

hiện qua những thiên tai, lũ lụt nên con người từng bước điều chỉnh hoạt động sản xuất

vật chất của mình, chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn

lọc, tránh làm tổn hại đến tự nhiên. Theo tác giả, đây là giai đoạn mà loài người đã và

đang hướng tới.

Như vậy, có thể nói, quan điểm của tác giả Lý Hân có những cách nhìn mới đối

với mở rộng nội hàm khái niệm lực lượng sản xuất, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Sự

phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ cùng với những yêu cầu, đòi hỏi của

sự phát triển bền vững, việc mở rộng nội hàm khái niệm “lực lượng sản xuất” là cần

thiết. Đó là cách mà chúng ta bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác bằng

những thực tiễn lịch sử sinh động mà thời đại của các ông chưa đặt ra hoặc chưa trở

thành những vấn đề cấp bách, mang tính toàn cầu.

1.1.2. Những nghiên cứu lý luận liên quan đến nhân tố người lao động

trong lực lượng sản xuất hiện đại

Nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề nhận được nhiều

sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề người lao động trong lực

lượng sản xuất hiện đại cũng chưa được nhiều người bàn đến. Có thể kể đến một số

công trình nghiên cứu sau:

Trong cuốn sách: Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt

Nam hiện nay [20], tác giả Hồ Anh Dũng đã bàn đến một số nội dung cơ bản của khái

niệm lực lượng sản xuất qua việc khảo cứu những quan điểm của triết học Mác - Lênin về

lực lượng sản xuất qua những tác phẩm kinh điển như: Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng

11

của triết học, Tư bản… Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích các yếu tố cấu thành của

lực lượng sản xuất, đặc biệt là người lao động - yếu tố quyết định lực lượng sản xuất. Tác

giả đã phân tích vai trò của yếu tố con người trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa

học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại. Tác giả khẳng định:

Khoa học là của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con người

và phải thông qua hoạt động của con người được định hình thành những phẩm

chất và năng lực trong người lao động, mới trở thành lực lượng sản xuất. Khoa

học cũng phải thông qua hoạt động của con người mới có thể được vật chất

hóa thành các phương tiện kỹ thuật và công nghệ. Kỹ thuật, công nghệ hiện đại

với tư cách là phần vật chất trong thành phần của lực lượng sản xuất dù năng

động và cách mạng đến mấy chẳng qua cũng chỉ là sản phẩm của bàn tay và

khối óc của con người và phải chịu sự điều khiển giám sát của con người [20,

tr.50].

Nhận định trên đã cho thấy vai trò to lớn của con người trong bối cảnh hiện nay.

Điều đó cũng cho thấy, khoa học muốn trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp phải thông

qua hoạt động của con người.

Trong cuốn sách: Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất

ở Việt Nam hiện nay [76], tác giả Phạm Công Nhất cũng đã trình bày những vấn đề cơ bản

về vai trò của nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Trong

chương 1, tác giả đã đưa ra khái niệm nhân tố con người:

Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố có liên quan đến con người, là sự

thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ quan và khách quan để tạo nên năng

lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được hình thành và phát huy tác dụng

vào trong thực tiễn sản xuất vật chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội

của mỗi cộng đồng, quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định” [76,

tr.25].

Từ khái niệm đó, tác giả đã chỉ ra bốn đặc điểm cơ bản của nhân tố con người

trong lực lượng sản xuất. Đứng trên lập trường mácxít, tác giả tiếp tục khẳng định vai trò

quyết định của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo tác giả, để thúc đẩy sự

phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, kể cả lực lượng sản xuất hiện đại thì yếu tố có

tính quyết định không phải là tư liệu sản xuất, cũng không phải là khoa học - kỹ thuật mà

12

chính là yếu tố con người. Trong thời đại ngày nay, nói đến nhân tố con người trong phát

triển sản xuất là nói tới những người công nhân, những người lao động. Ngoài ra, tác giả

còn phân tích những yếu tố tác động đến việc phát huy nhân tố con người trong lực lượng

sản xuất ở nước ta hiện nay như: tính chất và trạng thái của thể chế chính trị; tính chất và

trạng thái của nền kinh tế; trình độ phát triển dân trí; trình độ xã hội hóa, dân chủ hóa về

thông tin.

Trong bài viết “Xem xét nhân tố người lao động trong cấu trúc của lực lượng

sản xuất” [53], tác giả Trương Giang Long nhận định:

Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất được hiểu như là bộ phận

năng động và sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhờ có nó mà công cụ

và phương tiện sản xuất ngày càng được đổi mới, sản xuất phát triển với

năng suất và chất lượng cao, đời sống tinh thần và bộ mặt của xã hội có

nhiều tiến bộ [56, tr.27].

Từ đó, tác giả đã chỉ ra những phẩm chất cần có của con người trong lực lượng

sản xuất. Đó là những con người “phát triển cao về trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất, giàu

có về tinh thần, trong sáng về đạo đức” [56, tr.28]. Nhận định này của tác giả cũng có

giá trị tham khảo nhất định đối với tác giả luận án khi phân tích những phẩm chất cần

có của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.

Trong bài viết “Kinh tế tri thức - xét từ giác độ lực lượng sản xuất và quan hệ sản

xuất” [80], tác giả Phạm Ngọc Quang cũng khẳng định sự phát triển của khoa học, công

nghệ hiện đại đã làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Để đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của quá trình sản xuất, “năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng

được nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và

được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng” [80, tr.22]. Cũng theo tác giả, nhờ tác động của

cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, người lao động không chỉ là những người hoạt

động sản xuất trực tiếp mà còn bao gồm một bộ phận ngày càng tăng lên những người

trực tiếp quản lý quá trình sản xuất và những kỹ sư, những nhà công nghệ... Nhận định

này đã phản ánh đúng xu thế phát triển của đội ngũ những người lao động trong nền sản

xuất hiện đại.

Từ việc phân tích xu thế tất yếu của nền kinh tế tri thức, tác giả đã chỉ ra ba xu

hướng biến đổi của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức. Đó là: lao động cơ bắp

13

từng bước được thay thế bằng lao động trí tuệ nhưng lao động cơ bắp không mất đi; yếu

tố trí tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong lao động sản xuất; lao động quản lý

dần chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp. Từ ba xu thế trên, có thể nhận thấy,

trong nền sản xuất hiện đại, yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao động giữ vai trò và vị trí

chi phối. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản của nền kinh tế tri thức so với những

nền kinh tế trước đó trong lịch sử. Vì vậy, lực lượng sản xuất hiện đại và kinh tế tri thức

có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Trong Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với

vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

hiện nay (Qua thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long [37], tác giả Trần Thanh Đức cũng bàn

về nhân tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo tác giả:

Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất không chỉ là bộ phận cấu thành

mà còn giữ vai trò trung tâm trong lực lượng sản xuất. Chính mặt hoạt động

của nhân tố con người tạo ra phương thức kết hợp tốt nhất giữa các yếu tố cấu

thành của lực lượng sản xuất, qua đó, nó giữ vai trò quyết định đối với sự phát

triển của lực lượng sản xuất [37, tr.46].

Như vậy, tác giả đã khẳng định vai trò quyết định của nhân tố con người trong

phát triển lực lượng sản xuất. Trong luận án, tác giả đã đi sâu phân tích sự tác động của

nhân tố con người với những yếu tố cấu thành khác của lực lượng sản xuất như nhân tố

con người với tư liệu sản xuất, nhân tố con người với cách mạng khoa học - công nghệ.

Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra những yêu cầu đào tạo người lao động Việt Nam nhằm phát

triển nhân tố con người trong lực lượng sản xuất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước. Những yêu cầu cơ bản đó là: Người lao động cần phải có kiến thức, kỹ năng

nghề nghiệp cao và tư duy mới - tư duy sáng tạo và biện chứng; người lao động phải có

tính tự chủ và sáng tạo; người lao động phải có khả năng thích nghi; người lao động phải

có văn hóa, có những giá trị nhân bản, nhân đạo, nhân văn; người lao động phải có thể lực

tốt . Đây chính là những yêu cầu khá toàn diện và cần thiết của người lao động để đáp ứng

nhu cầu của phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Vấn đề này cũng được luận án kế thừa và làm rõ hơn khi

phân tích những yêu cầu của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất

hiện đại nói chung và phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam nói riêng.

14

Gần đây, trong bài viết: “Về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác” [88],

thông qua việc tranh luận với tác giả Nguyễn Chí Dũng một số nội dung trong bài viết

“Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội dưới ánh sáng thời đại ngày nay”

(Tạp chí Khoa học xã hội, số 2 (87), năm 2015), tác giả Dương Văn Thịnh cũng đã trình

bày quan điểm của mình về vai trò, vị trí của nhân tố người lao động trong lực lượng sản

xuất. Theo tác giả Dương Văn Thịnh, quan điểm của tác giả Nguyễn Chí Dũng khi cho

rằng phân tích sâu sắc những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, C.Mác chỉ ra rằng,

chất của công cụ sản xuất là cái quan trọng nhất quy định chất của quan hệ sản xuất. Với ý

nghĩa đó nó càng là cái quan trọng nhất, quy định chất của phương thức sản xuất hay chất

của một hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử là chưa phản ánh đúng thực chất tính khoa

học trong học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội. Nếu quan niệm như vậy, tác

giả Nguyễn Chí Dũng không nhắc gì đến yếu tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo

tác giả Dương Văn Thịnh, đây là một quan điểm “duy kỹ thuật” vì nó tìm nguyên nhân

cuối cùng của sự thay đổi xã hội ở sự thay đổi của công cụ sản xuất. Điều này trái với

quan điểm của C.Mác. Mặc dù không phủ nhận vai trò to lớn của công cụ sản xuất, rộng

hơn là tư liệu sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời đại kinh tế

khác nhau nhưng tác giả Dương Văn Thịnh vẫn khẳng định con người mới chính là nhân

tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất:

Không phải công cụ sản xuất quyết định tính năng động của lực lượng sản

xuất, mà chính hoạt động sản xuất vật chất của con người là nhân tố quyết

định. Công cụ sản xuất muốn trở thành một sức hoạt động thì phải có con

người, hơn nữa công cụ sản xuất không phải tự nhiên sinh ra được mà nó cũng

do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong những quan

hệ xã hội nhất định. Cho nên cái quyết định trình độ của lực lượng sản xuất

không phải là chất của công cụ sản xuất mà phải là sự tổng hợp của nhiều yếu

tố, trong đó trình độ phát triển của con người là quyết định nhất [91, tr.40].

Quan điểm này cùng những tranh luận của tác giả Dương Văn Thịnh với tác giả

Nguyễn Chí Dũng trong bài viết trên đã giúp tác giả luận án hiểu rõ hơn về tính khoa học

trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác khi bàn đến vai trò của nhân tố

người lao động trong lực lượng sản xuất.

15

Từ việc tổng quan những công trình nghiên cứu trên cho thấy, có khá nhiều công

trình nghiên cứu bàn đến lực lượng sản xuất nói chung, lực lượng sản xuất hiện đại nói

riêng và nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Những công trình đó

đã cung cấp cho tác giả luận án những ý nghĩa nhất định trong việc phân tích những vấn

đề lý luận về lực lượng sản xuất hiện đại và nhân tố người lao động trong phát triển lực

lượng sản xuất hiện đại.

1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG NGƯỜI LAO

ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngoài những công trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất hiện đại, còn có những

công trình nghiên cứu đi sâu phân tích thực trạng của nhân tố người lao động trong phát

triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay được luận án chọn để tổng quan. Đó là

những công trình tiêu biểu sau:

Trong cuốn sách Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt

Nam hiện nay [20], tác giả Hồ Anh Dũng đã dành hầu hết chương 2 để phân tích những

ưu thế, hạn chế, và xu hướng phát triển của con người lao động Việt Nam. Theo tác giả,

ưu điểm nổi bật của con người lao động Việt Nam là có số lượng đông đảo, chủ yếu là lao

động trẻ; có đức tính cần cù, chăm chỉ, có khả năng thích ứng nhanh chóng với sự biến

đổi của cơ chế thị trường; trình độ của người lao động đang ngày một tăng lên. Tuy nhiên,

theo tác giả, người lao động còn có rất nhiều hạn chế như thể lực của người Việt Nam

đang bị thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là ở nông thôn; hơn nữa, do ảnh hưởng của tập quán,

lối sống nông nghiệp nên người lao động Việt Nam phần lớn đều có cách làm ăn manh

mún, tản mạn, sống theo “lệ” nhiều hơn theo “luật”, có nhiều khuynh hướng bảo thủ, bài

ngoại nên hạn chế nhiều đến sự tiếp thu những thành tựu phát triển khoa học, công nghệ,

thường có lối sống an phận, chủ nghĩa bình quân, có tính ỷ lại... Những nhận định của tác

giả dựa trên sự phân tích cơ sở kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử của những hạn chế trên của

người lao động Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng khẳng định, một trong những hạn

chế chủ yếu của người lao động Việt Nam là “không chỉ thiếu đội ngũ công nhân lành

nghề mà còn thiếu cả đội ngũ chuyên gia kỹ thuật và cán bộ quản lý giỏi… Đội ngũ cán

bộ quản lý của chúng ta hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu” [20, tr.87]. Theo tác giả, những

yếu kém đó cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm ăn sa sút,

thậm chí phá sản của một số xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã của nước ta trong thời gian

16

qua. Từ đó, tác giả khẳng định, muốn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại thì người lao

động Việt Nam cần phải có sự phát triển hài hòa cả về thể lực và trí lực, có sự kết hợp

giữa truyền thống và hiện đại.

Trong chương 2 của cuốn sách: Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực

lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay [76], tác giả Phạm Công Nhất đã đánh giá những

thành tựu và hạn chế của việc phát huy nhân tố con người ở nước ta. Những thành tựu đó

là: Nhận thức của Đảng về phát huy vai trò của nhân tố con người ngày càng rõ nét, phù

hợp với yêu cầu của thời cuộc; nền kinh tế - xã hội có những bước tăng trưởng mới nên

con người ngày càng có điều kiện phát triển cả về thể chất và tinh thần; bản thân các tầng

lớp, giai cấp nhân dân lao động cũng có nhiều bước trưởng thành cả về kinh nghiệm, trình

độ, kỹ năng trong lao động sản xuất… Đặc biệt, tác giả cũng đưa ra những đánh giá về

việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta cả về số lượng cũng như chất lượng.

Về số lượng, nguồn lao động nước ta tăng lên theo các năm. Tác giả khẳng định, đây là

một lợi thế lớn về khả năng cung ứng nguồn nhân lực trong phát triển lực lượng sản xuất

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, dân số đông

trong điều kiện ở một quốc gia còn nghèo như nước ta cũng tạo ra những sức ép không

nhỏ về công ăn việc làm. Ngoài ra, theo tác giả, việc phân bố lao động ở nước ta chưa hợp

lý vì lao động ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tỉ lệ lớn. Điều này cho thấy cơ cấu lao động

hiện nay của nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về chất lượng nguồn nhân lực, tác giả đánh giá cao vai trò của

giáo dục và đào tạo trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ở Việt Nam, “những

thành tựu đạt được trong quá trình giáo dục, đào tạo đã nâng cao trình độ văn hóa, chuyên

môn kỹ thuật nguồn nhân lực. Đó là lực lượng có khả năng tiếp thu nhanh khoa học -

công nghệ hiện đại, có trình độ và kỹ năng khéo léo để sử dụng trang thiết bị kỹ thuật tiên

tiến” [76, tr.127]. Tuy nhiên, cũng theo tác giả Phạm Công Nhất, chất lượng của nguồn

nhân lực nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động phát triển, đặc biệt

tại các vùng kinh tế trọng điểm và các khu độ thị tập trung, thiếu nhiều lao động có tay

nghề, có chuyên môn giỏi, việc đào tạo nghề của người lao động còn nhiều bất cập. Từ

đó, tác giả phân tích những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó và những vấn đề đặt

ra với việc phát triển nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay. Có thể nói, ở chương 2, tác

giả đã cung cấp một bức tranh khá toàn cảnh về thực trạng của việc phát huy nhân tố con

17

người ở Việt Nam. Theo tác giả, đó là một việc làm cần thiết vì “cho phép chúng ta có

thêm cơ sở khoa học để có thể đề ra những phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm

phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong việc tiếp tục phát triển lực lượng sản xuất

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian tới” [76, tr.181].

Trong đề tài khoa học cấp Bộ: “Một số định hướng chuẩn bị nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ

XXI” [88], các tác giả cũng đã chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của nguồn nhân lực Việt

Nam. So với các nước trên thế giới, Việt Nam có nguồn nhân lực trẻ. Điều đó tạo ra

những ưu thế về sức khỏe, trình độ văn hóa, khả năng tiếp thu nhanh những kiến thức

mới, có tính cơ động cao. Tuy nhiên, do ít được đào tạo nghề nên nhiều ưu thế của người

lao động Việt Nam chưa được phát huy. Các tác giả đã phân tích rõ những hạn chế về thể

lực của người lao động Việt Nam cả về chiều cao, cân nặng, chế độ dinh dưỡng, công tác

y tế, chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Các tác giả cũng nhấn mạnh đến những hạn

chế về trình độ của người lao động, không chỉ có trình độ tay nghề mà cả trình độ ngoại

ngữ, tin học . Ngoài ra, các tác giả cũng đã chỉ ra những bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo

nghề cho người lao động ở Việt Nam hiện nay, trong việc phân bố lao động đã qua đào

tạo giữa các ngành nghề, các vùng miền trên cả nước. Đề tài khẳng định, sự mất cân đối

trong cơ cấu trình độ, cơ cấu sử dụng phân bố nguồn nhân lực giữa các ngành, giữa các

vùng với chất lượng đào tạo thấp dấn đến nguồn nhân lực đã qua đào tạo chuyên môn kỹ

thuật, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đã ít về số lượng, kém về chất lượng lại

được sử dụng thiếu hiệu quả, chưa thể đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.

Trong bài viết “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức” [86], tác giả Nguyễn Văn

Sơn cũng phân tích thực trạng của nguồn nhân lực nước ta. Mặc dù đó là thực trạng của

nguồn nhân lực nói chung nhưng về cơ bản, đó cũng là thực trạng của nhân tố người lao

động trong lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, nguồn nhân lực nước ta

có ưu điểm là dồi dào, tăng lên theo các năm. Đây là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát

triển sản xuất. Người Việt Nam được đánh giá là có tư chất thông minh, nhanh nhẹn, nhạy

bén trong tiếp thu và tiếp cận tri thức. Đây chính là những điểm nổi trội của nguồn nhân

lực nước ta. Tuy nhiên, theo tác giả, nguồn nhân lực nước ta còn nhiều hạn chế về thể lực

18

do “mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn ở mức độ thấp, đặc biệt là trẻ em, nguồn

cung cấp nhân lực chính cho xã hội. Sự hạn chế về thể lực ảnh hưởng trực tiếp đến khả

năng tiếp thu tri thức và trí thông minh của trẻ” [86, tr.63]. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra

bảng so sánh đánh giá chất lượng nguồn nhân lực nước ta so với một số nước châu Á như

Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan… nhằm chỉ ra những hạn chế về trí lực của nguồn nhân

lực Việt Nam. Những đánh giá của tác giả có giá trị tham khảo nhất định đối với việc

đánh giá chất lượng nguồn lao động của Việt Nam.

Ngoài những công trình nghiên cứu viết về thực trạng của nguồn nhân lực nói

chung còn có một số bài viết bàn về thực trạng của nguồn nhân lực trong những ngành cụ

thể. Trong bài viết “Những khó khăn trong hoạt động đào tạo nghề cho công nhân kỹ

thuật tại doanh nghiệp” [3], tác giả Nguyễn Vân Thùy Anh đã chỉ ra một thực tế phổ biến

trong các doanh nghiệp sản xuất ở nước ta hiện nay là hầu hết công nhân không có trình

độ cơ bản, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cung công nhân kỹ

thuật từ lực lượng học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề. Do hệ thống giáo

trình và máy móc thiết bị phục vụ thực hành lạc hậu nên một bộ phận học sinh

các trường dạy nghề có tay nghề yếu, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất,

đặc biệt là trong những ngành công nghệ cao, sản phẩm thay đổi nhanh chóng

[3, tr.9].

Nhận định trên không những chỉ ra hạn chế của nguồn lao động công nhân trong

các doanh nghiệp ở nước ta mà cho thấy nguyên nhân của những hạn chế trên là do công

tác đào tạo nghề trong các trường dạy nghề còn nhiều bất cập. Vì vậy, tác giả cho rằng ở

nhiều doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khi tuyển dụng công nhân, họ không phân

biệt lao động phổ thông hay lao động đã được đào tạo vì sau đó họ đều phải tiến hành tự

đào tạo theo yêu cầu công việc của mình. Đây cũng là một thực tiễn cho thấy công tác đào

tạo nghề cho lao động ở nước ta chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của xã hội.

Ngoài những công trình nghiên cứu bàn về nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp

còn có bài viết bàn về thực trạng của nguồn nhân lực trình độ Đại học ở Việt Nam hiện

nay. Trong bài viết “Nguồn nhân lực trình độ Đại học ở Việt Nam - Thực trạng và một số

kiến nghị” [73], tác giả Phạm Văn Nam đã chỉ ra những bất cập về cơ cấu nhân lực trình

độ Đại học trong nhóm cơ cấu nhân lực có trình độ chuyên môn ở nước ta hiện nay bởi

19

“nếu như cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động khu vực châu Á hiện nay là

“1 đại học/4 cao đẳng/10 trung cấp thì tỷ lệ này của Việt Nam thời điểm năm 2010 là: 5,7

đại học/1,7 cao đẳng/3,5 trung cấp” [73, tr.17]. Theo tác giả, đây là một nguyên nhân dẫn

đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, trình độ nguồn nhân lực

đã qua đào tạo Đại học ở nước ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đúng nhu cầu của xã

hội. Điều đó phản ánh qua số lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm hoặc

không được làm việc theo đúng chuyên ngành đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Những sinh

viên ra trường có việc làm phần lớn cũng phải trải qua quá trình đào tạo lại.

Trong Luận án Tiến sĩ Triết học năm 2002: Nhân tố con người trong lực lượng

sản xuất với vấn đề đào người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Việt Nam hiện nay (Qua thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long) [37], tác giả Trần Thanh

Đức cũng đã phân tích thực trạng của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất ở nước

ta và vấn đề đào tạo người lao động. Trước hết, tác giả chỉ ra ưu thế nổi bật của Việt Nam

là có một nguồn lao động dồi dào với tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo, có khả

năng vận dụng linh hoạt và thích ứng nhanh với những biến đổi của hoàn cảnh. Tác giả

cũng khẳng định:

Không phải việc tăng trực tiếp các điều kiện lao động vật chất truyền thống là

cơ sở của bước tiến bộ của nền sản xuất vật chất mà là sự phát triển của chính

nhân tố con người thông qua giáo dục - đào tạo để từ đây việc thực hiện sự cải

tạo và hoàn thiện các nhân tố sản xuất, các hoạt động của con người mới có tác

dụng thúc đẩy ở mức độ lớn nhất đối với sự phát triển của nền sản xuất [37,

tr.96].

Theo tác giả, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hạn chế đó là do

những bất cập trong công tác đào tạo người lao động cả về nội dung, phương pháp, sự mất

cân đối trong đào tạo giữa các ngành nghề, các cấp bậc, phân bố cơ sở đào tạo… Tác giả

khẳng định, những bất cập của nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất đang

là một trong những thách thức của nước ta trong việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Đây là một thách thức lớn nhất của Việt Nam bởi vì

thiếu vốn chúng ta có thể đi vay, thiếu công nghệ chúng ta có thể nhập, nhưng nếu thiếu

người lao động có tri thức, có tay nghề cao thì chúng ta không thể thực hiện thắng lợi sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [37, tr.110]. Đây là một nhận định thỏa

20

đáng về vai trò to lớn của nguồn lao động có trình độ, có tay nghề đối với sự phát triển lực

lượng sản xuất nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như những khó khăn

của Việt Nam nếu thiếu đội ngũ này.

Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn đến thực trạng của nguồn nhân

lực Việt Nam nói chung và nguồn lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nói riêng.

Có những tác giả đưa ra những nhận xét có tính khái quát, có những tác giả lại đưa ra

những số liệu cụ thể để minh chứng cho những ưu điểm và hạn chế của người lao động

Việt Nam. Điều đó đã mang đến một bức tranh khá toàn cảnh về thực trạng của người lao

động nước ta.

1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỂ

PHÁT TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC

LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM

Ngoài việc phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của nhân tố người lao động

trong phát triển lực lượng sản xuất còn có một số công trình nghiên cứu đề xuất những

quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người nói chung và

nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nói riêng.

Trong cuốn sách: Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt

Nam hiện nay [20], theo tác giả Hồ Anh Dũng, phương hướng để xây dựng người lao

động Việt Nam là:

Con người lao động Việt Nam mà chúng ta muốn xây dựng với tư cách là một

lực lượng sản xuất hiện đại là con người phát triển phong phú, hài hòa, vừa có

thể lực tốt, vừa có tinh thần lành mạnh, trí tuệ phát triển, vừa có trình độ học

vấn, có tri thức khoa học, kỹ thuật, kinh tế cao, vừa có đạo đức tốt; luôn năng

động, sáng tạo, biết làm giàu cho bản thân và cho đất nước, nhưng biết hưởng

thụ những thành quả lao động hợp lý, đồng thời lại biết tiết kiệm tập trung vốn

phát triển sản xuất; có ý chí vươn lên mạnh mẽ, vượt lên khắc phục khó khăn,

chế ngự được hoàn cảnh, có tinh thần tự do sáng tạo, táo bạo nhưng không vi

phạm đạo đức và biết tuân thủ pháp luật [20, tr.98-99].

Như vậy, tác giả đã chỉ ra một cách rất cụ thể những phẩm chất cần có của người

lao động Việt Nam trong nền sản xuất hiện đại. Tác giả gọi đó là những con người “có

phẩm chất tiên tiến của thời đại”. Để xây dựng được người lao động Việt Nam đạt được

21

những tố chất đó, tác giả đã đưa ra ba giải pháp là: luôn luôn quan tâm đúng mức tới nhu

cầu và lợi ích của người lao động để kích thích tính tích cực của họ trong quá trình sản

xuất; xây dựng môi trường xã hội đảm bảo các điều kiện phát huy yếu tố con người trong

lực lượng sản xuất và đổi mới; đổi mới, tăng cường giáo dục - đào tạo là phương hướng

quan trọng để phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất. Theo tác giả, đó chính

là những giải pháp rất cơ bản và quan trọng để phát huy yếu tố con người trong lực lượng

sản xuất ở Việt Nam. Tuy nhiên, những giải pháp mà tác giả đưa ra cũng chưa thực sự

toàn diện vì chưa có giải pháp nhằm phát triển thể lực, sức khỏe của người lao động Việt

Nam.

Tác giả Phạm Công Nhất trong cuốn sách: Phát huy nhân tố con người trong phát

triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay [76] cũng đưa ra một số quan điểm và giải

pháp cơ bản trong việc phát huy nhân tố con người nhằm phát triển lực lượng sản xuất

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Những quan điểm đó là: phải

coi nhân tố con người là nhân tố có vai trò quyết định đến sự thành công của phát triển lực

lượng sản xuất, thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta; phải

gắn tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội với phát triển con người; phải tạo ra môi trường

thuận lợi để người lao động có thể bộc lộ được hết những khả năng của mình, tạo ra nhiều

của cải cho xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp như: đổi mới hơn nữa

về mặt nhận thức của người lao động Việt Nam trong quá trình xây dựng lực lượng sản

xuất mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xác định đúng đắn vị trí, vai trò

làm chủ của người lao động trong hệ thống sản xuất; quan tâm đúng mức đến lợi ích kinh

tế của người lao động, thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế; mở rộng và nâng cao chất

lượng giáo dục - đào tạo đối với người lao động, nâng cao mặt bằng dân trí đối với toàn xã

hội; xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc phát huy nhân tố con người.

Đó là những giải pháp khá toàn diện nhằm phát huy cả thể lực, tâm lực và trí lực của

người lao động ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đã khẳng định vai trò to lớn của việc phát

huy nhân tố con người đối với sự phát triển của đất nước: “Phát huy nhân tố con người ở

nước ta hiện nay thực chất là phát huy một trong những thế mạnh của nội lực đất nước

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, không còn nghi ngờ gì

nữa đó chính là chiếc chìa khóa của việc dẫn tới thành công công cuộc đổi mới hiện nay”

[76, tr.228].

22

Những giải pháp mà tác giả đưa ra có giá trị tham khảo nhất định đối với tác giả

luận án.

Trong Luận án Tiến sĩ Triết học Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với

vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

hiện nay [37], tác giả Trần Thanh Đức cũng dành một phần của luận án để đưa ra những

giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả đào tạo người lao động nhằm phát huy nhân tố con

người trong lực lượng sản xuất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện đại hóa

đất nước. Mặc dù những thực trạng đó xuất phát từ thực trạng của vấn đề đào tạo người

lao động trong lực lượng sản xuất ở Đồng bằng Sông Cửu Long nhưng nó cũng có giá trị

nhất định đối với luận án khi đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện trình độ của người lao

động trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam nói chung. Những giải pháp đó là:

Đổi mới nội dung và phương thức người lao động; đổi mới phương pháp và hiện đại hóa

phương tiện đào tạo người lao động; kết hợp giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên

nghiệp trong đào tạo người lao động; hoàn thiện hệ thống các trường chuyên nghiệp, nhất

là hệ thống các trường đại học và cao đẳng cộng đồng; đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng

người lao động thuộc khu vực nông nghiệp, nông thôn; tăng cường các nguồn lực tài

chính cho giáo dục và đào tạo; xây dựng đội ngũ nhà giáo - nhân tố quan trọng để nâng

cao chất lượng đào tạo người lao động. Những giải pháp này nhấn mạnh đến việc đào tạo

để nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động. Nó cũng có ý nghĩa tham khảo nhất

định đối với những giải pháp về đào tạo nghề cho lao động ở Việt Nam.

Gần đây, tác giả Lương Công Lý trong Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục -

đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay [58]

cũng dành chương 4 của Luận án để đưa ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu

nhằm phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất

lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Những giải pháp đó là: Đẩy mạnh đổi mới nội dung,

chương trình, phương pháp, hình thức giáo dục - đào tạo để phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao ở các trường Đại học hiện nay; phát triển số lượng, nâng cao chất

lượng đội ngũ làm công tác giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất

lượng cao ở các trường Đại học hiện nay; nâng cao tính tích cực tự giác tự học, tự

nghiên cứu của giảng viên và sinh viên; đổi mới công tác quản lý, đánh giá kết quả học

tập, thực hành của quản lý và giảng viên; nâng cao nhận thức của toàn xã hội, đổi mới

23

chính sách trọng dụng nhân tài, đầu tư có trọng điểm cơ sở giáo dục - đào tạo tiên tiến,

tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng

giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và giáo dục thể chất cho sinh viên các

trường Đại học. Mặc dù đó là những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực ở Việt Nam nói chung nhưng những giải pháp này cũng có giá trị tham khảo với

luận án trong việc đẩy mạnh giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao trình độ, tay nghề cho

nguồn lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.

Bên cạnh những nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm phát huy nhân tố

người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nói chung, còn có những công trình,

những bài viết đưa ra những giải pháp nhằm phát huy nguồn lao động ở một lĩnh vực

cụ thể, một nhóm lao động cụ thể hơn.

Trong bài viết “Dạy nghề đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp: Xu thế và giải

pháp”, tác giả Nguyễn Hồng Minh đã chỉ ra rằng, nhu cầu về lao động đã qua đào tạo

nghề ở nước ta cho đến năm 2020 vẫn còn rất lớn, nhất là những ngành mũi nhọn được

đầu tư cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện đại. Bởi vậy, theo tác giả, để đáp ứng những

nhu cầu đó, cần đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động, gắn với nhu cầu

của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng

cao chất lượng dạy nghề ở nước ta như: Xây dựng cơ chế, chính sách với các doanh

nghiệp tham gia đào tạo nghề, hoàn thiện mạng lưới cơ sở dạy nghề, tăng cường quản

lý của cả cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề cho người lao

động. Tác giả khẳng định việc tham gia đào tạo nghề cho người lao động là trách

nhiệm của cả xã hội và cả doanh nghiệp tiếp nhận người lao động. Những giải pháp

mà tác giả đưa ra có ý nghĩa nhất định trong việc góp phần cải thiện công tác dạy nghề

cho lao động ở các doanh nghiệp hiện nay.

Trong bài viết “Những khó khăn trong hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật tại

doanh nghiệp - Nguyên nhân và giải pháp” [3], tác giả Nguyễn Vân Thùy Anh cũng

chỉ ra rằng các doanh nghiệp hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cung

công nhân kỹ thuật từ lực lượng học sinh tốt nghiệp từ các trường dạy nghề. Nhìn

chung, công tác đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Dựa trên

những kết quả khảo sát và nghiên cứu thực tế của mình, tác giả đã đề xuất một số giải

pháp như: làm tốt công tác thu hút, tuyển mộ, tuyển chọn công nhân kỹ thuật; hoàn

24

thiện các phương pháp đào tạo cho phù họp với trình độ của người học; đầu tư có

chiều sâu vào việc phát triển cơ sở vật chất và đội ngũ chuyên gia, giáo viên dạy nghề;

hoàn thiện hệ thống chính sách, quy chế đào tạo, quy chế đánh giá kết quả của việc

đào tạo nghề.

Ngoài những công trình nghiên cứu bàn trực tiếp đến những giải pháp nhằm

phát huy nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam nói riêng còn có

những công trình nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực

của nước ta nói chung. Tiêu biểu là các công trình như: “Đào tạo nhân lực cho sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên tri thức ở nước ta hiện nay” của tác giả

Đặng Hữu [48]; “Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước” của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa [74]; “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục

vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức” của

tác giả Nguyễn Văn Sơn [86]; “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội nhanh và bền vững” của tác giả Chu Văn Cấp [11]; “Vấn đề phát triển

nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An

hiện nay”, Luận ánTiến sĩ Triết học của tác giả Nguyễn Thị Tùng [100]… Những giải

pháp mà các tác giả đưa ra có giá trị tham khảo nhất định đối với tác giả luận án khi

đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của

lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu của các học giả trong nước về nguồn

nhân lực của Việt Nam còn có những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về nguồn

nhân lực, người lao động của một số nước phát triển trong khu vực. Tác giả luận án

chọn để tổng quan những công trình này vì nó đã đưa ra một số giải pháp có giá trị

tham khảo nhất định đối với việc nâng cao chất lượng người lao động đáp ứng yêu cầu

phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam. Tác giả William Pounstone [106] đã

chỉ ra những giải pháp quan trọng của Nhật Bản trong việc nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực. Đó là việc xây dựng một nền giáo dục mang tính thực tế cao thông qua việc

gắn giáo dục lý thuyết với việc rèn luyện kỹ năng thực hành. Nhờ vậy, Nhật Bản đã

tạo cho mình một đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật khá cao, bảo đảm không

những tiếp thu kỹ thuật, công nghệ của phương Tây mà còn dần tiến tới làm chủ sáng

25

tạo, trở thành một trong những nước hàng đầu về sản xuất công nghệ và sáng tạo kỹ

thuật của thế giới.

Tác giả Lưu Ngọc Trịnh [103] đã chia sẻ những kinh nghiệm của Nhật Bản

trong chiến lược con người để tạo ra bước nhảy “thần kỳ” của nền kinh tế. Theo tác

giả, Nhật Bản là một nước đứng hàng đầu thế giới trong việc phát huy tính tích cực

của người lao động thông qua việc tập trung vào yếu tố tâm lý và kinh tế. Theo tác giả,

“sự kết hợp một cách tài tình yếu tố tâm lý và kinh tế đã góp phần tạo nên những

người lao động luôn toàn tâm, toàn ý vì công việc chung, vì sự phồn vinh của công ty.

Do đó, không ở đâu người lao động lại trung thành và gắn bó với công ty của mình

như ở Nhật Bản” [103, tr.61]. Cũng theo tác giả, nét đặc sắc nhất trong việc động viên

tính tích cực của người lao động Nhật Bản là kích thích về tâm lý và đạo đức thông

qua việc xây dựng mô hình “văn hóa công ty”. “Văn hóa công ty” được hiểu là toàn bộ

những giá trị tinh thần được xây dựng và hình thành xung quanh hoạt động sản xuất,

kinh doanh của họ. Nó bao gồm những nguyên tắc, nghi lễ cùng với những hoạt động

tinh thần thể hiện sự gắn bó, gắn kết giữa những người lao động với nhau và cả gia

đình họ với các cơ quan, xí nghiệp. Tất cả những hoạt động này tạo ra môi trường

thuận lợi và trở thành động lực quan trọng kích thích tính sáng tạo, tinh thần tích cực,

ý thức trách nhiệm của người lao động. Cách thức này hiện nay đã được các nước Đài

Loan, Singapore, Hàn Quốc… áp dụng nhằm kích thích người lao động phát triển kinh

tế - xã hội. Đây cũng là một yếu tố quan trọng tạo ra “kỳ tích” và bước phát triển “thần

kỳ” của một số nước Đông Á hiện nay.

Một số tác giả Trung Quốc trong cuốn sách “Thuật dùng người” [92] đã chia sẻ

những cách thức của một số nước trong khu vực trong việc khai thác năng lực sáng tạo

của người lao động. Ở Nhật Bản, mỗi công ty đều luôn có sẵn những hòm phiếu để thu

nhận những sáng kiến của người lao động. Điều đó không chỉ cho thấy sự coi trọng

người lao động mà còn là lòng tin đối với khả năng sáng tạo của người lao động, giúp

cho các công ty Nhật Bản có được đội ngũ nhân viên giàu óc sáng tạo, dám mạnh dạn

đề xuất và thực hiện những ý tưởng mới trong kinh doanh. Học tập kinh nghiệm này

của Nhật Bản, các nước Hàn Quốc, Singapore cũng có cơ chế mở rộng cánh cửa cho

người lao động có điều kiện đề xuất sáng kiến và thực hiện ý tưởng của mình. Nhờ hệ

thống thu nhận sáng kiến thuận lợi và linh hoạt nên các công ty của các quốc gia này

26

thường nhận được nhiều sáng kiến của các cá nhân. Qua đó, họ không những tiếp thu

và làm chủ được kỹ thuật tiên tiến của phương Tây mà còn có khả năng tạo ra công

nghệ mới ứng dụng vào sản xuất. Các tác giả khẳng định: “Khả năng sáng tạo là nguồn

tiềm năng vô hạn của con người; càng khai thác, càng sử dụng nó càng phát triển.

Chính sách của mỗi quốc gia phải trọng dụng được nguồn tiềm năng này thì kinh tế

mới nhanh chóng phát triển” [92, tr.162]. Những cách thức, giải pháp của các nước

phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore… trong việc sử dụng

người lao động cũng có ý nghĩa tham khảo nhất định đối với Việt Nam trong phát triển

người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại.

1.4. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ TỔNG QUAN VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, LÀM SÁNG TỎ THÊM

1.4.1. Giá trị của những công trình đã tổng quan

Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án nêu trên đã bàn đến

những vấn đề lý luận cơ bản về nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản

xuất hiện đại ở Việt Nam. Có thể khái quát những nội dung nghiên cứu và giá trị của

những công trình đó trên các khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu trên đã trình bày khá cụ thể những vấn

đề lý luận rất cơ bản về lực lượng sản xuất và lực lượng sản xuất hiện đại, vai trò của

nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Các tác giả đều

khẳng định người lao động chính là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản

xuất hiện đại. Có tác giả còn nhấn mạnh, trong thời đại ngày nay, dù khoa học - công

nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa sự phát triển của lực lượng sản

xuất nhưng không vì thế mà nó đẩy người lao động đứng bên ngoài quá trình sản xuất.

Trong bất cứ thời đại nào, người lao động vẫn luôn là chủ thể của quá trình sản xuất

vật chất.

Thứ hai, những công trình nghiên cứu trên ở những góc độ nhất định đã phân

tích được những ưu điểm và hạn chế của nhân tố người lao động trong phát triển lực

lượng sản xuất cả về thể lực; trình độ, tay nghề; tâm lý sản xuất, ý thức trách nhiệm, ý

thức bảo vệ môi trường sinh thái. Đặc biệt, các tác giả đều đánh giá, người lao động

nước ta về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của nền sản

xuất hiện đại.

27

Thứ ba, những công trình nghiên cứu trên cũng đã đưa ra một số quan điểm và

những giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát huy nhân tố người lao động trong phát triển

lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. Trong những công trình đó,

có nhiều tác giả nhấn mạnh đến những giải pháp về đào tạo nghề cho người lao động

để cải thiện chất lượng nguồn lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Tuy vậy, nhìn chung vẫn chưa có nhiều những công trình nghiên cứu chuyên

sâu bàn đến nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam. Các

công trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất trước đây cũng chưa bàn nhiều đến đặc

điểm của lực lượng sản xuất hiện đại, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa, kinh tế tri

thức, cũng như yêu cầu đối với nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện

đại ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, tác giả luận án xác định đây là vấn đề cần tiếp tục

nghiên cứu.

1.4.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm

Trên cơ sở tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung của

luận án, tác giả nhận thấy có một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và làm sáng

tỏ thêm như sau:

Thứ nhất, trước tác động của quá trình toàn cầu hóa và kinh tế tri thức cùng với

tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới, lực lượng sản xuất

phát triển không ngừng với trình độ ngày càng hiện đại. Vì vậy, cần phải phân tích rõ

những đặc điểm của lực lượng sản xuất hiện đại, so sánh sự khác nhau giữa lực lượng

sản xuất hiện đại và lực lượng sản xuất trước đó; đồng thời tiếp tục luận giải vai trò

của nhân tố người lao động trong điều kiện khoa học - công nghệ hiện đại đang không

ngừng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Từ đó, cũng cần chỉ ra những yêu cầu

của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, để đáp ứng sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện

nay, cần phải chỉ rõ sự khác biệt của yêu cầu về thể lực, trí lực, tâm lực ở người lao

động so với các giai đoạn trước đó. Từ đó, phân tích các yếu tố thể lực, trí lực, tâm lực

của người lao động ở Việt Nam đã đáp ứng ở mức độ nào yêu cầu của lực lượng sản

xuất hiện đại và chưa đáp ứng như thế nào so với yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện

đại.

28

Thứ ba, để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay cần có

những quan điểm và giải pháp có tính khả thi, gắn liền với thực tiễn hiện nay của nước

ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri

thức và hội nhập quốc tế. Những giải pháp được đưa ra cần toàn diện, có tính đồng bộ

nhằm khắc phục những hạn chế cả về thể lực, sức khỏe; trình độ, tay nghề; tâm lý, ý

thức của người lao động.

Tiểu kết chương 1

Qua việc khảo cứu các nguồn tài liệu liên quan đến đối tượng nghiên cứu, có

thể khẳng định, cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu bàn về lực lượng sản xuất,

người lao động trong lực lượng sản xuất, vấn đề phát triển người lao động, nguồn nhân

lực của Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển

kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.

Luận án không chỉ là sự kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó về những vấn đề

lý luận về lực lượng sản xuất và nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản

xuất mà còn sự tiếp tục nghiên cứu, triển khai những vấn đề đang đặt ra với sự phát

triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong bối cảnh toàn

cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Những khoảng trống về mặt lý luận cũng như

tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh mới hiện nay đã thôi thúc tác giả

lựa chọn vấn đề “Nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại

ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận án.

29

Chương 2

NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

HIỆN ĐẠI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

2.1. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI

2.1.1. Lực lượng sản xuất

2.1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Việc nghiên cứu rõ nội hàm của khái niệm này là cơ sở để hiểu toàn bộ sự vận động và

phát triển của quá trình sản xuất vật chất trong lịch sử xã hội loài người. Vì vậy, các

nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã sớm nghiên cứu về khái niệm lực lượng sản xuất.

Trong các tác phẩm của mình, mặc dù C.Mác không trực tiếp đưa ra khái niệm lực

lượng sản xuất nhưng nội hàm của khái niệm này đã được ông đề cập đến ngay từ

những tác phẩm đầu tay.

Năm 1845, khi viết tác phẩm “Về cuốn sách của Phiđrích Lixtơ “Học thuyết

dân tộc về kinh tế chính trị học””, C.Mác đã phê phán quan điểm duy tâm của Lixtơ về

lực lượng sản xuất khi Lixtơ cho rằng lực lượng sản xuất mang “bản chất tinh thần”,

nó là cái vô hạn. Theo C.Mác, lực lượng sản xuất không phải là cái “bản chất tinh

thần” nào đó mà là những cái có sức mạnh vật chất. C.Mác viết: “Để xua tan vầng hào

quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất”, chỉ cần mở ra bản tổng quan thống

kê đầu tiên ta gặp là đủ. Ở đó có nói về sức nước, sức hơi nước, sức người, sức ngựa.

Tất cả những thứ ấy đều là lực lượng sản xuất“ [69, tr.338].

Từ quan điểm duy vật về đời sống của con người nói chung và về lực lượng sản

xuất nói riêng, trong các tác phẩm tiếp theo như “Hệ tư tưởng Đức”, “Sự khốn cùng

của triết học”, “Lao động làm thuê và tư bản”, “Tiền công giá cả và lợi nhuận”, đặc

biệt là trong bộ “Tư bản”, nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất ngày càng được

C.Mác và Ph.Ăngghen làm sáng tỏ và có nội dung sâu sắc hơn. Đó cũng là cơ sở khoa

học cho việc nhận thức bản chất, động lực của sự phát triển lịch sử - xã hội thông qua

hoạt động lao động của con người.

Xuất phát điểm trong nghiên cứu của C.Mác về lịch sử - xã hội là hoạt động sản

xuất vật chất của con người hiện thực. Theo C.Mác, bản thân con người bắt đầu phân

30

biệt với động vật khi sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt phục vụ cho những nhu cầu thiết

yếu của mình. C.Mác viết: “Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra

lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,

quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra

những tư liệu để thỏa mãn nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” [61,

tr.42].

Ph.Ăngghen cũng coi sản xuất là tiêu chí để phân biệt sự khác nhau giữa con

người và loài vật: “Điểm khác biệt giữa xã hội loài người với loài vật là ở chỗ: loài vật

may mắn chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất” [68, tr.241]. Như vậy, tiền đề

đầu tiên cho sự tồn tại của con người là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn

những nhu cầu thiết yếu. Đó là việc sản xuất ra chính đời sống vật chất của con người.

Đồng thời với quá trình đó, con người cũng sáng tạo ra các mặt của đời sống xã hội.

C.Mác viết: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính mỗi

một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một

cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền,

nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta” [64, tr.500].

Quan điểm này đã khẳng định tính triệt để trong quan niệm duy vật về lịch sử của chủ

nghĩa Mác.

Cũng theo C.Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng của con người. Đó

là hoạt động cơ bản nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của con người. Trong quá

trình sản xuất vật chất, con người đồng thời có hai mặt quan hệ. Một mặt, con người

quan hệ với tự nhiên, còn mặt khác, con người quan hệ với nhau. Mặt con người quan

hệ với tự nhiên chính là biểu thị của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, không phải mọi

quan hệ của con người với tự nhiên đều là lực lượng sản xuất (chẳng hạn như quan hệ

tình cảm, quan hệ thẩm mỹ, quan hệ nhận thức…). Chỉ có những quan hệ mà trong đó

sự tác động giữa con người với tự nhiên tạo thành của cải vật chất phục vụ cho những

nhu cầu của con người, đồng thời giúp con người cải biến chính bản thân mình mới

được gọi là lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình

cải biến giới tự nhiên. Khi tiến hành sản xuất vật chất, con người đã dùng những công

cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ cho

31

những nhu cầu thiết yếu của mình. Cũng trong quá trình đó, con người đã nắm bắt

được những quy luật của tự nhiên, biến giới tự nhiên từ chỗ hoang sơ, thuần phác trở

thành “thế giới thứ hai” với sự tham gia của bàn tay và khối óc của con người. Sản

xuất vật chất luôn thay đổi nên lực lượng sản xuất là một yếu tố động và là một quá

trình luôn được đổi mới và phát triển không ngừng.

Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội

loài người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong mỗi giai

đoạn lịch sử nhất định. Chính vì vậy, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác đã

khẳng định như sau:

Lịch sử chẳng qua là sự tiếp nối của những thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thế

hệ khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất

cả các thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động

được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và một mặt

khác lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay

đổi” [61, tr.65].

Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về lực lượng sản xuất. Theo các

nhà mácxít ở Trung Quốc: “Lực lượng sản xuất là năng lực thực tế của con người được

hình thành trong hoạt động sản xuất vật chất để giải quyết mâu thuẫn giữa tự nhiên và

xã hội, là sức mạnh vật chất để con người cải tạo tự nhiên, làm cho tự nhiên thích ứng

với nhu cầu xã hội” [32, tr.405].

Theo quan điểm trên, khi nói đến lực lượng sản xuất, người ta nhấn mạnh đến

“năng lực thực tế” của con người trong quá trình sản xuất vật chất. Do đó, lực lượng

sản xuất chính là sự thể hiện “sức mạnh vật chất” của con người trong việc cải tạo tự

nhiên theo mục đích của mình. Quan điểm trên tuy đã phản ánh được khía cạnh bản

chất của lực lượng sản xuất nhưng chưa nói lên được nội hàm cấu trúc của lực lượng

sản xuất.

Cũng gần với quan điểm trên, trong Giáo trình triết học Mác - Lênin năm 2006,

lực lượng sản xuất cũng được hiểu như sau: “Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn

cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình” [7,

tr.289]. Quan điểm này cũng nhấn mạnh đến “năng lực thực tiễn” của con người trong

việc cải biến giới tự nhiên - một khía cạnh quan trọng của nội hàm khái niệm lực

32

lượng sản xuất nhưng cũng chưa nói lên được các bộ phận cấu thành của lực lượng sản

xuất.

Trong Giáo trình Triết học (dùng cho cao học không chuyên ngành triết học),

lực lượng sản xuất được hiểu là “thể thống nhất hữu cơ giữa người lao động và tư liệu

sản xuất (trước hết là công cụ lao động) để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định”

[78, tr.134]. Định nghĩa này đã chỉ ra hai bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất là

người lao động và tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động) và sự thống nhất

hữu cơ của chúng với nhau.

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, theo tác

giả luận án, lực lượng sản xuất là một khái niệm dùng để chỉ sự kết hợp giữa người lao

động với tư liệu sản xuất theo một cách thức nhất định để tạo ra một sức sản xuất

nhằm cải biến giới tự nhiên, đáp ứng nhu cầu của con người và phát triển kinh tế - xã

hội.

Trước đây, khi nói về lực lượng sản xuất, người ta thường nhấn mạnh đó là khả

năng con người chinh phục giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật

chất, thỏa mãn nhu cầu của mình và phát triển xã hội. Vì vậy, trong mối quan hệ giữa

con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, giới tự nhiên thường chỉ được

xem là đối tượng để con người chinh phục. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ngoài việc là

đối tượng để con người chinh phục, giới tự nhiên còn có thể tạo ra những bất lợi, gây

nên những khó khăn cho con người trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. Vậy

nên, để có thể tồn tại, con người cần phải có những hiểu biết về giới tự nhiên, điều

chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với tự nhiên. Do đó, nếu chỉ nhấn mạnh đến

mặt chinh phục giới tự nhiên và coi đó là thước đo cho sự phát triển trình độ của lực

lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử thì con người sẽ ngày càng can thiệp thô bạo

vào giới tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình. Hơn nữa, “quan

niệm như vậy không chỉ hạn chế nội hàm của khái niệm lực lượng sản xuất mà còn

khó dung nạp với quan niệm mới về phát triển bền vững, phát triển liên tục” [90, tr.9].

Sự can thiệp thô bạo và sự tàn phá giới tự nhiên đã từng được Ph.Ăngghen cảnh báo

trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” như sau: “Mỗi lần ta đạt được một thắng lợi

là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta” [65, tr.654]. Bởi vậy, để bảo đảm cho sự

33

phát triển bền vững, cần tính đến việc phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn

lọc.

Như vậy, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người, là thước

đo trình độ cải biến giới tự nhiên của con người ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Sự

cải biến ấy có thể được hiểu là con người ngày càng thấu hiểu giới tự nhiên, chung

sống hòa bình với giới tự nhiên bởi thực tế cho thấy, chỉ có thể thấu hiểu và chung

sống hòa bình với tự nhiên, con người mới có thể được hưởng những lợi ích tốt nhất

mà giới tự nhiên mang lại. Do đó, lực lượng sản xuất trong điều kiện hiện nay không

chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người mà còn phải đảm bảo mối quan hệ

hài hòa giữa con người và giới tự nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững.

2.1.1.2. Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất

Trong một số tác phẩm như “Hệ tư tưởng Đức”, “Sự khốn cùng của triết học”,

“Lao động làm thuê và tư bản”, “Tiền công giá cả và lợi nhuận”, “Tư bản”..., các nhà

sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử đã bàn đến những yếu tố cấu thành của lực lượng

sản xuất. Theo C.Mác, để cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất, con

người cần phải có một sức mạnh tổng hợp. Trước hết, đó là sức mạnh thể chất và trí

tuệ - những yếu tố tạo nên khả năng lao động của con người: “Để chiếm hữu được

thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con

người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay, chân, đầu và hai bàn

tay” [66, tr.266]. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì quá trình sản xuất vật chất vẫn

chưa thể diễn ra. Ngoài bản thân chủ thể lao động, con người cần có những yếu tố

khác như cần “sử dụng những thuộc tính cơ học, lý học, hóa học của các vật để tùy

theo mục đích của mình, dùng những vật đó làm công cụ tác động vào các vật khác”

[66, tr.268]. Những vật đó được C.Mác gọi là “khí quan” giúp con người có khả năng

nối dài đôi bàn tay và làm cho quá trình tác động vào tự nhiên trở nên có hiệu quả hơn.

Theo quan điểm của C.Mác, có hai yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất

là tư liệu sản xuất và người lao động.

Tư liệu sản xuất bao gồm hai yếu tố cơ bản là tư liệu lao động và đối tượng lao

động. Điều này đã được chỉ rõ trong tác phẩm “Tư bản”: “Cả tư liệu lao động và đối

tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất” [66, tr.271].

34

Đối tượng lao động bao gồm những bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào

trong sản xuất. Đối tượng lao động bao gồm hai loại:

Một là, những đối tượng thuần túy tự nhiên. Đó là những đối tượng có sẵn trong

tự nhiên, do tự nhiên cung cấp. Nó được coi là đối tượng lao động khi con người tác

động vào nó để tạo ra của cải vật chất, chẳng hạn như đất đai được dùng trong sản xuất

nông nghiệp.

Hai là, những đối tượng lao động nhân tạo. Đó là những đối tượng không có

sẵn trong tự nhiên mà do con người tạo ra. Xuất phát của nó cũng là những sự vật vốn

có của tự nhiên nhưng đã được tích lũy một lượng lao động xã hội nhất định, được con

người cải tạo và tiếp tục đưa vào quá trình sản xuất tiếp theo, chẳng hạn như những

nguyên liệu mới được dùng trong xây dựng.

C.Mác đã phân biệt hai loại đối tượng này như sau: “Mọi nguyên liệu đều là đối

tượng lao động nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. Đối

tượng lao động chỉ trở thành nguyên liệu sau khi đã trải qua một số biến đổi nào đó do

lao động gây ra” [66, tr.268]. Quan điểm trên của C.Mác về đối tượng lao động đã cho

thấy mặc dù hầu hết các đối tượng lao động được sử dụng trong các ngành sản xuất

đều in dấu ấn của lao động - là những đối tượng lao động do con người tạo ta nhưng

tất cả chúng đều có nguồn gốc từ tự nhiên, xuất phát từ tự nhiên. Vì vậy, đây là một

trong những cơ sở quan trọng để khẳng định lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối

quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.

Sự phân biệt hai loại đối tượng lao động là đối tượng lao động thuần túy tự

nhiên và đối tượng lao động do con người tạo ra có ý nghĩa nhất định trong việc khẳng

định vai trò, vị trí của người lao động trong quá trình sản xuất vật chất. Người lao

động không chỉ tận dụng những đối tượng lao động sẵn có mà còn biết chế tạo ra

những đối tượng lao động mới để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình.

Ngoài đối tượng lao động, tư liệu sản xuất còn bao gồm tư liệu lao động. Tư

liệu lao động là những yếu tố mà con người dùng để tác động vào đối tượng lao động

nhằm tạo ra của cải vật chất. Điều này đã được C.Mác nhấn mạnh: “Nhờ những tư liệu

lao động, sự hoạt động của con người làm cho đối tượng lao động phải biến đổi theo

một mục đích đã định trước” [66, tr.271]. Nếu đối tượng lao động là cái thụ động, phụ

thuộc rất nhiều vào sự tác động của con người thì tư liệu lao động là một yếu tố động.

35

Tư liệu lao động bao gồm hai yếu tố là công cụ lao động và phương tiện lao

động. Công cụ lao động là những vật dùng làm trung gian để người lao động tác động

vào đối tượng lao động; phương tiện lao động là những điều kiện vật chất cần thiết của

quá trình lao động. Trong hai yếu tố trên, công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách

mạng nhất. Chúng là những vật được con người tạo ra và sử dụng để trực tiếp tác động

vào đối tượng lao động nhằm cải biến chúng, tạo ra của cải vật chất. Vì thế, C.Mác gọi

công cụ lao động chính là “hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất”. Chúng luôn

được cải tiến, đổi mới, có ý nghĩa quan trọng quyết định năng suất lao động và là

thước đo về trình độ cải tạo tự nhiên của con người. Do đó, theo C.Mác, công cụ lao

động chính là yếu tố đặc trưng cho mỗi thời đại sản xuất xã hội khác nhau: “Những

thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ

chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [66, tr.269].

Ngoài tư liệu sản xuất được coi là yếu tố cần thiết của quá trình sản xuất, C.Mác

khẳng định cần phải có người lao động. Theo C.Mác, yếu tố vật thể sẽ không có bất cứ

tác dụng nào nếu không có một lực lượng xã hội để tiến hành sản xuất vật chất. Tư liệu

sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có sự tác động của con người. Điều này đã

được C.Mác khẳng định như sau:

Giới tự nhiên không chế tạo ra bất kỳ máy móc nào, không chế tạo ra xe

hơi, đường sắt, điện báo, máy dệt... Chúng là sản phẩm lao động của con

người, đã biến thành vật chất tự nhiên của ý chí con người điều khiển tự

nhiên hoặc bộ máy hoạt động của con người trong giới tự nhiên. Chúng là

cơ quan đầu não của con người được sáng tạo bởi bàn tay con người; là lực

lượng tri thức được vật hóa [32, tr.408].

Như vậy, nếu không có con người biết chế tạo, sử dụng công cụ lao động, tác

động vào giới tự nhiên thì sẽ không có quá trình sản xuất vật chất.

Với tính cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất, người lao động

là những người có khả năng lao động, nghĩa là phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức

mạnh trí tuệ mà C.Mác đã gọi cụ thể là có “đầu óc” và “đôi bàn tay”. Ngoài ra, người

lao động cũng cần phải có kinh nghiệm, những kỹ năng, kỹ xảo trong lao động. C.Mác

viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực

thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được

36

người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [71, tr.215].

Như vậy, người lao động không phải là con người nói chung và không phải người nào

có sức mạnh thể chất và tinh thần cũng được coi là người lao động. Chỉ những người

nào dùng sức mạnh thể chất và tinh thần của mình tham gia vào quá trình sản xuất vật

chất nhằm tạo ra của cải mới được coi là người lao động với tư cách là yếu tố cấu

thành của lực lượng sản xuất.

C.Mác đã khẳng định hoạt động sản xuất chính là một dạng hoạt động chỉ có ở

con người, nó khác hẳn về chất so với hoạt động của con vật:

Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và

bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong phải làm cho một

số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến

trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong

bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu mình rồi. Cuối quá

trình lao động, người lao động thu được cái kết quả mà họ đã hình dung

ngay từ đầu quá trình ấy, tức là đã có trong ý niệm rồi [61, tr.260-261].

Khi tham gia vào quá trình sản xuất, trước hết người lao động đem nhập vào

các yếu tố của lực lượng sản xuất sức mạnh cơ bắp của mình. Tuy nhiên, nếu chỉ tiến

hành sản xuất bằng các khí quan vật chất thuần túy của cơ thể thì con người sẽ không

bao giờ tiến xa hơn động vật. Vì con người là một sinh vật xã hội nên ngoài sức mạnh

cơ bắp, khi tham gia vào quá trình sản xuất, con người còn có cả trí tuệ và toàn bộ hoạt

động tâm sinh lý và ý thức của họ nên lao động của họ trở nên khéo léo, linh hoạt,

uyển chuyển, năng động, sáng tạo hơn. Chính điều này làm cho các quá trình sản xuất

vật chất có thể giống nhau ở máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào nhưng những

sản phẩm đầu ra của những lao động khác nhau lại rất khác nhau. Điều đó cho thấy rõ

vai trò quyết định của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất.

Từ việc phân tích các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất

và người lao động cùng mối quan hệ của chúng với nhau, có thể rút ra một số khía

cạnh cơ bản của nội hàm khái niệm lực lượng sản xuất như sau:

Thứ nhất, lực lượng sản xuất là một thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố cấu

thành, trong đó yếu tố con người đóng vai trò quyết định quá trình sản xuất vật chất,

còn những yếu tố vật thể là điều kiện của quá trình sản xuất đó. Các yếu tố này tuy có

37

vai trò, vị trí khác nhau nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại

để tạo thành một chỉnh thể thống nhất.

Thứ hai, lực lượng sản xuất luôn có tính lịch sử, gắn liền với một phương thức

sản xuất nhất định, dựa trên sự kết hợp giữa các yếu tố cấu thành của nó. Nếu các yếu

tố như người lao động và những điều kiện vật chất không được kết hợp với nhau thì sẽ

không tạo ra những biến đổi trong sản xuất vật chất. Khi đó, sẽ không có lực lượng sản

xuất. Mỗi thời đại kinh tế khác nhau có những cách thức khác nhau trong việc sản xuất

vật chất. Lực lượng sản xuất cũng luôn có tính kế thừa và có sự phát triển không

ngừng. Trong quá trình sản xuất vật chất, người lao động có thể kế thừa những kỹ

năng, kinh nghiệm, tri thức sản xuất của những người đi trước; cũng có thể kế thừa

những công cụ lao động, tận dụng những đối tượng lao động, phương tiện lao động do

thế hệ trước tạo ra. Vì vậy, khi một người nào đó bắt tay vào quá trình sản xuất, họ đã

có sẵn một lực lượng sản xuất của xã hội, được thừa hưởng lực lượng sản xuất của thế

hệ đi trước để lại làm cơ sở cho việc duy trì và phát triển sản xuất. Trên cơ sở đó, trong

quá trình sản xuất tiếp theo, người lao động không ngừng tạo ra những lực lượng sản

xuất mới và đến lượt mình, những lực lượng sản xuất ấy lại trở thành cơ sở cho những

quá trình sản xuất tiếp theo.

Thứ ba, lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa người lao động

với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất. Nó không tồn tại bên ngoài hoạt

động của con người mà chính là sức mạnh được hình thành trong quá trình lao động

của con người và do con người trực tiếp điều khiển, chi phối. Vì vậy, lực lượng sản

xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong việc cải tạo giới tự nhiên. Thực

chất của lực lượng sản xuất là việc người lao động từng bước tác động vào tự nhiên để

tạo ra của cải vật chất nhằm phục vụ những nhu cầu của mình và phát triển kinh tế - xã

hội.

2.1.2. Lực lượng sản xuất hiện đại

2.1.2.1. Khái niệm lực lượng sản xuất hiện đại

Trong thời đại ngày nay, những thành tựu của khoa học - công nghệ đã góp

phần quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, góp phần làm hiện đại hóa

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên tất cả các yếu tố cấu thành của nó. Vì

vậy, khi nghiên cứu về lực lượng sản xuất, người ta rất chú ý phân tích đến tính hiện

38

đại của lực lượng sản xuất. Nhiều ý kiến đề cập đến phán đoán của C.Mác về vai trò

của khoa học với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp, coi đó là đặc trưng cơ bản của

lực lượng sản xuất hiện đại. Tuy nhiên, khi phân tích sự phát triển của lực lượng sản

xuất, mặc dù nhấn mạnh đến vai trò của khoa học nhưng C.Mác không xem nhẹ vai trò

của nhân tố người lao động. C.Mác vẫn coi người lao động là nhân tố quyết định trong

lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ điều này, trước hết cần phân tích quan điểm của C.Mác

về khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Theo quan điểm của C.Mác, sự phát triển của khoa học đóng vai trò to lớn đối

với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bằng những nghiên cứu một cách khoa học,

C.Mác đã đưa ra một phán đoán:

Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến

(wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành lực lượng sản

xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của quá

trình sống của xã hội đã phục tùng đến một mức độ nào sự kiểm soát của trí

tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào không những dưới hình

thức tri thức mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những

cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực [71, tr.372].

Theo luận điểm trên của C.Mác, tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định

như: nhà xưởng, máy móc được dùng trong sản xuất chuyển hóa đến một mức độ nhất

định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nghĩa là, tri thức khoa học được

ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất của con người và

được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. Do đó, nó trở thành lực lượng

sản xuất trực tiếp. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp

được C.Mác khẳng định như sau:

Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền

đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các

môn khoa học đều được phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc

hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một

nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản

xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết

định và kích thích [71, tr.367].

39

Luận điểm trên của C.Mác cho thấy khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất

với điều kiện là khoa học phải tồn tại dưới dạng lao động được vật hóa thành máy

móc. Điều đó cũng có nghĩa là khoa học tự bản thân nó không thể tạo ra bất kỳ tác

động nào mà phải thông qua sự vận dụng và hoạt động thực tiễn của con người thì

khoa học mới có thể phát huy được tác dụng của nó. Điều này đã được C.Mác và

Ph.Ăngghen khẳng định lại khi bàn đến tư tưởng, lý luận nói chung: “Vũ khí của sự

phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất

chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực

lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [59, tr.580] và “Tư tưởng căn

bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những

con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [60, tr.181]. Trong bài Điếu văn đọc tại lễ an

táng của C.Mác, khi đề cao vai trò của C.Mác trong việc phát hiện ra chủ nghĩa duy

vật lịch sử, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Đối với Mác, khoa học là một động lực lịch

sử, một lực lượng cách mạng” [64, tr.500]. Quan điểm trên thống nhất với nhận định

của C.Mác về vai trò của khoa học trong sự phát triển của sản xuất vật chất và của xã

hội.

Quan điểm của C.Mác về vai trò của khoa học và phán đoán khoa học trở thành

lực lượng sản xuất trực tiếp được hiểu ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, khoa học vốn là một hệ thống những tri thức được tích lũy trong quá

trình lịch sử, đã được con người vận dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, được vật

hóa trong các thao tác lao động và đem lại những hiệu quả nhất định. Như vậy, từ chỗ

là lực lượng sản xuất tiềm năng, khoa học đã từng bước tham gia trực tiếp vào quá

trình sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Thứ hai, khoa học có sự gắn kết chặt chẽ với kỹ thuật, trở thành cơ sở lý thuyết

cho các phương tiện kỹ thuật, công nghệ mà thông qua đó, khoa học được vật chất hóa

trong các yếu tố vật thể của lực lượng sản xuất. Sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học với

kỹ thuật, công nghệ là một xu thế tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại

bởi khoa học muốn phát triển nhanh chóng cần phải có sự trợ giúp của công nghệ hiện

đại; đồng thời, muốn sản xuất ra công nghệ mới đòi hỏi con người phải dựa trên những

phát minh khoa học mới. Điều đó cũng chứng tỏ khoa học gắn bó chặt chẽ và là yếu tố

40

quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày

nay.

Thứ ba, gần đây, thời gian để lý thuyết khoa học đi vào thực tiễn sản xuất ngày

càng được rút ngắn lại. Trong những thế kỷ trước, thời gian từ phòng thí nghiệm đến

thực tế sản xuất thường rất lâu nhưng từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nhờ sự phát triển

không ngừng của khoa học hiện đại, quá trình trên đã được rút ngắn rất nhiều. Dựa

trên việc phân tích sự phát triển của khoa học trong xã hội hiện đại, tác giả Vũ Đình

Cự và Trần Xuân Sầm trong cuốn sách: “Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức”

đã có thống kê cụ thể về thời gian đưa các phát minh vào ứng dụng như sau:

Bảng 1. Thời gian đưa các phát minh khoa học vào ứng dụng

Tên phát minh,

sáng chế

Năm phát minh Năm sản xuất Thời gian

Máy hơi nước 1680 1780 100 năm

Máy bay 1897 1911 14 năm

Tranzito 1948 1953 5 năm

Pin mặt trời 1953 1955 2 năm

Nguồn: [17, tr.175]

Từ bảng thống kê trên, có thể nhận thấy trong những năm gần đây, thời gian

đưa các phát minh từ những phòng thí nghiệm đến các nhà máy sản xuất được rút ngắn

đi rất nhiều. Nhờ đó mà khoa học thâm nhập ngày càng nhanh vào quá trình sản xuất.

Thứ tư, khoa học được thâm nhập vào tất cả các yếu tố cấu thành của lực lượng

sản xuất. Nhờ có khoa học, con người ngày càng tạo ra được nhiều đối tượng lao động

nhân tạo, khắc phục được hạn chế về thời gian sử dụng và một số đặc tính khác của

đối tượng lao động tự nhiên; những đối tượng nhân tạo này cũng thân thiện với môi

trường. Cũng nhờ có khoa học mà công cụ lao động ngày càng được cải tiến, sức lao

động của con người được giải phóng. Cũng nhờ đó mà trình độ, tay nghề, kỹ năng, kỹ

xảo của người lao động không ngừng được nâng cao. Do đó, trong rất nhiều nhà máy,

xí nghiệp, số lượng nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm

tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông

thường. Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về

số lượng và chất lượng. Khoa học cũng đã thâm nhập vào các lĩnh vực khác, không chỉ

41

có khoa học công nghệ - kỹ thuật (phần cứng) mà còn có những ngành khoa học quản

lý, khoa học nhân văn… (phần mềm). Nhờ có khoa học, hoạt động của các nhà lãnh

đạo, quản lý, điều hành sản xuất ngày càng có hiệu quả hơn, góp phần quan trọng

trong việc nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Như vậy,

khoa học không phải là một lực lượng sản xuất độc lập, đứng bên ngoài con người mà

khoa học chỉ có thể tạo ra những biến đổi trong quá trình sản xuất thông qua hoạt động

của con người. Khoa học đã được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất,

góp phần cải tiến công cụ lao động, tạo ra những đối tượng lao động mới, những

phương tiện sản xuất tiên tiến, góp phần nâng cao kỹ năng, tay nghề, trình độ cho

người lao động. Do đó, có thể nói trong thời đại ngày nay, khoa học đóng vai trò quan

trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại.

Như vậy, có thể hiểu khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp nghĩa là khoa học

tham gia vào quá trình sản xuất bằng việc tạo ra công nghệ, đề ra và xây dựng phương

pháp tổ chức và quản lý để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,

chất lượng và hiệu quả của sản xuất. Vì thế, khoa học chính là một trong những nhân

tố cấu thành không thể thiếu của lực lượng sản xuất hiện đại. Khi phân tích lực lượng

sản xuất của xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt đề cao vai trò của khoa học.

Nền đại công nghiệp ra đời là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra

trên thế giới, bắt đầu từ nước Anh. Theo Ph.Ăngghen, “sở dĩ có cuộc cách mạng đó là

do có sự phát minh ra máy hơi nước, các thứ máy kéo sợi, máy dệt và hàng loạt những

thiết bị máy móc khác. Những máy móc đó làm thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất

tồn tại từ trước đến nay” [62, tr.475]. C.Mác còn khẳng định rằng trình độ phát triển

của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ lịch sử có thể do nhiều yếu tố quyết định trong đó

có một yếu tố rất quan trọng là “mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng

của khoa học vào quá trình công nghệ” [70, tr.69]. Ngày nay, nhờ khoa học phát triển

không ngừng mà tri thức xã hội phổ biến trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, rút

ngắn đáng kể quá trình ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Nếu như trước

đây, cần đến hàng chục năm hoặc vài chục năm để ứng dụng những thành tựu khoa

học vào sản xuất thì ngày nay, quá trình đó ngày càng được rút ngắn, thậm chí, với sự

kết hợp của nhà khoa học và người sản xuất, người ta có thể vừa nghiên cứu, vừa ứng

dụng.

42

Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp phát triển do nhu cầu

khách quan mà đã xuất hiện các "công viên khoa học", "thành phố khoa học", các "khu

công nghệ cao"... nhằm tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi để khoa học, công nghệ

và cơ sở sản xuất gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên một "cơ thể" thống nhất. Chính ở

đây có thể coi phòng thí nghiệm cũng chính là nhà máy, công ty, xí nghiệp; nhà khoa

học đồng thời là người sản xuất kinh doanh. Tại đây, người ta có thể vừa nghiên cứu,

thí nghiệm đồng thời sản xuất đại trà ra các sản phẩm và được lưu thông ngay trên thị

trường; không phân biệt đâu là sản phẩm của phòng thí nghiệm, đâu là sản phẩm của

cơ sở sản xuất. Chính đây là nơi hội tụ đủ điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất để "nhất

thể hoá" quá trình nghiên cứu thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất.

Nhờ thế mà các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ, tạo ra sản phẩm,

thu hút lực lượng lao động có trình độ tri thức và công nghệ cao thông qua hoạt động

quản lý hiện đại mà tăng cường lực lượng sản xuất.

Không thể phủ nhận, những thành tựu to lớn của khoa học - công nghệ hiện đại

đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó

cũng khiến cho những phán đoán của C.Mác về việc khoa học trở thành lực lượng sản

xuất trực tiếp càng trở nên đúng đắn. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ

hiện đại gắn liền với sản phẩm điển hình là máy tính điện tử. Nhờ đó, công nghệ hiện

đại đã có bước nhảy vọt làm thay đổi về mọi mặt của sản xuất vật chất và đời sống xã

hội. Từ thời kỳ này, xuất hiện thuật ngữ công nghệ cao. Bên cạnh thuật ngữ công nghệ

cao, người ta còn dùng các thuật ngữ công nghệ mới; công nghệ tiên tiến hay công

nghệ hiện đại; trong đó, thuật ngữ công nghệ cao được sử dụng rộng rãi hơn cả.

Hệ thống công nghệ cao gồm 8 ngành công nghệ cao cơ bản là: Công nghệ thông

tin (hay còn gọi là công nghệ thông tin và truyền thông); Công nghệ sinh học; Công

nghệ vật liệu tiên tiến - công nghệ vật liệu nanô; Công nghệ năng lượng mới; Công nghệ

bảo vệ môi trường; Công nghệ biển và hải dương; Công nghệ hàng không - vũ trụ và

Công nghệ quản lý. Ngoài ra còn có hàng loạt các công nghệ chuyên ngành. Hệ thống

công nghệ cao chính là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới trong nền sản xuất hiện đại

[xem 17, tr.135].

Công nghệ cao ra đời dựa trên thành tựu khoa học mới nhất với hàm lượng tri

thức, hàm lượng khoa học và sáng tạo cao nhất đã xóa nhòa dần ranh giới giữa "khoa

43

học" và "công nghệ”, đã rút ngắn quá trình từ phát minh khoa học đến việc áp dụng

những phát minh đó vào trong sản xuất và đời sống. Chu trình "Khoa học - Công nghệ

- Sản xuất" được gắn kết chặt chẽ nên đã chuyển nhanh chóng tri thức khoa học vào

đời sống xã hội.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu lực lượng sản xuất hiện đại là khái niệm

dùng để chỉ sự kết hợp giữa người lao động ở trình độ cao với tư liệu sản xuất tiên

tiến, dựa trên hệ thống công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm có giá trị gia

tăng lớn, có tính bền vững và thân thiện với môi trường sinh thái.

2.1.2.2. Đặc điểm của lực lượng sản xuất hiện đại

Lực lượng sản xuất hiện đại có những đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học được thẩm thấu vào tất

cả các yếu tố cấu thành của nó, làm thay đổi đáng kể trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất so với những thời đại trước kia.

Nếu trước đây, C.Mác đã từng chỉ ra rằng tất cả công cụ lao động (như máy móc,

đường sắt, điện báo, máy sợi con rọc di động …) đều là sản phẩm lao động của con

người, do “bàn tay con người tạo ra” nên đều là “sức mạnh vật hoá của tri thức”…,

C.Mác “coi khoa học trước hết như cái đòn bẩy mạnh mẽ của lịch sử, như một lực lượng

cách mạng” [64, tr.497] thì đến trình độ phát triển của nền sản xuất hiện nay, tri thức

khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. So với lực lượng sản xuất trước đây,

lực lượng sản xuất hiện đại có một sự khác biệt lớn ở sự gắn kết các khâu, các giai đoạn

của quá trình sản xuất. Nếu như trước đây, các máy móc, nhà xưởng hầu như tách rời

với phòng thí nghiệm, với các cơ quan nghiên cứu khoa học thì ngày nay rất khó phân

biệt hệ thống thiết bị khoa học, các phòng thí nghiệm với hệ thống máy móc của dây

chuyền sản xuất và các xí nghiệp sản xuất công nghệ cao. Thậm chí, các máy móc khoa

học tối tân nhất cũng được đưa ngay vào ứng dụng thực tế gần như ở dạng nguyên mẫu.

Từ thời gian tạo ra sản phẩm ở phòng thí nghiệm đến thời gian tạo ra sản phẩm mang ra

thị trường được rút ngắn chưa từng thấy. Doanh nghiệp, trường đại học và viện nghiên

cứu tích hợp với nhau ngày càng chặt chẽ. Hơn nữa, ngày nay khoa học trong lực lượng

sản xuất hiện đại không chỉ là khoa học - công nghệ mà còn cả khoa học xã hội, những

tri thức về kinh tế học, khoa học quản lý, quy trình sản xuất, tài chính - ngân hàng,

quảng cáo - tiếp thị, tâm lý học, mỹ học, ngôn ngữ học … ngày càng trở thành yếu tố

44

quan trọng của lực lượng sản xuất hiện đại. Như vậy, khoa học đã không còn là những

tri thức đơn thuần mà được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất vật

chất. Đây là đặc điểm nổi bật dễ dàng nhận thấy của lực lượng sản xuất hiện đại.

C.Mác luôn nhấn mạnh đến tính động, thay đổi không ngừng của công cụ lao

động và coi đó là một trong những thước đo về trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất: “Các tư liệu lao động (công cụ lao động) không những là cái thước đo sự phát

triển sức lao động của con người mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội

trong đó lao động được tiến hành” [61, tr.269-270]. Sở dĩ công cụ lao động là biểu

hiện rõ nét nhất trình độ của lực lượng sản xuất vì bản thân các công cụ lao động là sự

kết tinh những tri thức của con người đạt được trong mỗi thời kỳ nhất định. Tính hiện

đại của công cụ lao động cũng có tính lịch sử - cụ thể. Trước đây, khi nói về vai trò

của công cụ lao động, C.Mác nhấn mạnh đến công cụ lao động cơ khí. Ngày nay, tính

hiện đại của công cụ lao động được thể hiện ở máy móc hiện đại với tính tự động hóa

rất cao.

Ngoài công cụ lao động, C.Mác và Ph.Ăngghen còn nhấn mạnh đến những điều

kiện vật chất cần thiết của quá trình lao động. Sự phát triển của nó cũng là biểu hiện

cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đặc

biệt nhấn mạnh đến vai trò của các phương tiện giao thông, đường sắt…bởi nó đóng

vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Ngày

nay, bên cạnh những phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt; các phương tiện

giao thông đường không, đường biển cũng góp phần quan trọng trong việc phát triển

lực lượng sản xuất hiện đại nhất là việc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc

đẩy quá trình toàn cầu hóa sản xuất giữa các quốc gia trên thế giới. Phương tiện lao

động hiện đại đã rút ngắn các quy trình sản xuất - trao đổi, giảm đáng kể chi phí sản

xuất.

Ngoài ra, trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học - công nghệ còn làm thay

xuất hiện những đối tượng lao động mới, có tính năng vượt trội. Ngoài các đối tượng

lao động cũ, trong lực lượng sản xuất hiện đại sẽ xuất hiện ngày càng nhiều những đối

tượng lao động nhân tạo có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao, ít gây tổn hại đến

môi trường cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của lực lượng sản xuất hiện

đại. Những đối tượng lao động nhân tạo được tạo ra bởi công nghệ vật liệu tiên tiến.

45

Trong nền sản xuất hiện đại, mỗi đơn vị sản phẩm có hàm lượng tri thức ngày càng tăng

lên, hàm lượng vật liệu và năng lượng đầu vào ngày càng giảm đi đáng kể. Do đó, tác

động của khí thải trong sản xuất năng lượng sẽ ít đi, làm giảm nguy cơ gây biến đổi khí

hậu toàn cầu. Hơn nữa, việc sử dụng công nghệ cao làm cho lượng chất thải của sản

xuất giảm mạnh, làm giảm tốc độ cạn kiệt tài nguyên, hơn nữa còn tiến tới triệt để tái

chế chất thải, hướng tới nền sản xuất ít hoặc không có chất thải. Việc áp dụng các thành

tựu mới của công nghệ sinh học sẽ hạn chế dùng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu hoá

chất, do đó làm giảm ô nhiễm nguồn nước và suy thoái đất nông nghiệp, bảo tồn được

đa dạng sinh học, giữ được cân bằng các hệ sinh thái … [xem 17, tr.153-154]. Có thể

nói, để phát triển lực lượng sản xuất trước đây, người lao động chủ yếu chỉ biết sử dụng,

tiêu dùng những đối tượng lao động sẵn có trong tự nhiên nên các đối tượng lao động

đều có xu hướng cạn kiệt dần nhưng lực lượng sản xuất hiện đại lại hướng đến sự tái tạo

khi tạo ra “giới tự nhiên thứ hai” thay thế dần cho “giới tự nhiên thứ nhất”. Bằng việc sử

dụng những vật liệu mới bằng công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ năng

lượng..., lực lượng sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm tiêu hao ngày càng ít

năng lượng tự nhiên, ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái, góp phần quan trọng trong

việc phát triển bền vững. Đây chính là điểm khác biệt nổi bật của lực lượng sản xuất

hiện đại so với lực lượng sản xuất trong những giai đoạn trước kia.

Thứ hai, trong lực lượng sản xuất hiện đại; trình độ, tri thức trở thành yếu tố

quan trọng nhất của người lao động.

C.Mác đã chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực thực tiễn của con

người” [67, tr.675]. Điều đó có nghĩa là lực lượng sản xuất chính là sản phẩm hoạt

động của con người ở mỗi thời kỳ lịch sử. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, trình

độ, năng lực, kỹ năng của người lao động không ngừng được thay đổi và nâng cao. Vì

thế, trình độ của người lao động ở xã hội sau bao giờ cũng cao hơn ở xã hội trước.

Điều đó đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Người vô sản thuộc về xã hội có trình độ

phát triển cao hơn, và bản thân họ cũng ở trình độ cao hơn người nô lệ” [62, tr.460].

Do đó, nếu trình độ của người lao động ở một chế độ xã hội kém thì chứng tỏ trình độ

của lực lượng sản xuất ở chế độ đó cũng thấp kém. Vì vậy, để nhận thức được đúng

đắn trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu phải căn cứ vào trình độ lao

động, sản xuất của người lao động.

46

Trình độ của người lao động hiện đại được thể hiện qua tri thức, chất xám của

họ kết tinh trong các sản phẩm lao động. Trong lực lượng sản xuất hiện đại, tri thức,

chất xám trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động. Không thể phủ nhận

được trong bất cứ thời đại nào, khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, người lao

động phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử

khác nhau, yêu cầu của những yếu tố này cũng khác nhau. Nếu trong giai đoạn sản xuất

thủ công, sức mạnh cơ bắp, kinh nghiệm của người lao động là yếu tố quan trọng nhất;

trong giai đoạn sản xuất cơ khí, động cơ, máy móc là yếu tố quyết định thì trong trong

nền sản xuất hiện đại, toàn bộ quá trình sản xuất biểu hiện ra không phải như một quá

trình phụ thuộc vào sức khỏe, thể chất hay kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động

mà với tư cách là sự ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ vào sản

xuất. Sự ứng dụng đó có được là do tri thức, trí tuệ của người lao động mang lại. Do

đó, việc tạo ra của cải vật chất ngày càng trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động

và số lượng lao động đã hao phí mà phụ thuộc vào trình độ ứng dụng khoa học - công

nghệ vào sản xuất. Sự thay đổi đó là xu thế khách quan, mang tính tiến bộ và ngày

càng mở rộng. Nó làm cho tài nguyên thiên nhiên mặc dù vẫn là những thứ không thể

thiếu trong nền sản xuất xã hội, nhưng không còn đóng vai trò quan trọng nhất. Mức

đóng góp của tri thức và kỹ thuật, công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng

lớn. Do vai trò và vị trí của tri thức trong nhân tố người lao động ngày càng cao nên cơ

cấu đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất có những thay đổi đáng kể. Nếu như trước

đây, người ta ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất như nhà xưởng, máy móc, trang

thiết bị kỹ thuật thì ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại, tri thức, trí tuệ, kỹ năng của

người lao động được đầu tư bởi những yếu tố đó được thẩm thấu vào tất cả các quy

trình sản xuất, vào việc ứng dụng, cải tiến công cụ lao động… Như vậy, trong lực lượng

sản xuất hiện đại, tuy nguồn vốn và lao động vẫn là những yếu tố cơ bản không thể thiếu

nhưng của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức

lao động cơ bắp. Tri thức, trí tuệ là yếu tố chiếm ưu thế nổi bật, đánh dấu sự khác biệt về

chất của người lao động hiện đại với người lao động trước kia. Chính sự gia tăng đáng

kể của yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao động đã làm thay đổi mạnh mẽ trình độ của

lực lượng sản xuất hiện đại. Vì vậy, việc gia tăng tri thức của người lao động càng

nhanh và có hiệu quả bao nhiêu thì lực lượng sản xuất càng phát triển bấy nhiêu.

47

Ngay từ thế kỷ XIX, C.Mác đã chỉ rõ:

Bồi dưỡng tất cả những phẩm chất của con người mang tính xã hội và sự sản

xuất ra con người, với tư cách là con người, có những phẩm chất và những

mối liên hệ và, do đó, có những nhu cầu hết sức phong phú, sự sản xuất ra

con người với tư cách là sản phẩm mang tính chất chính thể nhất và vạn năng

nhất của xã hội (bởi vì muốn sử dụng được nhiều vật dụng, con người phải

có năng lực sử dụng chúng nghĩa là con người phải trở thành con người hết

sức có văn hoá), đó cũng là những điều kiện của một nền sản xuất dựa trên tư

bản [70, tr.627-628].

Nhờ có tri thức của con người, lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ có mặt ở

trong các ngành sản xuất mới xuất hiện mà nó còn lan toả, cải tạo, đổi mới các ngành

sản xuất cũ của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu sẽ thay thế lực

lượng sản xuất cũ qua sự phủ định biện chứng.

Thứ ba, trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động xã hội

ngày càng hợp lý và khoa học hơn.

Thực tiễn cho thấy, sự thay đổi của công cụ lao động dẫn đến sự thay đổi của

của phân công lao động xã hội. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã chỉ

ra rằng khi lực lượng sản xuất ở trình độ thủ công thì nó mang tính cá nhân, còn khi đã

đạt đến trình độ cơ khí hóa, nó mang tính xã hội. Tính chất cá nhân của lực lượng sản

xuất theo Ph.Ăngghen tương ứng với những giai đoạn trước của xã hội tư bản với nền

sản xuất manh mún, mang tính tự cấp, tự túc. Ph.Ăngghen viết:

Trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là trong thời trung cổ, khắp nơi

đều có nền sản xuất nhỏ mà cơ sở của nó là chế độ sở hữu tư nhân của

những người lao động đối với những tư liệu sản xuất của họ; nông nghiệp

của những tiểu nông, tự do hay nông nô, thủ công nghiệp ở thành thị.

Những tư liệu lao động - đất đai, nông cụ, dụng cụ thủ công - là những tư

liệu lao động của cá nhân, do đó nhất định chúng phải nhỏ bé, tí hon, có

hạn. Cũng chính vì thế mà thường thường chúng thuộc về bản thân người

sản xuất [65, tr.373].

Như vậy, tư liệu sản xuất cá nhân gắn với nền sản xuất nhỏ, ứng với những giai

đoạn mà lực lượng sản xuất còn ở trình độ thủ công với quy mô nhỏ và phân tán. Theo

48

Ph.Ăngghen, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã biến những những tư

liệu sản xuất nhỏ, phân tán thành những tư liệu sản xuất hùng mạnh, biến những tư

liệu sản xuất do cá nhân thành những tư liệu sản xuất xã hội:

Thay cho guồng quay sợi, khung cửi dệt tay, búa thợ rèn là máy se sợi, máy

dệt, búa chạy bằng hơi nước, thay cho xưởng thợ cá thể là công xưởng đòi

hỏi lao động chung của hàng trăm, hàng nghìn công nhân. Cũng như tư liệu

sản xuất, bản thân sự sản xuất cũng biến đổi từ chỗ là một loạt động tác

phân tán thành một loạt động tác xã hội và sản phẩm cũng từ sản phẩm cá

nhân biến thành sản phẩm xã hội [65, tr.273].

Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,

phân công lao động đang thay đổi theo hướng tăng lao động trí óc, giảm lao động chân

tay, mà điển hình là sự xuất hiện một dạng lao động mới - lao động công nghệ

cao. Đây là loại lao động liên quan trực tiếp đến việc chế tạo, phát minh ra các loại

máy móc, phương tiện kỹ thuật có sử dụng công nghệ hiện đại. Đòi hỏi đối với lao

động công nghệ cao là có khả năng chế tạo, phát minh ra các loại máy móc, phương

tiện kỹ thuật hiện đại để áp dụng vào sản xuất vật chất, không ngừng nâng cao năng

suất lao động và tạo ra những sản phẩm đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững. Như

vậy, phân công lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại không còn phụ

thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề được đào tạo, nguồn lao động

dồi dào hay lượng tư bản lớn như trước đây, mà ngày càng dựa nhiều hơn vào lực

lượng lao động có năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, trong đó lao động

công nghệ cao là một loại lao động trực tiếp sản xuất ra tri thức.

Sự phân công lao động tất yếu dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hướng ngày càng hợp lý hơn trong nền sản xuất hiện đại. Nếu như trước đây, khi lực

lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, chưa phát triển, số lượng “công nhân cổ xanh” (là

những công nhân chủ yếu sử dụng sức lực cơ bắp và thực hiện một số thao tác vận hành

máy móc khi lao động) chiếm đa số thì ngày nay, khi lực lượng sản xuất sản xuất đang

ngày càng phát triển, số lượng nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản

xuất được gọi là “công nhân cổ trắng” chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn

“công nhân cổ xanh”. Những “công nhân cổ trắng” đó còn có tên gọi khác là công nhân

tri thức. Thông qua họ cùng với những công cụ sản xuất hiện đại (vật hóa của tri thức),

49

tri thức khoa học đã trực tiếp đi vào dòng sản xuất. Vì vậy, ở kết quả đầu ra của lực

lượng sản xuất trước đây; hàm lượng tri thức, chất xám của người lao động tương đối

thấp thì ngày nay, hàm lượng tri thức của người lao động kết tinh trong các sản phẩm

ngày một gia tăng. Do đó, sản phẩm của lực lượng sản xuất hiện đại thường có giá trị

gia tăng rất lớn.

Như vậy, sự phân công lao động xã hội trong lực lượng sản xuất hiện đại biến

đổi theo hướng tăng đội ngũ lao động chất xám. Vai trò của người điều hành sản xuất

ngày càng trở nên hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của các công ty, các tổ

chức kinh tế bởi lẽ với những đòi hỏi khắt khe về năng lực và kỹ năng lao động, nền

sản xuất hiện đại cũng sẽ loại trừ những cá nhân không đáp ứng được những yêu cầu

đó. Sự phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến xu hướng lao động biến đổi theo

hướng ngày càng mang tính xã hội hoá sâu sắc. Lao động được xã hội hoá thể hiện ở

việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa các đơn vị sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn

với sự phân công lao động vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hoá, vừa có khả năng

phi chuyên môn hoá một cách rộng rãi.

Sự biến đổi nội dung và tính chất của lao động trong lực lượng sản xuất hiện

đạicũng khiến cho lao động của con người đang tiến dần đến sự sáng tạo. Chúng ta

biết rằng, trong các nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,

lao động là một sự bắt buộc, bị thúc bách bởi những nhu cầu bên ngoài lao động và trở

thành cái mà C.Mác gọi là “lao động bị tha hoá”. Ngày nay, với sự thay đổi nội dung

và tính chất của lao động, chúng ta có thể hy vọng rằng, lao động không còn là một

thứ nô dịch, lao động đang dần trở về đúng với bản chất đích thực của nó, tức là lao

động đã thực sự trở thành một nhu cầu, là hoạt động tự do và sáng tạo của con người.

Khoa học - công nghệ đã và đang tạo tiền đề cho việc thay đổi vị trí, chức năng của

con người trong quá trình sản xuất. Với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhiều

chức năng mà con người trực tiếp đảm nhận trong chu trình sản xuất trước đây được

chuyển giao dần cho máy móc. Điều này đã giúp con người có thể giảm thiểu thời gian

cho các hoạt động vật chất và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tinh thần,

sáng tạo và hưởng thụ. Con người không còn bị cột chặt vào guồng máy sản xuất như

trong nền kinh tế công nghiệp, mà họ được tự do hơn trong các hoạt động của mình.

Khoa học - công nghệ đang góp phần tạo ra một hệ thống "khoa học - kỹ thuật - sản

50

xuất " thống nhất. Với hệ thống này, lao động ngày càng mang nhiều nội dung khoa

học, trí tuệ và sáng tạo.

Như vậy, tính chất của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất. Ở trình độ thủ công, lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân; khi lực

lượng sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hóa, máy móc ra đời, công nghiệp phát triển thì

nó mang tính xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì tính chất xã hội hóa ngày

càng cao.Do đó, trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động mang tính

xã hội, sự đa dạng hóa ngành nghề cùng với sự xuất hiện những ngành nghề mới đáp

ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

Thứ tư, lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu hoá.

Nhờ sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, nhất là mạng Internet, khoa học

nói riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu như tức thời (online)

với nhiều sự kiện khoa học trên toàn thế giới. Dòng tri thức, dòng công nghệ cùng với

dòng vốn được lưu thông với tốc độ chưa từng có trên toàn thế giới. Người ta có thể sản

xuất từng bộ phận cấu thành của một sản phẩm ở nhiều nơi trên thế giới, sau đó lắp ráp

và lưu thông ở các nước khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, đầu ra của lực

lượng sản xuất hiện đại không còn là sản phẩm riêng của lao động ở một quốc gia nữa

mà là sản phẩm mang tính toàn cầu. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một

yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Đây là đặc điểm

mới chỉ riêng có ở lực lượng sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn

trước kia chưa có hoặc mới ở trong một phạm vi hẹp.

Như vậy, lực lượng sản xuất hiện đại có năm đặc điểm cơ bản như: trong lực

lượng sản xuất hiện đại, khoa học được thẩm thấu vào tất cả các yếu tố cấu thành của

nó, làm thay đổi đáng kể trình độ phát triển của lực lượng sản xuất so với những thời đại

trước kia; trình độ, tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động; trong

lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động xã hội hợp lý và khoa học; có sự

thay đổi nhanh chóng công nghệ sản xuất làm xuất hiện ngày càng nhiều những đối

tượng lao động mới, góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa của lực lượng sản xuất

hiện đại. Những đặc điểm đó chính là thước đo đánh giá trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất trong thời đại ngày nay; đồng thời nó đánh dấu sự khác biệt về trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại so với những giai đoạn lịch sử trước đó.

51

2.2. VAI TRÒ VÀ NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG

TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI

2.2.1. Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, người lao động là yếu tố quan

trọng nhất, có ý nghĩa quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất bởi vì:

Thứ nhất, người lao động là một “động vật biết chế tạo công cụ” vì ngoài việc

sử dụng những công cụ lao động có sẵn, người lao động đã làm cho một vật “do tự

nhiên cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, người lao

động đã tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Trong quá

trình sản xuất vật chất, người lao động không chỉ tạo ra các công cụ lao động mà còn

luôn biết cải tạo công cụ lao động, làm cho khả năng chinh phục tự nhiên ngày càng

lớn hơn. Trong buổi bình minh của lịch sử, lực lượng sản xuất còn thấp kém, người lao

động dựa chủ yếu vào những đối tượng lao động do tự nhiên cung cấp. Khi nền sản

xuất ngày càng phát triển, nhận thức của người lao động ngày càng tăng lên, công cụ

lao động ngày càng được cải tiến, đối tượng lao động ngày càng được mở rộng. Điều

đó chứng tỏ người lao động là chủ thể sáng tạo và là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của

quá trình sản xuất. C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực

lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng” [62, tr.257]. Do đó,

nếu không có người lao động sẽ không thể có quá trình sản xuất vật chất.

Thứ hai, người lao động với tri thức và ý chí của mình biết sử dụng và kết hợp

các yếu tố cấu thành của tư liệu sản xuất như đối tượng lao động, công cụ lao động,

phương tiện lao động; hiện thực hóa vai trò và tác động của những yếu tố đó để tạo

nên sức mạnh tổng hợp nhằm cải tạo giới tự nhiên một cách có hiệu quả nhất. Hơn

nữa, tất cả những yếu tố trên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy được

vai trò của mình khi được được người lao động sử dụng trong quá trình cải biến giới tự

nhiên. Điều này đã được C.Mác khẳng định:

Một cái máy không dùng vào quá trình lao động là một cái máy vô ích.

Ngoài ra, nó còn bị hư hỏng do sức mạnh hủy hoại của sự trao đổi chất của

tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi không dùng để dệt hoặc đan thì

chỉ là một số bông bị hư hỏng. Lao động sống phải nắm lấy những vật đó,

52

cải tử hoàn sinh cho chúng, biến chúng từ những giá trị sử dụng thành chỉ

có tính chất khả năng thành những giá trị sử dụng và tác động [66, tr.271].

Thứ ba, trong khi các yếu tố của tư liệu sản xuất đều hữu hạn và thường bị hao

mòn nhanh theo thời gian thì người lao động, ngoài yếu tố thể lực bị hao mòn chậm thì

các kỹ năng lao động, trình độ tay nghề... luôn có khả năng tự đổi mới, tự nâng cao

thông qua quá trình tự học hỏi, bồi dưỡng, trau dồi tri thức không ngừng để có thể đáp

ứng được nhu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất. V.I. Lênin đã khẳng định:

“Trong khi vật chất có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kỹ năng của con người như

công nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi” [53, tr.30]. Khẳng định

trên đúng đắn vì suy cho cùng, hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối

tượng sẵn có trong tự nhiên) chỉ là sản phẩm lao động của con người, do con người tạo

ra và không ngừng đổi mới, cải tiến. Về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ

lao động chỉ là sự phản ánh trình độ của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên.

Trong lực lượng sản xuất hiện đại, công nghệ thông tin là một trong những

ngành đã thâm nhập vào hầu hết tất cả các lĩnh vực của sản xuất và trong đời sống của

con người. Máy tính điện tử được sử dụng phổ biến và đưa con người vào kỷ nguyên

tự động hóa tổng hợp, vào nền văn minh tin học. Ngoài ra, sự phát triển của ngành

công nghệ tự động hóa đã cho ra đời người máy. Người máy đã thay thế không chỉ

những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp mà còn có thể thay thế cho cả

những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Do đó, người ta thường dùng những

thuật ngữ như “trí tuệ nhân tạo”, “người máy thông minh” để chỉ sự phát triển không

ngừng của khoa học - công nghệ hiện đại và khả năng sáng tạo của con người trong

sản xuất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khoa học - công nghệ hiện đại trở

thành yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó người lao động trở

thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Về thực chất, khoa học - công

nghệ trước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ

của con người. Có thể nói, do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng tạo và quyết

định khuynh hướng, tốc độ phát triển của khoa học - công nghệ, đồng thời quyết định

việc sử dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất theo mục đích của mình. Thực tế cho

thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại với tư cách là phần vật chất trong các yếu tố cấu

thành của lực lượng sản xuất dù năng động và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản

53

phẩm do bàn tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của

con người. Do đó, dù trí tuệ nhân tạo dẫu được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng

chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình

mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Vì

vậy, khoa học - công nghệ là của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con

người và phải thông qua hoạt động của con người mới có thể được vật hóa vào quá

trình sản xuất. Nếu không xuất phát từ con người, được tiến hành bởi con người và

không hướng về mục đích phục vụ con người, không có quá trình sản xuất nào có đủ

lý do để tồn tại và phát triển. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của khoa

học - công nghệ hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự

phát triển của lực lượng sản xuất.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu người lao động trong lực lượng sản xuất

hiện đại là những người tham gia vào quá trình sản xuất vật chất với trình độ cao; có

khả năng kết hợp với công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm có hàm lượng trí

tuệ lớn, có tính bền vững và thân thiện với môi trường.

Có thể nhận thấy, bản thân khái niệm người lao động trong lực lượng sản xuất

cũng có sự biến đổi qua mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Nó gắn liền với sự biến đổi về

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như

trước đây, khi lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp, nói đến người lao động,

người ta chủ yếu chỉ nói tới những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất để

tạo ra của cải vật chất nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là

phát triển của khoa học - kỹ thuật rồi đến khoa học - công nghệ, không chỉ có những

người trực tiếp sản xuất mới là những người lao động. Ngoài họ ra, còn có một bộ

phận ngày càng tăng lên những người trực tiếp quản lý quá trình sản xuất; những kỹ

sư, những nhà công nghệ tạo ra những sản phẩm khoa học, công nghệ để ứng dụng vào

quá trình sản xuất. Điều này đã được C.Mác dự báo khi phân tích quá trình phát triển

của nền đại công nghiệp ở các nước tư bản phát triển: “Toàn bộ quá trình sản xuất biểu

hiện ra không phải như một quá trình phụ thuộc vào tài nghệ trực tiếp của người công

nhân mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học trong lĩnh vực công nghệ”, “do đó, đến

một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế công nhân. Lao động được biểu hiện

ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu là một

54

lao động mà trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá

trình sản xuất”; và “thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, người công

nhân lại đứng bên cạnh quá trình sản xuất ấy” [62, tr.357; 358; 370].

Sự phát triển của sản xuất xã hội luôn diễn ra sự phủ định. Trước kia, người sản

xuất và người quản lý là một, song cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất theo

hướng hiện đại, sự tách rời giữa người sản xuất và người quản lý ngày một gia tăng, sự

khác biệt phát triển thành sự đối lập gay gắttrong chế độ tư hữu. Giờ đây, chính sự

phát triển cao của lực lượng sản xuất ở trình độ trí tuệ hoá cao đã và đang diễn ra sự

xích lại gần nhau giữa người lao động sản xuất và nhà quản lý. Trong nền sản xuất

hiện đại, ở không ít trường hợp, người sản xuất và người quản lý hội tụ trong một cá

thể mà ở đó, mặt quản lý ngày càng có ưu thế hơn mặt lao động trong việc tạo ra sản

phẩm. Như vậy, trong lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động bao gồm cả người

tham gia sản xuất trực tiếp và cả những người tham gia vào quá trình quản lý quá trình

sản xuất ấy và những nhà khoa học - công nghệ tạo ra những sản phẩm nhằm hiện đại

hóa quá trình sản xuất ấy.

Trong bất cứ thời đại nào, người lao động cũng đóng vai trò quyết định sự phát

triển của lực lượng sản xuất nhưng sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế nằm ở chỗ,

trong thời đại nào, yếu tố nào thuộc về người lao động trong lực lượng sản xuất giữ vai

trò quan trọng hơn các yếu tố khác. Bởi vậy, sự thay đổi vai trò của các yếu tố cấu

thành nhân tố người lao động chính là tiêu chí đánh giá sự khác biệt của nhân tố người

lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại với lực lượng sản xuất trước kia.

Theo quan điểm của C.Mác, khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, người

lao động phải có cùng một lúc cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần.

Sức mạnh vật chất được thể hiện qua năng lực về thể chất như sức khỏe, thể

trạng của người lao động. Điều đó không chỉ được tạo nên bởi đời sống vật chất, điều

kiện làm việc của người lao động mà nó còn phụ thuộc vào đặc điểm về lứa tuổi, giới

tính của họ. Sức mạnh thể chất là điều kiện cần thiết của quá trình lao động mà con

người cần phải có để tác động vào giới tự nhiên bằng những công cụ lao động để tạo ra

của cải vật chất.

Sức mạnh tinh thần được thể hiện qua năng lực về trí tuệ, phẩm chất đạo đức

như kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong

55

công việc của người lao động... Đó là sức mạnh thể hiện tính loài của con người khác

với con vật khi tác động vào giới tự nhiên. Nhờ có sức mạnh về tinh thần, trí tuệ mà

hoạt động sản xuất vật chất của con người mới là hoạt động có mục đích, có ý thức.

Mặc dù cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần đều là những yếu tố thuộc

về người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nhưng vị trí, vai trò của những

yếu tố này không phải là cái nhất thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế khác

nhau, chúng luôn có sự thay đổi. Trong thời kỳ tiền sử, do nhận thức của con người

còn nhiều hạn chế nên để tạo ra của cải vật chất, người lao động chủ yếu sử dụng sức

mạnh cơ bắp để tác động vào giới tự nhiên. Tuy nhiên, khi công cụ lao động đã phát

triển, máy móc cơ khí ra đời, yếu tố kỹ năng, kinh nghiệm trong lao động lại giữ vai

trò chủ đạo. Nó giúp những người lao động vận hành các máy móc một các thành thạo,

thuần thục. Do năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng được nâng cao nên

phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và được kết tinh ở

sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm một tỷ trọng rất không đáng kể ở các thời kỳ

tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay, ở các nước phát triển, đối với một số loại sản

phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh

trong sản phẩm có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm. Đối với các loại sản

phẩm đó, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10% - 20% giá

trị sản phẩm. Vì thế, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm được tạo ra ngày càng lớn. Nó

không phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào là nguyên vật liệu để sản xuất ra nó mà phụ

thuộc vào hàm lượng tri thức, chất xám của người lao động kết tinh vào trong đó. Vì

vậy, trong nền sản xuất hiện đại, có những sản phẩm tuy trọng lượng nhỏ nhưng lại có

giá trị kinh tế lớn và tinh vi hơn gấp nhiều lần những sản phẩm có trọng lượng lớn

trong nền sản xuất trước kia. Điều này cũng đã được C.Mác khẳng định như sau:

Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít

phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí hơn là vào

sức mạnh của những tác nhân được khởi động trong thời gian lao động, và

bản thân những tác nhân ấy, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng)

tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản

xuất ra chúng, mà đúng ra chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa

56

học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng

khoa học ấy vào sản xuất [71, tr.368].

Sự thay đổi vị trí, vai trò của các yếu tố cấu thành nhân tố người lao động cũng

gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ lịch sử. Trong cuốn

sách “Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt

Nam”, các tác giả đã chỉ ra những điểm khác biệt cơ bản giữa kinh tế tri thức và kinh

tế công nghiệp theo những chỉ tiêu so sánh dưới đây:

Bảng 2. So sánh sự khác nhau giữa kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức

Chỉ tiêu Kinh tế công nghiệp Kinh tế tri thức

Yếu tố chủ yếu sản

xuất

Vốn, lao động Tri thức

Kỹ thuật, công nghệ

chủ đạo

Cơ khí hóa, điện khí hóa Tự động hóa, số hóa

Ngành kinh tế chủ

yếu

Công nghiệp chế biến Dịch vụ, thương mại,

xử lý thông tin

Cơ cấu xã hội chủ

yếu

Tư bản công nghiệp/công

nhân áo xanh

Nhiều tầng lớp: chủ

hãng, lao động trí thức,

nhà quản lý, tầng lớp

trung lưu

Yếu tố quyết định sức

cạnh tranh

Giá thành Sáng chế, chất lượng,

thời gian

Mô hình đổi mới Tuyến tính Đan xen, tương tác

Cơ sở hạ tầng quan

trọng nhất

Giao thông Mạng thông tin

Mục tiêu lao động Đủ việc làm Thu nhập cao

Yêu cầu giáo dục Kỹ năng chuyên ngành Đào tạo cơ bản, học tập

suốt đời

Việc làm Ổn định Có rủi ro, có cơ hội

Nguồn: [49, tr. 66-67].

Qua bảng so sánh trên, có thể nhận thấy, sự gia tăng của yếu tố tri thức trong

nhân tố người lao động và sự tăng lên không ngừng của lực lượng lao động trí óc như

57

đội ngũ công nhân tri thức, các nhà quản lý... trong số những người lao động nói

chung tham gia vào quá trình sản xuất cũng chính là dấu hiệu đặc trưng cho sự khác

biệt của nền kinh tế tri thức so với các nền kinh tế trước đó trong lịch sử. Sự gia tăng

này cũng chính là một trong những đặc điểm quan trọng của lực lượng sản xuất hiện

đại trong thời đại ngày nay.

2.2.2. Những yêu cầu cơ bản của người lao động trong lực lượng sản xuất

hiện đại

Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động với tính cách là nhân

tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất vật chất cần có những yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cần có thể lực tốt,

sức khỏe dồi dào, dẻo dai để có thể chịu áp lực cao, cường độ lao động lớn trong công

việc, thích ứng với sự thay đổi liên tục về nghề nghiệp và có khả năng thu thập, xử lý

thông tin một cách nhanh nhạy.

Trong bất cứ thời đại nào, sức khỏe, thể lực là yếu tố cần thiết để người lao

động tham gia vào quá trình sản xuất một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ

lịch sử khác nhau, yêu cầu về thể lực, sức khỏe của người lao động trong phát triển lực

lượng sản xuất lại không giống nhau. Thời kỳ lực lượng sản xuất chưa phát triển, sức

lực của người lao động được sử dụng trong việc dùng những công cụ lao động thô sơ

tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất. Thời kỳ sản xuất cơ khí, sức lực,

cơ bắp của con người được sử dụng trong việc vận hành các loại máy móc; khi đó,

máy móc đã thay thế cho sức lực của con người ở một số khâu của quá trình sản xuất.

Trong lực lượng sản xuất hiện đại, yếu tố thể lực của người lao động cũng rất quan

trọng nhưng nó không phải là thể lực cơ bắp thuần túy với khả năng lao động tay chân

dẻo dai mà là sức khỏe về tâm lực với khả năng tư duy, khả năng sáng tạo lớn. Khác

với người lao động trong lực lượng sản xuất truyền thống, yếu tố sức khỏe, thể lực của

người lao động không chỉ dùng để vận hành các loại máy móc, sử dụng các công cụ

lao động mà còn để có khả năng đáp ứng với những dây chuyền sản xuất cường độ

cao; có khả năng nhanh nhạy trong việc thu thập và xử lý thông tin; thích ứng với sự

thay đổi liên tục về nghề nghiệp, về môi trường làm việc cũng như những rủi ro không

thể tránh khỏi của nền sản xuất hiện đại trong quá trình hội nhập. Trong nền sản xuất

hiện đại, thể lực, sức khỏe của người lao động vẫn là yếu tố đầu vào quan trọng của

58

quá trình sản xuất vật chất vì người lao động hiện nay vẫn rất cần có một thể lực tốt,

sức khỏe dẻo dai để có thể tập trung làm việc liên tục trong một thời gian dài mà hoạt

động lao động vẫn đảm bảo tính chính xác và hiệu quả cao.

Để có được thể lực tốt, sức khỏe dồi dào, người lao động cần có một môi

trường sinh hoạt tốt với điều kiện vật chất đầy đủ, điều kiện lao động và làm việc an

toàn, có chế độ bảo hộ lao động để tránh những tai nạn, rủi ro đáng tiếc trong quá trình

lao động. Theo C. Mác, trước đây, trong xã hội tư bản, để tạo ra ngày càng nhiều giá

trị thặng dư, các nhà tư sản đã ra sức bóc lột sức lao động của người công nhân, không

chú ý đến quá trình tái sản xuất sức lao động nên đã đẩy những người công nhân vào

tình trạng bần cùng thường xuyên.

Ngay cả trong trạng thái xã hội có lợi nhất cho công nhân, hậu quả tất yếu

đối với công nhân cũng là tình trạng lao động cật lực, tình trạng bị chết yểu,

tình trạng bị hạ xuống đóng vai một cái máy, một nô lệ của tư bản mà sự

tích lũy của nó là cái nguy hiểm cho công nhân, tình trạng có một cuộc cạnh

tranh mới, tình trạng một bộ phận công nhân không tránh khỏi chết đói

hoặc đi ăn xin [69, tr.77].

Thứ hai, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cần có tri thức, trí tuệ

dồi dào; có khả năng lao động sáng tạo; chủ động và tích cực ứng dụng những thành

tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất.

Một trong những yêu cầu quan trọng nhất của người lao động trong lực lượng

sản xuất hiện đại là phải có tri thức, trí tuệ nổi trội hơn so với người lao động trong các

giai đoạn trước đây. Ngày nay, tri thức, trí tuệ của người lao động không phải chỉ biết

sử dụng các loại máy móc mà còn chế tạo ra các loại máy móc mới với công nghệ hiện

đại theo yêu cầu ngày càng cao của sản xuất; không ngừng thay đổi mẫu mã sản phẩm

đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường; tạo ra những đối tượng lao động mới có tính

bền vững và thân thiện với môi trường sinh thái; có khả năng ứng dụng những thành

tựu của khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất; nắm bắt và xử lý thông tin nhanh

nhạy... Những yếu tố thuộc về tri thức, trí tuệ của người lao động sẽ được kết tinh

trong các sản phẩm hàng hóa, làm cho các sản phẩm đó có hàm lượng trí tuệ cao, có

giá trị gia tăng lớn. Ngoài ra, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cũng

cần có khả năng thích ứng nhanh với những biến đổi của điều kiện sản xuất vật chất.

59

Thích ứng chính là sự biến đổi của chủ thể để phù hợp với điều kiện mới, môi trường

mới. Một trong những đặc trưng của nền sản xuất hiện đại là sự thay đổi liên tục, sự

tác động nhiều chiều của các yếu tố bên trong và bên ngoài đến sự phát triển lực lượng

sản xuất. Bởi vậy, để thực hiện quá trình sản xuất vật chất và thúc đẩy xã hội phát

triển, khả năng thích ứng chính là yêu cầu có tính thời đại, là một phẩm chất không thể

thiếu của người lao động hiện đại. Khả năng thích ứng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho

việc tiếp thu, chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; dễ dàng đáp ứng với những

yêu cầu, đòi hỏi ngày càng khắt khe của nghề nghiệp; không trở nên lạc hậu, bị động

với những biến đổi không ngừng của đời sống xã hội. Khả năng thích ứng sẽ giúp

người lao động bắt nhịp được với nền sản xuất hiện đại.

Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, tri thức của người lao động cần trở

thành yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất. Sự khác biệt của tri thức với tính cách là

yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với các yếu tố mang tính truyền thống (tài

nguyên thiên nhiên, vốn...) được thể hiện ở chỗ: Tri thức của người lao động không bị

hao mòn, bị tổn thất khi sử dụng; khi chuyển giao tri thức cho người khác, người sở

hữu tri thức không bị mất đi tri thức của mình; khi tri thức được chuyển giao cho nhiều

người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội với chi phí không đáng kể; tiếp nhận vốn

tri thức lại không dễ dàng như tiếp nhận vốn dưới dạng tiền tệ, việc chuyển giao, tiếp

nhận vốn tri thức phải thông qua giáo dục và đào tạo. Bởi vậy, trong nền sản xuất hiện

đại, giáo dục và đào tạo trở thành ngành sản xuất quan trọng nhất - sản xuất vốn tri

thức. Vì lẽ đó, người lao động không phải là người sản xuất đơn thuần mà là người lao

động tri thức. Họ thực sự được làm chủ quá trình sản xuất; hợp tác với nhau bình đẳng

trong quá trình sản xuất và kinh doanh, trong quá trình tạo ra và phân phối của cải vật

chất.

Thứ ba, ngoài thể lực và trí lực, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện

đại cần có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có đạo đức và văn hóa nghề nghiệp, có ý thức

trách nhiệm với việc bảo vệ môi trường sinh thái.

Trong nền sản xuất hiện đại, mỗi khâu, mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất đều

được gắn kết với nhau. Thậm chí, các trung tâm nghiên cứu, các nhà máy sản xuất và

các nhà quản lý có sự tích hợp, gắn bó với nhau một cách chặt chẽ nên người lao động

cần có ý thức tổ chức kỷ luật, lao động và sản xuất một cách có trách nhiệm. Ý thức

60

trách nhiệm của người lao động hiện đại không chỉ là tôn trọng giờ giấc, kỷ luật lao

động như trước kia mà còn thể hiện ở việc tôn trọng bản quyền sáng chế, đề cao chất

lượng sản phẩm, không vì lợi nhuận mà sản xuất ra những sản phẩm kém chất lượng,

gây tổn hại cho sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng... Hơn nữa, lực lượng sản

xuất hiện đại có tính bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái nên người lao động

phải có đạo đức nghề nghiệp trong việc tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường

sinh thái. Trước đây, vì mục tiêu phát triển nhanh, để tạo ra ngày càng nhiều của cải,

con người đã dùng chính những thành tựu của khoa học - công nghệ để tác động một

cách thô bạo vào giới tự nhiên, tàn phá nghiêm trọng môi trường sinh thái. Vì vậy, hầu

hết các nước đều phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái.

Do đó, ô nhiễm môi trường đã trở thành một trong những vấn đề mang tính toàn cầu.

Nhằm khắc phục tình trạng đó, các quốc gia trên thế giới đều hướng đến mục tiêu phát

triển bền vững, phát triển kinh tế xanh. Để đạt được mục tiêu đó, đạo đức nghề nghiệp,

ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường sinh thái của người lao động là một

trong những yếu tố quan trọng đóng vai trò quyết định. Có thể nói, chưa bao giờ, đạo

đức kinh doanh, đạo đức môi trường lại trở thành một trong những yêu cầu bức thiết

của người lao động như hiện nay.

Như vậy, trong thời đại ngày nay, người lao động không chỉ cần có thể lực tốt

mà cần có tri thức phong phú, có ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức nghề nghiệp, ý thức

bảo vệ môi trường sinh thái, có khả năng thích ứng tốt đối với những biến đổi nhanh

chóng của quá trình sản xuất vật chất. Đây là những yếu tố đảm bảo cho người lao

động phát triển một cách toàn diện cả về thể lực, trí tuệ, ý thức đáp ứng nhu cầu ngày

càng cao của nền sản xuất hiện đại. Đó cũng là những yêu cầu cơ bản của nhân tố

người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Trong các yêu cầu đó, yêu cầu về trí

tuệ, tri thức của người lao động được đặt lên hàng đầu để tạo nên những khác biệt về

chất của lực lượng sản xuất hiện đại so với lực lượng sản xuất trong những giai đoạn

trước đây.

2.3. NHỮNG YẾU TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN NGƯỜI LAO ĐỘNG

TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY

61

Có rất nhiều yếu tố tác động đến người lao động trong lực lượng sản xuất hiện

đại như : điều kiện địa lý tự nhiên, truyền thống văn hóa lịch sử, điều kiện phát triển

kinh tế - xã hội nhưng trong giới hạn phạm vi của luận án, tác giả chỉ tập trung phân

tích những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển của người lao động quá trình xây

dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, hay nói cách khác là những

yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển của người lao động hiện đại ở Việt Nam.

2.3.1. Tác động của giáo dục - đào tạo đến người lao động trong quá trình

xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

Một trong những đặc điểm nổi bật của lực lượng sản xuất hiện đại là yếu tố tri

thức, trí tuệ của người lao động được kết tinh ngày càng nhiều trong mỗi sản phẩm, tạo

ra giá trị gia tăng lớn và làm nên tính cạnh tranh của sản xuất vật chất. Do đó, giáo dục

- đào tạo trở thành một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển của

người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại.

Giáo dục - đào tạo có tác động trực tiếp đến việc nâng cao dân trí, trình độ, tay

nghề, kỹ năng cho người lao động. Để trở thành người lao động hiện đại thì không thể

không trải qua quá trình đào tạo. Giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói

riêng góp phần quan trọng trong việc trang bị cho người lao động những tri thức về

nghề nghiệp, kỹ năng trong lao động sản xuất, kỹ năng về khoa học - công nghệ để họ

có thể vận hành được những máy móc hiện đại. Ngoài những tri thức truyền thống đó,

giáo dục - đào tạo hiện nay còn trang bị cho người lao động những tri thức về thị

trường, hội nhập, về khả năng nắm bắt và xử lý thông tin, những tri thức về bản quyền

và sở hữu trí tuệ; về an toàn lao động, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái để tạo nên

những phẩm chất hiện đại của người lao động trong lực lượng sản xuất thời đại ngày

nay. Có thể nói, giáo dục - đào tạo hiện nay góp phần tái sản xuất ra năng lực hoạt

động thực tiễn cho người lao động hiện đại bằng cách gia tăng ngày càng nhiều yếu tố

tri thức, chất xám cho người lao động. Vì vậy, giáo dục - đào tạo cũng tạo ra những

thay đổi về chất của người lao động hiện đại so với trước đây.

Nếu như trước đây, giáo dục - đào tạo chỉ tạo ra yếu tố đầu vào của sản xuất vật

chất là người lao động với những tri thức, kỹ năng cơ bản thì ngày nay, do yêu cầu

ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại; người lao động không chỉ cần được đào tạo

ban đầu mà cần được đào tạo liên tục. Vì vậy, trong nền sản xuất hiện đại, ngoài việc

62

tiếp nhận quá trình đào tạo từ trường lớp, người lao động còn được đào tạo từ các

trường dạy nghề đặc thù của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đó là

quá trình đào tạo lại, đào tạo bổ sung dựa theo đặc điểm nghề nghiệp, công việc.

Trong nền sản xuất hiện đại, giáo dục - đào tạo có vai trò rất quan trọng, trở

thành một yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao trình độ, tay nghề, ý thức tổ chức

kỷ luật… của người lao động. Do đó, việc những người lao động đã qua đào tạo, nhất

là được đào tạo cơ bản, theo đúng nhu cầu của xã hội cũng chính là lợi thế cạnh tranh

của người lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Những người lao

động đã qua đào tạo đào tạo thường có nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao, có khả

năng nắm bắt và xử lý thông tin nhanh, có thể thích nghi với sự thay đổi liên tục của

thị trường lao động… Giáo dục - đào tạo cũng giúp cho người lao động khắc phục

được sự mất cân đối giữa công nghệ hiện đại với trình độ của người lao động còn hạn

chế. Do đó, có thể khẳng định giáo dục - đào tạo giúp người lao động tự nâng cao

được giá trị của mình, tự thích nghi được với những thay đổi của nền sản xuất hiện đại,

khiến mình không bị đứng ngoài quá trình sản xuất và tiếp tục trở thành chủ thể, đóng

vai trò quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất vật chất.

Như vậy, giáo dục - đào tạo có tác động trực tiếp đến việc thay đổi chất lượng

của người lao động hiện đại. Do đó, nó cũng tác động đến việc thay đổi cơ cấu của

người lao động trong lực lượng sản xuất. Nếu như trước đây, khi lực lượng phát triển ở

trình độ thấp, lao động cơ bắp, thủ công chiếm ưu thế. Trong một doanh nghiệp, tỷ lệ

công nhân cổ xanh chiếm đại đa số thì ngày nay, tỷ lệ công nhân cổ xanh đang giảm

dần, tỷ lệ công nhân cổ trắng - công nhân tri thức đang ngày một tăng lên. Đó là xu

hướng trí thức hóa công nhân đang diễn ra bắt nhịp với xu thế phát triển của thời đại.

Xu hướng này cũng phản ánh tính thời đại của người lao động trong lực lượng sản

xuất hiện nay.

2.3.2. Tác động của môi trường xã hội đến đến người lao động trong quá

trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

Người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ là chủ thể của quá

trình sản xuất vật chất mà còn là chủ thể của xã hội. Do đó, môi trường xã hội cũng có

tác động rất lớn đến sự phát triển của người lao động trong thời đại ngày nay.

63

Môi trường xã hội là điều kiện làm việc, sinh hoạt, ăn ở; là những chế độ, chính

sách tác động hàng ngày đến công việc, cuộc sống của người lao động, giúp họ có

thêm động lực, phát huy được tối đa năng lực thực tiễn của mình trong quá trình sản

xuất vật chất.

Nói đến môi trường xã hội tác động đến người lao động hiện đại, trước hết phải

nói đến điều kiện làm việc. Người lao động hiện đại, nhất là người công nhân cần

được làm việc trong môi trường hiện đại với công cụ lao động là những máy móc tiên

tiến, phương tiện lao động hiện đại, được sử dụng các đối tượng lao động được làm

bằng các vật liệu tiên tiến, ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái. Những tư liệu sản

xuất hiện đại sẽ giúp cho người lao động tạo ra được những sản phẩm có giá trị gia

tăng lớn, có tính năng vượt trội, kết tinh được nhiều tri thức, chất xám của người lao

động. Ngoài ra, điều kiện làm việc an toàn có tác động rất lớn đến việc bảo vệ sức

khỏe, thể lực cho người lao động hiện đại, hạn chế tối đa những tai nạn rủi ro, bệnh

nghề nghiệp cho người lao động. Điều đó tác động trực tiếp đến việc nâng cao thể lực,

sức khỏe cho người lao động, tạo ra tâm lý yên tâm trong sản xuất.

Các chính sách xã hội như chính sách tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội

hợp lý là một trong những động lực quan trọng trong việc phát triển người lao động

hiện đại. Tiền lương không chỉ đảm bảo cuộc sống vật chất của người lao động mà còn

tạo thành một động lực để giúp họ chủ động, tích cực làm việc. Tiền lương chính là lợi

ích thiết yếu của người lao động. Đây là một khâu nhạy cảm nhất vì xét đến cùng, mọi

hoạt động của con người, kể cả hoạt động sản xuất vật chất đều bắt nguồn từ lợi ích.

Ngoài ra, các chính sách về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chính sách hỗ trợ thất

nghiệp cho người lao động cũng phù hợp với xu thế thời đại vì trong nền sản xuất hiện

đại, người lao động cần được chăm sóc toàn diện, lâu dài, cần được hỗ trợ trước những

thay đổi liên tục về nghề nghiệp, công việc, môi trường làm việc. Ngoài ra, các chính

sách về nhà ở, về môi trường sinh hoạt văn hóa tinh thần cũng tác động rất lớn đến

người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Đó là những chính sách tạo động lực

quan trọng cho người lao động, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần, gia

tăng tinh thần trách nhiệm và sự gắn bó với công việc cho người lao động, hạn chế

những áp lực trong lao động.

64

Bên cạnh những chính sách hướng đến các nhu cầu trực tiếp, hàng ngày, các

chính sách về pháp luật cũng có tác động đáng kể đến người lao động hiện đại. Người

lao động hiện đại cần được trang bị những tri thức pháp luật cần thiết về lao động,

quyền hạn và trách nhiệm trong lao động, kỷ luật lao động; được các tổ chức về lao

động giúp đỡ, tạo điều kiện để họ nâng cao được ý thức chính trị, ý thức pháp luật của

mình; được bảo vệ khi bị mất quyền lợi; được giúp đỡ khi xảy ra tranh chấp về lao

động. Đó là những yếu tố góp phần tạo ra những lợi thế nổi bật của người lao động

hiện đại so với người lao động trước kia. Họ không chỉ cần được phát triển về thể lực,

sức khỏe mà còn được được phát triển về tri thức, ý thức pháp luật, tâm thế chính trị

của mình trong nền sản xuất hiện đại.

Một trong những đặc điểm của người lao động hiện đại là tính sáng tạo và khả

năng ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại để tạo ra những sản

phẩm có giá trị gia tăng lớn. Môi trường xã hội có tác động đáng kể đến việc phát huy

phẩm chất này của người lao động hiện đại. Nếu các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất

kinh doanh có những chính sách hợp lý, điều kiện làm việc và chính sách đãi ngộ tốt

sẽ kích thích tính sáng tạo, tinh thần tự giác của người lao động; khiến người lao động

được tự do sáng tạo theo khả năng của mình, biến quá trình lao động là quá trình sáng

tạo và cống hiến chứ không phải là quá trình lao động bị cưỡng bức, bị trói buộc bởi

những quy tắc cứng nhắc. Ở một số nước tiên tiến trên thế giới, để thu hút nguồn lao

động có trình độ tay nghề cao, họ đã có những chính sách đãi ngộ tốt, tạo điều kiện

thuận lợi để người lao động được làm việc, quan tâm đến cả lợi ích vật chất và tinh

thần cho người lao động. Do đó, các quốc gia đó không chỉ thu hút được nguồn lao

động tại chỗ mà còn thu hút được nguồn lao động tinh hoa từ nhiều nước khác, tạo nên

những lợi thế cạnh tranh về lao động. Đó chính là những nước có nền sản xuất hiện

đại, với lực lượng sản xuất ở trình độ cao.

2.3.3. Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đến

người lao động trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

Trong lịch sử nhân loại, đã từng có những cuộc cách mạng công nghiệp đóng

vai trò quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và phát triển

kinh tế - xã hội của con người nói chung.

65

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu

thế kỷ 19, đánh dấu bằng sự ra đời của động cơ hơi nước, sau đó là động cơ đốt trong,

mở rộng sử dụng nhiên liệu than đá, xây dựng các tuyến đường sắt, mở ra kỷ nguyên

sản xuất cơ khí và phát triển giao thương..

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 19 kéo dài

tới đầu thế kỷ 20, với sự ra đời của máy phát điện, đèn điện, động cơ điện, mở rộng

việc sử dụng điện năng trong sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào thập niên 1960. Đặc điểm

của cuộc cách mạng này là lần đầu tiên con người đã sáng tạo ra một loại máy có thể

thay thế một phần quan trọng của lao động trí óc - đó là máy tính (chứ không như các

loại máy cơ khí và điện khí chỉ thay thế lao động cơ bắp). Sự ra đời của chất bán dẫn

đã dẫn tới việc sáng chế ra các siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập

niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990).

Trên cơ sở phát triển mạnh mẽ và toàn diện cuộc cách mạng công nghiệp lần

thứ ba, đặc biệt là các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống

mạng trở nên ngày càng phổ biến, được tích hợp cả về tính năng lẫn phạm vi ứng

dụng, từ đó làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội cũng như nền kinh tế toàn cầu. Đó

cũng là cơ sở ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (FIR) vào giữa thập kỷ

thứ hai của thế kỷ 21.

So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng công

nghiệp thứ tư phát triển với tốc độ ở cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng. Hơn

nữa, nó đang làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu

của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý

và quản trị. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là khoa học - công

nghệ sẽ tạo ra năng suất vượt bậc, chất lượng và hiệu quả của sản phẩm, dịch vụ tăng;

chi phí thương mại giảm sẽ làm tăng doanh thu toàn cầu, thúc đẩy tốc độ và chất lượng

tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính tiện ích cho cuộc sống cá nhân.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến sản xuất, thúc

đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức - “thông minh”. Các thành tựu

mới của khoa học - công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân

phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị... Từ góc độ cơ cấu ngành kinh tế, cách

66

mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm “mờ dần” tính chất giữa công nghiệp, dịch vụ

và nông nghiệp. Từ góc độ tiêu dùng, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với

nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp hơn.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động to lớn về kinh tế, xã hội và

môi trường ở tất cả các cấp - toàn cầu, khu vực và từng quốc gia. Cuộc cách mạng này

cũng có tác động to lớn đến phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nói chung và phát

triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại nói riêng. Với việc tăng

cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong quá trình sản xuất, tài nguyên thiên

nhiên, lao động phổ thông ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất chuyển dịch dần sang

những nước phát triển, nhiều lao động có kỹ năng và chuyên môn cao. Kinh tế thế giới

bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực công nghệ và đổi mới sáng

tạo thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào truyền thống. Điều này

cũng đặt ra một thách thức nếu người lao động không có trình độ chuyên môn, không

có kỹ năng lao động, không có ý thức tự đổi mới, phát huy tinh thần tích cực, sáng tạo

thì tất yếu sẽ trở nên lạc hậu, không bắt nhịp được với yêu cầu của nền sản xuất hiện

đại. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại cũng đặt ra yêu cầu nếu các quốc

gia không ưu tiên phát triển nhân tố người lao động theo hướng chuyên sâu tất yếu sẽ

không thể tạo ra những lợi thế có tính cạnh tranh. Do đó, khoảng cách giữa những

người lao động giản đơn, phổ thông với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ

thuật ngày càng được nới rộng; khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia cũng khó có

thể được thu hẹp.

2.3.4. Tác động của hợp tác quốc tế đến người lao động trong quá trình xây

dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

Vì lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu nên người lao động trong lực

lượng sản xuất hiện đại cũng có tính toàn cầu. Do đó, hợp tác quốc tế về lao động trở

thành yếu tố tác động trực tiếp đến tính hiện đại của người lao động hiện nay.

Hợp tác quốc tế về lao động là quá trình liên kết, hợp tác trên phạm vi khu vực

và thế giới về việc đào tạo, sử dụng lao động. Đây là một xu hướng tất yếu trong quá

trình toàn cầu hóa hiện nay. Hợp tác quốc tế về lao động tác động đến việc tạo ra một

đội ngũ những người lao động trong lực lượng sản xuất có những phẩm chất tiên tiến,

có khả năng thích ứng với nhiều doanh nghiệp, nhiều cơ sở sản xuất ở các quốc gia

67

khác nhau. Có thể nói, hợp tác quốc tế về đào tạo lao động sẽ góp phần tạo ra những

thay đổi về chất cho lao động trong lực lượng sản xuất. Ngoài ra, hợp tác quốc tế trong

lĩnh vực kiểm định, đánh giá chất lượng theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế cũng thúc

đẩy việc nâng cao chất lượng lao động đã qua đào tạo theo tiêu chuẩn mới, có khả

năng thích nghi với những thị trường lao động khắt khe.

Ngoài hợp tác quốc tế về đào tạo lao động còn có hợp tác quốc tế về sử dụng

lao động. Trong lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động không bị bó hẹp trong

phạm vi một cơ sở sản xuất, của một quốc gia mà có thể tham gia vào thị trường lao

động ở nhiều nước trên thế giới. Với các nước có trình độ phát triển lực lượng sản xuất

còn thấp, việc hợp tác quốc tế về sử dụng lao động sẽ cho phép tiếp nhận, sử dụng đội

ngũ chuyên gia, những người lao động có trình độ cao, có khả năng sử dụng những

công nghệ tiên tiến để chuyển giao khoa học - công nghệ trong sản xuất. Từ đó, họ

được đội ngũ chuyên gia này đào tạo để nâng cao trình độ, tay nghề. Ngoài ra, chính

bản thân các nước này cũng có thể xuất khẩu sang các nước phát triển đội ngũ công

nhân lành nghề, đã qua đào tạo để tạo ra nguồn thu nhập cao, kim ngạch xuất khẩu lớn.

Xuất khẩu lao động sẽ tạo đà để các nước có thể hợp tác trong phát triển lực lượng sản

xuất, chuyển giao khoa học - công nghệ.

Ngoài ra, xuất khẩu lao động ra nước ngoài sẽ mở ra cơ hội sử dụng số lao động

có trình độ cao nhưng chưa được sử dụng hoặc chưa được sử dụng một cách hợp lý

vào việc sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ tại nước khác, mang lại thu nhập cho người

lao động. Có thể nói, xuất khẩu lao động cũng góp phần tác động đến sự phân công lao

động quốc tế một cách hợp lý hơn. Theo quy luật đào thải khắt khe của thị trường lao

động quốc tế, những lao động đã qua đào tạo, có trình độ cao có thêm nhiều cơ hội

việc làm, thu nhập cao; ngược lại, những lao động phổ thông, ở trình độ thấp dù được

xuất khẩu lao động cũng chỉ có thể làm những công việc giản đơn, có nhiều nguy cơ bị

sa thải. Do đó, những nước có nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra lực hút mạnh để thu hút

lao động ở các nước có nền kinh tế phát triển kém hơn.

Để có thể ra nước ngoài làm việc, người lao động phải có kỹ năng nghề nghiệp

và trình độ ngoại ngữ nhất định theo yêu cầu của chủ sử dụng. Tuy nhiên, không phải

tất cả mọi lao động muốn ra nước ngoài làm việc đều có thể đạt được các yêu cầu của

nhà tuyển dụng. Vì vậy, phải tổ chức huấn luyện và đào tạo lại cho người lao động. Để

68

thực hiện việc này có hiệu quả, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng

viên và các điều kiện khác đảm bảo cho việc đào tạo và đào tạo lại người lao động.

Điều này sẽ tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngắn hạn và thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại trong dài hạn. Trong ngắn hạn, di

chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài sẽ là một trong các con đường vừa giải

quyết việc làm cho số lao động thất nghiệp, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư

theo chiều sâu, nâng cao sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập. Trong dài hạn, trình độ

người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao nhờ được đào tạo và đào tạo

lại trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Chính người lao động đi làm việc ở nước

ngoài sẽ là động lực của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì đây là nguồn lao động

có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư theo chiều sâu.Bên cạnh đó, nếu

được làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến,

trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động cũng ngày càng được

nâng cao. Ngoài ra, hợp tác quốc tế về lao động cũng góp phần đưa nhanh các tiến bộ

kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất. Trong quá trình làm việc, người lao động trực

tiếp sử dụng sử dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại để sản xuất ra hàng hoá và dịch

vụ.Theo quy luật nhận thức, người lao động từ bắt chước để làm theo, sau đó là cải

tiến và cuối cùng là sáng tạo. Kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ixraen cho

thấy, những người lao động đi làm việc ở nước ngoài, sau khi về nước, họ mang những

tri thức đã tích luỹ được áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Chính lực

lượng lao động này đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình đưa công nghệ mới vào sản

xuất. Điều này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng sử dụng khoa học -

công nghệ tiên tiến.

Như vậy, có bốn yếu tố cơ bản tác động đến phát triển người lao động trong xây

dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay. Đó là giáo dục - đào tạo, cuộc

cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, môi trường xã hội phù hợp và công tác hợp

tác quốc tế về đào tạo và sử dụng lao động. Những yếu tố này ở những mức độ khác

nhau đã và đang tác động đến tính hiện đại của người lao động trong lực lượng sản

xuất hiện nay, góp phần gia tăng cả chất và lượng cho người lao động, đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao của nền sản xuất trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

69

Tiểu kết chương 2

Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công

nghệ; lực lượng sản xuất đã không ngừng phát triển theo hướng tiên tiến, hiện đại, góp

phần đáng kể vào sự phát triển nói chung của xã hội. Ngoài việc được đo bằng hệ

thống công nghệ mới, với những sản phẩm ít tiêu hao năng lượng, có tính bền vững và

thân thiện với môi trường; lực lượng sản xuất hiện đại còn được đánh dấu bằng những

sản phẩm có tính năng vượt trội, có hàm lượng trí tuệ và chất xám cao, có giá trị gia

tăng lớn. Trong bất kỳ thời đại nào, người lao động vẫn luôn là nhân tố quyết định sự

phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, những

yếu tố cấu thành của nhân tố người lao động lại có những vai trò, vị trí khác nhau. Nếu

như trước đây, khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, yếu tố thể lực, kỹ năng, kinh

nghiệm của người lao động chiếm vị trí ưu thế thì trong thời đại ngày nay, trước yêu

cầu của nền kinh tế tri thức, yếu tố trí tuệ, chất xám, đạo đức nghề nghiệp của người

lao động lại đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Vì

vậy, để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại không thể không chú ý đến nhân tố

người lao động với những yếu tố cấu thành của nó, đặc biệt là yếu tố tri thức, trí tuệ.

70

Chương 3

NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ

NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU

3.1. THỰC TRẠNG CỦA NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC

LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.1. Những thay đổi tích cực của nhân tố người lao động trong lực lượng

sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay

Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta luôn xác định con người là nhân tố quyết định

thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, để phát triển lực lượng sản xuất

theo hướng hiện đại nhằm tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật trong phát triển kinh

tế - xã hội, Đảng ta đã ưu tiên phát triển nhân tố con người nói chung là người lao

động nói riêng.

Ở Việt Nam, trong số những người lao động tham gia vào sản xuất vật chất,

những người công nhân làm việc trong các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh

doanh chiếm một số lượng rất lớn. Hiện nay, số lượng công nhân Việt Nam có xu

hướng tăng nhanh theo quy mô nền kinh tế.

Đến cuối năm 2015, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp và cơ sở

kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 12,8 triệu người, chiếm

14,2% dân số, 27,34% lực lượng lao động xã hội. Trong đó, có 1,84 triệu

công nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu trong các doanh

nghiệp ngoài nhà nước, 1,21 triệu trong các doanh nghiệp FDI, 5,29 triệu

trong các cơ sở kinh tế cá thể. So với năm 1995, tổng số công nhân tăng

2,14 lần, trong đó doanh nghiệp nhà nước tăng 1,03 lần, doanh nghiệp

ngoài nhà nước tăng 6,86 lần, doanh nghiệp FDI tăng 12,3 lần, các cơ sở

kinh tế cá thể tăng 1,63 lần [98, tr.151].

Hiện nay, “cả nước có hơn 12,3 triệu công nhân trực tiếp làm việc trong các

doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế” [98,

tr.174]. Do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nhân làm việc ở các khu vực

kinh tế quốc dân cũng có những thay đổi đáng kể. Công nhân thuộc các doanh nghiệp

71

nhà nước có xu hướng giảm do sự sắp xếp lại cơ cấu. Công nhân thuộc các thành phần

kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp có vốn FDI tăng mạnh do số lượng các

doanh nghiệp này tăng nhanh. Năm 1991, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước mới

có khoảng 1.230 doanh nghiệp, đến năm 1995 đã tăng lên 17.143 doanh nghiệp với

hơn 430 nghìn công nhân. Năm 2014, con số này lên tới 28.900 doanh nghiệp với

6.266,5 nghìn công nhân [98, tr.77]. Số lượng công nhân khu vực ngoài nhà nước chủ

yếu tăng ở các tỉnh, thành phố phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ như Thành phố

Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng. Trong khu vực

có vốn FDI, đến cuối năm 2009, có 1.919,6 nghìn người đang làm việc trong 6.546

doanh nghiệp. Tính đến hết năm 2013, “cả nước có 291 khu công nghiệp, khu chế xuất

được thành lập tại 58 tỉnh, thành phố, thu hút khoảng 1,9 triệu lao động” [96, tr.17].

Theo Tổng Cục Thống kê, hiện nay, công nhân làm việc trong các ngành công

nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các

ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ sở kinh tế cá thể, công nhân chủ yếu làm việc

trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 66,7%, 33,33% làm việc trong lĩnh

vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp [xem 96, tr.28].

Sau hơn 30 năm đổi mới, người lao động là công nhân ở Việt Nam đã có những

tiến bộ vượt bậc cả về sức khỏe, thể lực; trình độ, tay nghề; tinh thần lao động và khả

năng thích nghi với những thay đổi của thực tiễn xã hội. Điều đó góp phần quan trọng

trong sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay. Hiện nay, công

nhân Việt Nam đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60%

ngân sách nhà nước.

Thứ nhất, lao động trẻ, có sức khỏe; thể lực ngày càng được cải thiện, bước

đầu đáp ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện đại.

Tính đến năm 2014, Việt Nam có dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế

giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. “Trong số trên 90 triệu người,

cả nước có 69,3 triệu người từ 15 tuổi trở lên, trong đó có 53,7 triệu người tham gia

vào lực lượng lao động, chiếm 77,7% dân số, trong đó 70,2% tập trung ở nông thôn”

[99, tr.1]. Hàng năm ở nước ta, trung bình có khoảng hơn 1 triệu thanh niên bước vào

độ tuổi lao động.

72

Hiện nay, Việt Nam là nước có cơ cấu dân số trẻ, đang ở thời kỳ dân số vàng.

Trong số 53,7 triệu lao động, có đến 50,2% số người có độ tuổi từ 15 đến 39. Độ tuổi

bình quân của công nhân nước ta nhìn chung trẻ, “nhóm công nhân từ 18 đến 30 tuổi

chiếm 36,4%, đặc biệt trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài công nhân dưới 25

tuổi chiếm 43,4%, từ 26-35 tuổi chiếm 34,7%, từ 36-45 tuổi chiếm 14%” [99, tr.1].Với

nguồn lao động trẻ dồi dào, Việt Nam đang có lợi thế lớn để phát triển lực lượng sản

xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế

của đất nước. Lao động trẻ sẽ gặp nhiều thuận lợi trong việc tiếp thu những tiến bộ của

khoa học - công nghệ vào sản xuất; thích ứng và bắt nhịp nhanh với quá trình sản xuất

đòi hỏi công nghệ cao, áp lực lớn và thích ứng được việc thay đổi nghề nghiệp, điều

kiện làm việc theo yêu cầu của quá trình sản xuất.

Trong những năm qua, thể lực và tầm vóc của người Việt Nam đã được cải

thiện đáng kể. “Chiều cao trung bình nam giới khoảng 1m65 - 1m68, trong đó có

khoảng trên 10% nam giới cao trên 1m70; nữ cao trung bình từ 1m55 - 1m58, trong đó

có khoảng 10% cao trên 1m60. Cân nặng trung bình nam giới khoảng từ 56 - 60 kg; nữ

là 48 - 50 kg” [97, tr.2]. Trong những năm gần đây, những chỉ số đó ở thế hệ trẻ ở

nước ta đang có xu hướng ngày càng được nâng lên. Những cải thiện về thể lực và tầm

vóc đã góp phần đáng kể trong việc tăng cường sức bền, độ dẻo dai, sự linh hoạt,

nhanh nhẹn cho người lao động ở nước ta. Người lao động đã bước đầu đáp ứng được

những yêu cầu khắt khe của những dây chuyền sản xuất hiện đại, với cường độ cao,

công nghệ tiên tiến.

Sở dĩ có những thay đổi tích cực về thể lực, sức khỏe của người lao động Việt

Nam như vậy là vì sau hơn 30 năm đổi mới, đời sống vật chất của nhân dân đã không

ngừng được nâng cao. Hơn nữa, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho người lao động

cũng được quan tâm. Hiện nay, công nhân ở nhiều nhà máy, xí nghiệp, thuộc các thành

phần kinh tế ở các địa phương trong cả nước đã có thay đổi cơ bản về mức sống, được

mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, được khám sức khỏe định kỳ. Điều đó làm cho

sức khỏe, thể lực của người lao động được cải thiện đáng kể. Đây là một trong những

tiền đề quan trọng để người lao động nước ta có thể tham gia ngày càng nhiều và có

hiệu quả hơn vào quá trình sản xuất vật chất hiện đại với những yêu cầu, đòi hỏi ngày

càng cao.

73

Thứ hai, tri thức, trí tuệ, kĩ năng của người lao động không ngừng được nâng

lên đáp ứng bước đầu được nhu cầu của nền sản xuất hiện đại.

Không chỉ có sức khỏe, thể lực được cải thiện đáng kể; trong những năm qua,

tri thức và trí tuệ của người lao động nước ta cũng không ngừng tăng lên. Điều đó thể

hiện rõ nét nhất ở số lượng lao động đã qua đào tạo.

Theo số liệu thống kê năm 2014:

Trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động

của nước ta, có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm 18,6% trong tổng số

lao động trên cả nước, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỉ lệ này ở

khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với

nam và 15,4% đối với nữ [99, tr.17].

Trong những năm gần đây, tỷ lệ lao động có trình độ đại học của lực lượng lao

động trực tiếp không ngừng tăng lên. Năm 2012, trung bình cả nước có 4,7%, năm

2013 là 5,8%, đến năm 2014, tỷ lệ này là 6,2% [xem 99, tr.18]. Sự tăng lên không

ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã bước đầu đáp ứng được nhu

cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc ứng dụng những thành tựu của

khoa học - công nghệ vào việc cải tạo nền sản xuất theo hướng hiện đại.

Trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh các ngành công nghiệp,

tỉ lệ lao động đã qua đào tạo, lao động có tay nghề tăng lên nhanh chóng. Để bắt nhịp

với những dây chuyền sản xuất hiện đại và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản

xuất, công tác đào nghề cho lao động công nghiệp rất được chú trọng. Trong những

năm gần đây, để hạn chế tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, nhiều trường dạy nghề cho

công nhân đã được mở rộng và phát triển. Các trường dạy nghề truyền thống trước đây

như trường Đại học Công nghiệp Hà Nôi, Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí

Minh, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Đà Nẵng... đã

được đầu tư những trang thiết bị hiện đại để tạo điều kiện cho sinh viên có thể thực

hành trên những dây chuyền máy móc tiên tiến. Các trường Đại học dạy nghề này

cũng thường xuyên liên kết với các nước có nền công nghiệp phát triển trong khu vực

như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản vừa để tận dụng đội ngũ chuyên gia của nước

ngoài, vừa để tạo đầu ra cho nguồn lao động đã qua đào tạo. Nhiều trường trung cấp

dạy nghề cũng được mở ra đáp ứng nhu cầu học nghề ngày càng cao của người lao

74

động. Ngoài các trường dạy nghề chung, hầu hết các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế

lớn đều mở các trường dạy nghề để nâng cao chất lượng tay nghề cho người lao động.

Hiện nay, cả nước có gần 200 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp. Cách

thức tổ chức giáo dục nghề nghiệp cũng được đổi mới và ngày càng phù hợp hơn. Đó

là việc giáo dục nghề nghiệp theo nhu cầu và xu hướng của xã hội, giảm tải thời gian

học tập lý thuyết để học viên có nhiều điều kiện thực hành. Các hình thức đào tạo nghề

cũng thường xuyên thay đổi. Các cơ sở dạy nghề trong các doanh nghiệp không chỉ

đào tạo nghề cho lao động mới tuyển mà còn tổ chức đào tạo lại hoặc bồi dưỡng tay

nghề cho người lao động. Nhờ đó, chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo nghề

cho lao động trong các ngành công nghiệp ở nước ta được cải thiện đáng kể nên tay

nghề của người lao động đã không ngừng được nâng cao. Khoảng 70% học sinh, sinh

viên học nghề tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Ở một

số nghề và một số cơ sở dạy nghề, tỉ lệ này đạt trên 90%, thậm chí có trường, học viên

tốt nghiệp đã doanh nghiệp đặt hàng trước.

Do xu hướng công nghiệp hóa đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, trong những

năm gần đây, ở Việt Nam đã và đang hình thành các khu công nghiệp lớn. Ở miền Bắc

là khu công nghiệp Bắc Thăng Long - Nội Bài, khu công nghiệp Bắc Ninh, Hải

Dương, Hà Nam...; ở miền Nam là các khu công nghiệp Bình Dương, Đồng Nai, Sài

Gòn, Vũng Tàu... Những khu công nghiệp đó đang chiếm một số lượng lớn công nhân.

Để có thể dễ dàng tiếp cận những dây chuyền sản xuất hiện đại, hầu hết các công nhân

đều được đào tạo cơ bản về nghề nghiệp, chuyên môn, thường xuyên được kiểm tra

định kỳ để sát hạch tay nghề. Qua điều tra thị trường lao động của Tổng Cục dạy nghề,

tại gần 3000 doanh nghiệp ở nước ta, đa số lao động qua đào tạo đang làm việc trong

các doanh nghiệp đã được sử dụng có hiệu quả.

Hiện nay, trong các ngành công nghệ cao, số lượng công nhân kỹ thuật, công

nhân có tay nghề, đặc biệt là đội ngũ kỹ sư đang ngày một tăng lên. Do đó, trong các

ngành này, xu hướng trí thức hóa công nhân ngày càng rõ rệt. Sự gia tăng đội ngũ lao

động lành nghề trong các ngành này đã góp phần to lớn trong việc chuyển đổi tính chất

của nền sản xuất, từ công nghiệp truyền thống giản đơn, thủ công sang công nghiệp

hiện đại, tự động hóa và tin học hóa. Sự tăng lên nhanh chóng của đội ngũ công nhân

có tri thức cũng đã góp phần chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp ở nước ta theo hướng

75

hiện đại, phù hợp với xu hướng của các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhiều

ngành nghề trước đây được coi là “then chốt” như cơ khí, xây dựng... thì ngày nay, với

phát triển của khoa học - công nghệ và sự gia tăng trình độ, tri thức của người lao

động, có nhiều công nhân nước ta làm việc trong những ngành nghề mới như điện tử

viễn thông, dầu khí, công nghệ thông tin... Cũng từ đó, trong thời gian qua, có nhiều

công nhân có tay nghề ở nước ta đã tham gia xuất khẩu lao động sang các nước có nền

công nghiệp hiện đại như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức... Đây là sự thay đổi

mang tính bản chất, thể hiện tính chất và trình độ hiện đại của người lao động là công

nhân nước ta trong lực lượng sản xuất. Mặc dù còn chiếm tỉ lệ chưa cao nhưng đội ngũ

công nhân có trình độ, lành nghề này là những người trực tiếp sử dụng những tư liệu

sản xuất hiện đại để từng bước góp phần thay đổi trình độ của lực lượng sản xuất nước

ta trong thời gian qua.

Biểu hiện rõ nhất của những thay đổi tích cực về trình độ, tay nghề của nguồn

lao động trong công nghiệp là xu hướng trí thức hoá công nhân đang diễn ra, nhất là ở

lớp công nhân trẻ. Theo kết quả điều tra, hiện nay, công nhân trong các doanh nghiệp

có trình độ văn hoá khá cao: 100% biết chữ, 80% có trình độ trung học cơ sở và trung

học phổ thông; lao động ở nước ta có 37% qua đào tạo, trong đó 25% đã qua đào tạo

nghề [xem 99, tr.67]. Nhờ đó, trình độ tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân

ngày càng được nâng cao. Trong thời gian tới, xu hướng trí thức hoá công nhân sẽ

ngày càng rõ nét. Dự báo, đội ngũ công nhân trí thức sẽ chiếm khoảng 7% - 10% trong

tổng số lao động kỹ thuật, tập trung ở một số ngành kinh tế mũi nhọn, trong các doanh

nghiệp hiện đại có công nghệ cao và tự động hoá, các khu công nghệ cao... Đây là dấu

hiệu quan trọng phản ánh tính hiện đại của đội ngũ công nhân nước ta nói riêng và

người lao động trong lực lượng sản xuất nói chung. Đây cũng là bộ phận người lao

động tiên tiến, vừa có khả năng tạo ra những đối tượng lao động mới, công cụ lao

động hiện đại; vừa có khả năng chuyển giao những máy móc, công nghệ tiến tiến cho

những người lao động khác để ứng dụng vào sản xuất, từng bước góp phần thay đổi

tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta.

Nhờ sự gia tăng đáng kể của đội ngũ công nhân trí thức, trong những năm qua,

Việt Nam luôn là nước nằm trong tốp đầu các nước đạt thành tích cao trong cuộc thi

tay nghề ASEAN. Trong kỳ thi tay nghề ASEAN lần thứ 11 diễn ra từ ngày 24 đến

76

26/9/2016 tại Malaysia, đoàn Việt Nam giành vị trí thứ 3 trên tổng số 10 nước tham

gia, vượt qua cả hai nước Thái Lan và Singapore vốn là những quốc gia luôn đạt được

nhiều thành tích cao trong cuộc thi tay nghề các năm trước. Điều đó cũng đánh dấu

những bước chuyển biến tích cực về trình độ, tay nghề của người lao động nước ta, tạo

nên những chuyển biến theo hướng ngày càng hợp lý hơn với sự gia tăng không ngừng

đội ngũ công nhân trí thức trong tổng số những công nhân trong các doanh nghiệp và

các cơ sở sản xuất, kinh doanh các ngành công nghiệp ở nước ta.

Cùng với sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ hiện đại, áp dụng kỹ thuật và

công nghệ cao, tác phong công nghiệp, văn hoá nghề, kỷ cương, kỷ luật lao động, khả

năng thích nghi trong môi trường đa văn hoá, đa sắc tộc... của công nhân sẽ ngày càng

tăng; ý thức hệ giai cấp, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần yêu nước,...

càng được củng cố và tăng cường. Điều đó cũng phản ánh xu hướng tất yếu là công

nhân nước ta đang từng bước đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại và hội

nhập quốc tế.

Trong nhiều ngành công nghiệp, nhất là những ngành công nghiệp mũi nhọn

như dầu khí, điện tử, công nghệ vật liệu mới... số lượng lao động có trình độ chiếm tỷ

lệ khá cao. Có nhiều người lao động là kỹ sư, công nhân lành nghề được đào tạo cơ

bản về chuyên môn, nghiệp vụ. Họ có thể sử dụng những dây chuyền sản xuất hiện

đại, tiên tiến bậc nhất trên thế giới. Do đó, năng suất lao động trong các ngành này so

với các ngành khác có sự chênh lệch rất lớn. Hàm lượng chất xám, trí tuệ trong các sản

phẩm của các ngành công nghiệp này chiếm tỉ lệ cao.

Như vậy, trong những năm qua, chất lượng của người lao động nước ta trong

lĩnh vực công nghiệp ngày càng được cải thiện. Yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao

động đã từng bước được tăng lên; hàm lượng tri thức, chất xám trong mỗi sản phẩm

ngày một nhiều hơn. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo, nhất là lao động trong các ngành

công nghiệp không ngừng tăng lên, bước đầu đáp ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện

đại.

Thứ ba, sự cần cù, sáng tạo; tính linh hoạt, tháo vát; khả năng thích ứng

nhanh; tích cực ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất cũng là những ưu điểm nổi

bật của người lao động Việt Nam trong lực lượng sản xuất hiện đại.

77

Một trong những ưu điểm nổi bật của con người Việt Nam trong lịch sử là sự

cần cù, linh hoạt, sáng tạo. Nhờ đó, người lao động có năng lực trong việc sản xuất

những mặt hàng đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ, có độ tinh xảo cao. Trong thời kỳ bao cấp,

nhiều ngành sản xuấttruyền thống nổi tiếng của nước ta, nhất là các ngành thủ công

mỹ nghệ rơi vào tình trạng trì trệ, có nguy cơ bị mai một, thất truyền nhưng ngày nay,

do thay đổi cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh và ứng dụng những thành tựu của

khoa học, công nghệ vào sản xuất, các ngành sản xuất truyền thống, nhất là dệt, thêu

ren, mộc, khảm, thủ công mỹ nghệ đã và đang có những khởi sắc đáng kể. Vì vậy,

trong những năm qua, các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở

Việt Nam đã thu hút nhiều lao động tại chỗ, giải quyết việc làm cho lao động ở nông

thôn, góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động ngày càng hợp lý

hơn với xu hướng giảm dần lao động nông nghiệp, tăng dần lao động trong các ngành

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Các sản phẩm do người lao động làm ra cũng được

kết tinh ngày càng nhiều tri thức, chất xám, sự khéo léo, độ tinh xảo của người lao

động nên nó thường có giá trị gia tăng lớn, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà

còn xuất khẩu sang các nước khác trên thế giới.

Cũng với tính cần cù, chăm chỉ, ngày nay số lượng lao động Việt Nam làm việc

trong các ngành công nghiệp lắp ráp công nghệ cao cũng chiếm tỉ lệ khá lớn. Do quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm gần đây, ở Việt Nam có rất

nhiều các công ty, nhà máy lớn được xây dựng do các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như

Sam Sung, Toyota, Deawoo... Các chủ đầu tư của những công ty đó đã nhìn thấy ưu

điểm nổi bật của người lao động nước ta là sự cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó, cơ

cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực, giảm dần tỉ lệ

lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ lao động công nghiệp, góp phần giải quyết

tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần cho nhân dân. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động của Việt Nam hiện nay cũng theo

xu hướng của các nước có nền công nghiệp phát triển, khác hẳn với cơ cấu lao động

nghiêng hẳn về sản xuất nông nghiệp như trước đây.

Người lao động Việt Nam còn có sự linh hoạt, tính năng động, tháo vát. Điều

đó đã góp phần đáng kể trong việc tạo ra khả năng thích ứng cho người lao động. Nếu

như trước đây, do ảnh hưởng bởi cơ chế bao cấp, người lao động Việt Nam có phần

78

thụ động, ỷ lại, thì ngày nay, người lao động đã thích ứng trước những thay đổi của

nền sản xuất hiện đại. Nhiều công nhân đã biết tự học hỏi để có thể bắt nhịp được

những dây chuyền sản xuất hiện đại, thích ứng với đòi hỏi ngày càng cao về tính

chuyên nghiệp, tính đồng bộ và áp lực của nền sản xuất.

Sự nhanh nhạy, linh hoạt của người lao động còn được thể hiện ở khả năng tự

thay đổi để đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp, công việc. Hiện nay, khá nhiều người lao

động trong lĩnh vực công nghiệp tự dành thời gian để học tập tin học, ngoại ngữ để có

thể sử dụng được các loại máy móc hiện đại, tìm kiếm cơ hội xuất khẩu lao động sang

các nước khác như Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... Việc gia tăng xuất

khẩu lao động đã qua đào tạo cũng góp phần làm cho lực lượng sản xuất của Việt Nam

có tính khu vực và tính toàn cầu.

Như vậy, có thể thấy, trong những năm qua, người lao động trong lực lượng sản

xuất của nước ta có những cải thiện đáng kể, cả về yếu tố thể lực, sức khỏe; cả về yếu

tố trí tuệ, tri thức; cả về yếu tố tâm lực như sự cần cù, tháo vát, linh hoạt, khả năng

thích ứng... Những ưu điểm đó làm cho người lao động nước ta có những biến đổi

đáng kể cả về số lượng và chất lượng, cả về thể lực, trí lực và tâm lực, từng bước đáp

ứng được yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại, góp phần đáng kể trong

việc tăng năng suất lao động, hiện đại hóa nền sản xuất, thay đổi cơ cấu nghề nghiệp,

tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

3.1.2. Một số hạn chế của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất

hiện đại ở Việt Nam hiện nay

Bên cạnh những ưu điểm nổi bật như trên, người lao động Việt Nam vẫn còn

tồn tại một số hạn chế, yếu kém. Những hạn chế, yếu kém này đã và đang trở thành

“điểm nghẽn” kìm hãm đáng kể sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại ở nước

ta.

Thứ nhất, thể lực, sức khỏe của người lao động Việt Nam nhìn chung chưa đáp

ứng được yêu cầu cao về sức bền, cường độ lao động cao,sự nhanh nhạy cùng những

biến động của nền sản xuất hiện đại.

Trong những năm qua, mặc dù thể lực, tầm vóc của người lao động Việt Nam

đã có nhiều cải thiện nhưng nhìn chung, người Việt Nam nói chung và người lao động

trong lực lượng sản xuất nói riêng vẫn “thấp bé nhẹ cân”. Theo thông tin từ Ủy ban

79

dân số gia đình và trẻ em, chiều cao của người Việt Nam có sự chênh lệch đáng kể so

với một số nước trong khu vực có điều kiện tự nhiên gần giống nước ta:

Do chậm phát triển so với chuẩn quốc tế nên chiều cao nam thanh niên Việt

Nam hiện nay chỉ đạt 163,7cm (thấp hơn 13,1cm so với chuẩn) và chiều cao

trung bình của nữ Việt Nam là 153cm (thấp hơn 10,7cm so với chuẩn).

Đem chỉ số trên ra so sánh với các nước khu vực châu Á, nam thanh niên

Việt Nam kém thanh niên Nhật Bản 8cm, nữ kém 4cm. Còn trong khu vực

Đông Nam Á, đặc biệt là quốc gia có điều kiện tự nhiên gần giống nước ta

là Thái Lan thì chiều cao của nam thanh niên Việt Nam kém 6cm, nữ kém

2cm [108].

Điều này tạo ra nhiều khó khăn cho người lao động trong việc vận hành những

dây chuyền sản xuất có công suất lớn, lao động cường độ cao. Thể lực hạn chế cũng

khiến người lao động Việt Nam gặp nhiều bất lợi khi thường xuyên chịu áp lực của

việc làm tăng ca và gặp nhiều khó khăn khi đối mặt với những rủi ro và thường xuyên

phải thay đổi công việc, môi trường làm việc trong nền sản xuất hiện đại. Nhiều người

công nhân do hạn chế về thể lực, sức khỏe nên đã phải mất việc hoặc thường xuyên

thay đổi việc làm vì không thể làm việc trong môi trường nhiều áp lực với cường độ

lao động cao.

Ngoài ra, vấn đề an toàn, vệ sinh lao động cũng đang là một trong những yếu tố

ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe, thể lực của người lao động ở nước ta hiện nay.

Trong các ngành công nghiệp, một số lĩnh vực luôn tiềm ẩn nguy cơ tai nạn lao động

là các ngành xây dựng, khai khoáng, hóa chất… Theo số liệu của Cục An toàn Lao

động (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong số 540 nghìn doanh nghiệp vừa

và nhỏ ở nước ta hiện nay, có 66% cơ sở sản xuất bị ô nhiễm môi trường nghiêm

trọng, 30% cơ sở bị ô nhiễm tiếng ồn, 60% doanh nghiệp không tổ chức khám chữa

bệnh cho người lao động không đúng như cam kết. Theo Thông báo về tình hình tai

nạn lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong 6 tháng đầu năm 2016,

trên toàn quốc đã xảy ra 3.674 vụ tai nạn lao động làm 3.777 người bị nạn, cụ thể: Số

vụ tai nạn lao động chết người: 323 vụ; số vụ tai nạn lao động có từ hai người bị nạn

trở lên: 54 vụ; số người chết: 356 người; số người bị thương nặng: 854 người; nạn

nhân là lao động nữ: 1.176 người [xem 9, tr.1].

80

Những vụ tai nạn lao động xảy ra liên tiếp trong thời gian qua không chỉ đe dọa

đến tính mạng của người lao động mà còn ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động và

tính chuyên nghiệp của nền sản xuất hiện đại. Những tai nạn trong lao động đã phản

ánh tình trạng sản xuất manh mún, trên quy mô nhỏ với những công cụ lao động và

phương tiện sản xuất lạc hậu.

Thứ hai, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, chất lượng đào tạo chưa cao so

với các nước trong khu vực và trên thế giới, trình độ của người lao động phần lớn

chưa đáp ứng được yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại.

Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của sự phát triển lực lượng sản

xuất hiện đại là tỉ lệ những người lao động đã qua đào tạo, lao động tay có tay nghề, có

trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm đa số nhưng ở Việt Nam hiện nay, tỉ lệ còn khá

thấp. Theo kết quả Điều tra Lao động và Việc làm năm 2014 cho thấy:

Trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động

của cả nước, chỉ có hơn 9,99 triệu người đã được đào tạo, chiếm 18,6%

tổng lực lượng lao động. Ngược lại, hiện cả nước có hơn 43,76 triệu lao

động (chiếm 81,4% lực lượng lao động) chưa được đào tạo để đạt một trình

độ chuyên môn kỹ thuật nào đó [99, tr.17].

Như vậy, nếu so với trước đây, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo của nước ta đã

tăng lên đáng kể nhưng so với nhu cầu hiện tại của nền sản xuất, chất lượng lao động

còn thấp.

Năm 1996, số công nhân chưa qua đào tạo nghề là 45,7%, năm 2005 là 25,1%.

Trình độ chuyên môn, tay nghề của công nhân các loại hình doanh nghiệp năm 2005

như sau: lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm 16,1%, lao động có trình độ

trung cấp chiếm14,6%, công nhân kỹ thuật chiếm 28,1%, lao động không được đào tạo

chiếm 41,2%. Năm 2014, số lao động có trình độ đại học trở lên là 5,7 %, cao đẳng là

1,7 %, trung cấp là 3,5 %, dạy nghề 3,8 % [xem 99, tr.21]. Tình trạng mất cân đối

trong cơ cấu lao động kỹ thuật khá lớn. Nhiều doanh nghiệp có thiết bị công nghệ cao

nhưng lại thiếu công nhân lành nghề. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công nhân đang làm

những công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ

tới năng suất, chất lượng sản phẩm, gây lãng phí trong đào tạo nghề.

81

Theo đánh giá của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trên 80% lao động Việt

Nam là lao động phổ thông, có trình độ thấp. Phần lớn người lao động trải qua quá

trình đào tạo chưa thực sự phù hợp với những yêu cầu trình độ chung của khu vực và

trên thế giới. Trong Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội

khóa XIII, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ rõ:

Tỉ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ ở nước ta khoảng 18,2%, trong khi

lao động qua đào tạo có chứng chỉ ở Singapore là 61,5%. Nếu tính cả số

đào tạo dưới 3 tháng của nước ta thì con số đó là 49% năm 2013, so với

Malaysia là 62%, Philippines là 67%. Kỹ năng của người lao động trực tiếp

nước ta nhìn chung không kém lao động các nước nhưng đội ngũ kỹ sư, kỹ

thuật được đào tạo cơ bản, có trình độ cao còn thiếu [107].

Như vậy, nguồn lao động của nước ta tuy trẻ và dồi dào nhưng tỉ lệ lao động đã

qua đào tạo lại khá thấp so với các nước trong khu vực. Trong số lao động qua đào tạo,

nhất là qua đào tạo nghề, chỉ 1/3 là được đào tạo dài hạn nên kỹ năng, tay nghề còn

yếu, đặc biệt là so với tiêu chuẩn nghề của khu vực và thế giới, dẫn đến thiếu nghiêm

trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, các nhà quản lý và chuyên gia giỏi. Hơn nữa, sự

thay đổi về trình độ của người lao động nước ta trong thời gian qua cũng chưa tương

thích với sự thay đổi về tư liệu sản xuất. Trong khi các loại máy móc theo công nghệ

tiên tiến liên tục được tạo ra và đưa vào sản xuất nhưng trình độ, tay nghề của người

lao động nước ta lại chậm biến đổi; không được đào tạo bài bản để tiếp nhận sự

chuyển giao công nghệ nên chưa thể tận dụng hết những lợi thế của công nghệ hiện

đại. Cũng có khi người lao động có thể sử dụng được các loại máy móc hiện đại nhưng

cách thức sản xuất vẫn theo lề thói cũ, làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, không chú trọng đến

những biến động của thị trường; làm ăn theo lối chụp giật, chỉ chú ý đến lợi ích trước

mắt, không chú tâm đến định hướng phát triển lâu dài. Sự mất cân đối, không đồng bộ

giữa tư liệu sản xuất và trình độ, tay nghề, cách thức tổ chức sản xuất của người lao

động đang trở thành một trong những trở ngại làm cản trở sự phát triển của lực lượng

sản xuất theo hướng hiện đại ở Việt Nam hiện nay.

Hạn chế về trình độ của người lao động tất yếu dẫn đến năng suất lao động

thấp. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, năng suất lao động của Việt Nam năm

2014 tính theo giá hiện hành đạt khoảng 74,3 triệu đồng mỗi lao động. So với các năm

82

trước, năng suất lao động của năm 2014 tăng lên nhưng vẫn ở mức thấp so với các

nước trong khu vực và trên thế giới. Những ngành sản xuất vốn là mũi nhọn của Việt

Nam cũng có sự chênh lệch đáng kể về năng suất lao động so với một số nước như:

“năng suất lao động của ngành điện chỉ bằng 40% Thái Lan, 60% Malaysia và chỉ

bằng 10% Singapore; năng suất lao động của ngành dệt may chỉ bằng 50% Trung

Quốc, 70% Philippines…” [6, tr.25]. Đây là một thách thức lớn đối với nước ta trong

quá trình phát triển lực lượng sản xuất nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Không chỉ nguồn lao động phổ thông có trình độ chuyên môn kỹ thuật thuật

thấp mà ngay cả đội ngũ lao động tốt nghiệp Đại học cũng có trình độ chưa cao. Theo

kết quả từ các cuộc điều tra của JICA Nhật Bản về các doanh nghiệp chế tạo liên kết

với Nhật cho thấy, tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng ở Việt Nam nghiêm trọng

hơn so với các nước trong khối ASEAN có cùng mức độ phát triển. Khó khăn này

đang có xu hướng gia tăng theo thời gian. Tổ chức này đã đưa ra những số liệu cụ thể

để minh chứng cho điều này như sau:

Qua thực tế, Công ty Intel thuê kỹ sư làm việc cho nhà máy chế tạo tại

thành phố Hồ Chí Minh, công ty thực hiện kiểm tra đánh giá tiêu chuẩn đối

với 2.000 sinh viên công nghệ thông tin Việt Nam nhưng chỉ có 90 ứng

viên, tương đương 5% vượt qua được kiểm tra, trong nhóm này chỉ có 40

ứng viên có đủ trình độ tiếng Anh [Dẫn theo 73, tr.18].

Đây chính là một trong những rào cản lớn cho nguồn lao động có trình độ Đại

học nước ta tham gia vào thị trường lao động. Thực tế trên cũng lý giải tại sao trong

khi số lượng các trường Đại học và số lượng sinh viên không ngừng tăng lên nhưng tỷ

lệ sinh viên ra trường không có việc làm ở Việt Nam vẫn còn rất cao. Điều đó gây ra

tình trạng lãng phí nguồn lao động đã qua đào tạo.

Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp hơn đáng kể so với các

nước trong khu vực và trên thế giới. Điều đó được thể hiện cụ thể qua bảng so sánh

sau:

83

Bảng 3. So sánh các tiêu chí chất lượng cơ bản nguồn nhân lực của Việt

Nam so với một số nước (tính theo thang điểm 10)

Nước/Tiêu

chí

Hàn

Quốc

Trung

Quốc

Indonesia Philippin Malaisia Thái

Lan

Việt

Nam

Hệ thống

giáo dục

8,0 5,12 0,5 3,8 4,5 2,64 3,25

Lao động

chất lượng

cao

7,0 7,12 2,0 5,8 4,5 4,0 3,25

Trình độ

tiếng Anh

4,0 3,62 3,0 5,4 4,0 2,82 2,62

Sự thành

thạo công

nghệ

7,0 4,37 2,5 5,0 5,5 3,27 2,5

Nguồn: [36, tr. 26].

Qua bảng so sánh trên, có thể nhận thấy các tiêu chí đánh giá chất lượng lao

độngcủa Việt Nam đều thấp hơn hầu hết so với các nước được so sánh ở châu Á. Có

những tiêu chí như “lao động chất lượng cao” và “sự thành thạo công nghệ” của

người lao động nước ta thấp hơn rất nhiều so với các nước khác. Điều đó phản ánh

sự chênh lệch khá lớn về chất lượng nguồn lao động của Việt Nam so với các nước.

Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo thấp cũng ảnh hưởng đến vấn đề việc làm cho

người lao động ở nước ta.

Hiện nay cả nước mới chỉ có khoảng 9,6 triệu người (chiếm 18,2%) có việc

làm đã được đào tạo. Ngoài ra, trong số những lao động có việc làm, có

2,7% lao động chưa bao giờ đi học; tỉ lệ lao động có việc làm chưa tốt

84

nghiệp tiểu học cũng rất đáng kể, chiếm 11,3%; trong khi đó, tỉ lệ lao động

có việc làm có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 18,2% [99, tr.23-

24].

Như vậy, phần lớn người lao động có việc làm ở nước ta đều chưa được đào tạo

về chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, dân trí còn thấp. Điều đó ảnh hưởng đáng

kể đến việc việc tiếp cận những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại trong sản

xuất, ảnh hưởng đến cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh của người lao động. Trình

độ dân trí chưa cao, nhất là trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp là những yếu tố cơ bản

phản ánh chất lượng của người Việt Nam còn hạn chế. Đó cũng chính là nguyên nhân cơ

bản làm cho năng suất lao động thấp, lực lượng sản xuất nhìn chung còn ở trình độ lạc

hậu.

Hiện nay, việc thua lỗ và thất thoát số tiền hàng chục ngàn tỷ đồng ngân sách

Nhà nước tại các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước không chỉ do sự yếu kém trong

quản lý, điều hành, quản trị của người đứng đầu tập đoàn cộng với thói quen “xin-cho”

hay “trách nhiệm tập thể” vẫn còn tồn tại trong tư duy của họ mà còn xuất phát từ

chính những người lao động là công nhân làm việc trong các tập đoàn, doanh nghiệp

này. Trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ phát triển rất nhanh, toàn cầu

hóa trở thành xu thế tất yếu, kinh tế tri thức trở thành một đặc trưng của nền kinh tế,

thì vai trò và vị trí trung tâm của con người trong quá trình phát triển đã được khẳng

định. Để xây dựng và phát triển nền kinh tế bền vững cần hội đủ năm yếu tố. Đó là

vốn, khoa học - công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà

nước. Ở một số tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, dù được đầu tư về vốn và khoa học -

công nghệ hiện đại nhưng vì trình độ của công nhân còn thấp, chưa được đào tạo

chuyên sâu về nghề nghiệp nên chưa tương thích, đồng bộ với trình độ hiện đại của

máy móc, công nghệ; cách thức quản xuất còn lạc hậu theo cơ chế bao cấp nên hiệu

quả sản xuất và năng suất lao động chưa cao. Những hạn chế về trình độ của người lao

động trong các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế nhà nước là một trong những

nguyên nhân khiến cho các công ty, tập đoàn này thường xuyên rơi vào tình trạng làm

ăn thua lỗ, thậm chí phá sản.

Như vậy, mặc dù đã tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ sớm nhưng nhìn

chung, trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động Việt Nam

85

vẫn còn rất thấp. Đây là một trong những rào cản lớn, một trong những “điểm nghẽn”

đáng kể trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay bởi lẽ

yếu tố tri thức, trí tuệ, chất xám của người lao động Việt Nam hiện vẫn chưa là một

yếu tổ nổi bật đóng vai trò quyết định so với yếu tố thể lực, sức khỏe. Vì phần lớn

chưa được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật nên hầu như người lao động Việt Nam hiện

nay vẫn phụ thuộc phần nhiều vào thể lực, kinh nghiệm. Do đó, sức lao động chưa

được giải phóng mạnh mẽ, chưa tạo ra được những phát minh, sáng chế cải tiến kỹ

thuật, chưa có những đột phá về công nghệ trong sản xuất vật chất.

Thứ ba, tính kỷ luật, ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường sinh

thái... của người lao động Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Do ảnh hưởng lâu dài bởi phương thức sản xuất theo mô hình công xã nông

thôn dựa trên nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, tự cấp, tự túc và kép kín, cũng như ảnh hưởng

bởi các cuộc chiến tranh lâu dài, liên tục để chống địch họa đã tạo nên lối sống khép

kín, lối làm ăn manh mún, tản mạn,... nên tính kỷ luật trong lao động của người Việt

Nam nhìn chung còn thấp. Điều đó đã ảnh hưởng đến lối sản xuất nhỏ lẻ, tùy tiện,

thiếu quy củ, thiếu tính chiến lược của người lao động Việt Nam. Vì vậy, trong nền

sản xuất hiện đại, người lao động Việt Nam tuy có nhiều cơ hội về việc làm hơn trước

nhưng họ lại chỉ hay nghĩ đến lợi ích trước mắt, dễ dao động, dễ thay đổi công việc có

lợi cho mình, ít có sự gắn bó lâu dài với công việc.

Hơn nữa, chế độ phong kiến tồn tại lâu dài cũng góp phầncũng tạo nên tính trì

trệ, bảo thủ, khép kín, làm hạn chế đáng kể ý thức tự giác, chủ động trong việc tiếp thu

những tiến bộ về khoa học - công nghệ và những tri thức khoa học khác của các nước

tiên tiến trên thế giới đối với người lao động Việt Nam. Lối sống tùy tiện, cách thức

làm việc nhỏ lẻ, manh mún, nặng kinh nghiệm, coi nhẹ khoa học - công nghệ cũng

đang là một trong những hạn chế lớn của người lao động nước ta hiện nay. Bởi vậy,

phần lớn người lao động, nhất là ở các cơ sở sản xuất nhỏ đều ngại thay đổi cách thức

sản xuất, không chủ động tiếp thu và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất; ít

có sự sáng tạo nên thường xuyên thiếu việc làm. Công nhân nước ta phần lớn xuất thân

từ nông dân nên họ cũng dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống tùy tiện, ý thức tổ chức kỷ luật

kém, coi trọng kinh nghiệm sản xuất mà ít có ý thức tự học tập để nâng cao trình độ

tay nghề. Có thể nhận thấy một số điểm phức tạp, gần như là mâu thuẫn trong tập

86

quán, lối sống của người lao động nước ta hiện nay như: người lao động Việt Nam vốn

kế thừa được truyền thống anh dũng, can đảm của cha ông trong lịch sử nhưng khi làm

kinh tế lại không táo bạo, quyết đoán; có đức tính cần cù, chăm chỉ nhưng nhiều lúc lại

hướng tới triết lý an lạc, có tư tưởng coi thường lao động chân tay; bền bỉ, dẻo dai

song lại tùy tiện, tản mạn; thông minh, nhanh nhạy nhưng chưa tiến tới sáng tạo trong

việc cải tiến công cụ sản xuất, phương tiện kỹ thuật hiện đại trong sản xuất; đoàn kết,

gắn bó khi gặp khó khăn, hoạn nạn nhưng trong lao động sản xuất lại hẹp hòi, cục bộ;

tiết kiệm đến chi ly trong sinh hoạt hàng ngày nhưng lại lãng phí trong các hoạt động

hiếu hỉ, lễ hội... Những điều đó tưởng như là nghịch lý nhưng đó lại là một thực tiễn

trong lề lối lao động, làm việc của người lao động nước ta, ảnh hưởng đáng kể đến tâm

lý, cách thức sản xuất, tư duy trong công việc khiến nền sản xuất nước ta vẫn luôn bị

trói buộc bởi những tập quán cũ kĩ, lạc hậu, khó có sự bứt phá và cất cánh.

Ngoài ra, ý thức đạo đức nghề nghiệp của người lao động Việt Nam nhìn chung

còn thấp. Với việc đề cao lợi nhuận, nhiều chủ doanh nghiệp, nhất là các cơ sở sản

xuất, chế biến lương thực, thực phẩm đã sử dụng quá mức cho phép các hóa chất độc

hại, phẩm màu. Vì vậy, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là một trong những vấn

đề nhức nhối của toàn xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng

của người tiêu dùng. Chính ý thức đạo đức nghề nghiệp của người lao động còn kém

nên chất lượng sản phẩm hàng hóa còn thấp, có độ an toàn không cao, tính cạnh tranh

thấp. Điều đó cũng ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển lực lượng sản xuất theo

hướng bền vững.

Không chỉ hạn chế về ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường

sinh thái của người Việt Nam cũng vẫn còn thấp. Một trong những đặc điểm nổi bật

của lực lượng sản xuất hiện đại là sử dụng công nghệ mới để tạo ra những sản phẩm

gần gũi và thân thiện với môi trường sinh thái. Trong khi đó, ý thức bảo vệ môi trường

sinh thái của người Việt Nam còn rất hạn chế. Do tư duy cục bộ, thiếu ý thức trách

nhiệm, hầu hết các khu công nghiệp ở nước ta đều gây ra tình trạng ô nhiễm môi

trường. Nước thải không qua xử lý từ các khu công nghiệp được xả trực tiếp vào môi

trường gây ra những thiệt hại không nhỏ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy

hải sản ở các vùng lân cận. Không khí ở các khu chế xuất cũng bị ô nhiễm nghiêm

trọng. Ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp đã gây ảnh hưởng lớn đến sức

87

khỏe, tinh thần của bản thân người lao động và nhân dân sống gần các khu công

nghiệp, gây nên những tác hại nghiêm trọng về biến đổi khí hậu, tổn hại đến ngân sách

quốc gia khi phải xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường.

Ngoài các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là các làng nghề

sản xuất các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ cũng đang bị ôm nhiễm nghiêm trọng. Hiện

nay, cả nước có hơn 3000 làng nghề, thu hút hơn 13 triệu lao động. Sự phát triển của

làng nghề góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm cho

người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Tuy nhiên, hầu hết

các làng nghề ở nước ta hiện nay đang phải đối mặt với một vấn đề rất nghiêm trọng là

ô nhiễm môi trường. Hiện tượng này một phần lớn là do ý thức trách nhiệm của người

lao động. Các loại rác thải phát sinh trong hoạt động sản xuất từ các làng nghề hầu hết

đều chưa được xử lý đã được các thợ thủ công, người làm nghề xả ra môi trường, ảnh

hưởng trực tiếp đến nguồn nước, không khí, đất và cảnh quan môi trường. Nhiều làng

nghề, nhất là những nghề liên quan đến chế tác, kim loại còn gây ô nhiễm tiếng ồn

nghiêm trọng từ những tiếng đục, đẽo, khoan, mài... Như vậy, các làng nghề ở nước ta

một mặt đang cố gắng giữ gìn và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của dân

tộc, nhưng mặt khác lại đang gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, làm

cản trở đến chiến lược phát triển kinh tế xanh, phát triển bền vững của đất nước.

Ngoài những hạn chế về ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường

sinh thái, nhìn chung còn nhiều hạn chế về ý thức chấp hành pháp luật và kỷ luật lao

động nhìn chung còn hạn chế. Tỉ lệ người lao động là đảng viên, đoàn viên công đoàn

trong các doanh nghiệp, công ty còn thấp. Thực tế đó khiến lao động nước ta khó có

cơ hội tiếp cận với những ngành đòi hỏi công nghệ cao, có tính chuyên nghiệp, tính

ứng dụng, khó vươn lên vị trí làm chủ. Điều đó cũng lý giải tại sao lao động Việt Nam

cũng dễ mất việc làm, phần lớn chỉ tập trung ở những ngành lao động giản đơn, thủ

công, lắp ráp truyền thống. Những hạn chế về trình độ ngoại ngữ, tin học, trình độ lý

luận chính trị cũng là một trong những rào cản lớn cho nguồn lao động nước ta trên

con đường hội nhập và tiếp cận những tiến bộ trong khoa học - công nghệ.

Bên cạnh đó, người lao động Việt Nam có đời sống văn hóa tinh thần còn

nghèo nàn, đơn điệu. Do những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, người lao động nước

ta thường bị trói buộc vào “miếng cơm, manh áo” nên ít có thời gian và tâm trí quan

88

tâm đến các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Phần đông công nhân nước ta ở các khu

công nghiệp lớn phải đi thuê nhà, có cuộc sống tạm bợ, khó khăn. Điều đó khiến họ

không được giải phóng về tư tưởng, ảnh hưởng lớn đến sự tích cực, hăng hái trong lao

động, khiến họ luôn có tâm lý chỉ là lao động làm thuê, được trả công nên không thật

sự hết mình, không có ý thức phấn đấu và gắn bó lâu dài với công việc. Cũng do

những hạn chế về đời sống vật chất và tinh thần nên người lao động nước ta thường

không chủ động và tích cực trong việc tiếp cận những tiến bộ của khoa học - công

nghệ, không tự đầu tư thời gian và tiền bạc để học tập nâng cao trình độ, tay nghề.

Chính những hạn chế này đã tạo ra hệ quả là nước ta có nguồn lao động trẻ, dồi

dào nhưng lại có số lượng người thất nghiệp trong độ tuổi lao động khá lớn do không

đáp ứng được nhu cầu công việc: “Năm 2014, cả nước có hơn 1 triệu người thất

nghiệp, trong đó khu vực thành thị là 516 nghìn người, khu vực nông thôn là 487

nghìn người. Số lượng người thất nghiệp tập trung nhiều ở nhóm tuổi trẻ, đặc biệt là

nhóm thanh niên từ 15 đến 24 tuổi chiếm đến 47,3% số người thất nghiệp trên cả

nước” [99, tr.40].

Những bất cập về thể lực, trình độ, ý thức nghề nghiệp cũng đang là một trong

những rào cản lớn để người lao động nước ta tham gia vào thị trường lao động của các

nước trong khu vực và trên thế giới. Ngày 31/12/2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN

(ASEAN Economic Community, viết tắt là AEC) được thành lập. Cộng đồng Kinh tế

ASEAN là việc thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn

ASEAN 2020", nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng

và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển

tự do, và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và

chênh lêch kinh tế - xã hội được giảm bớt vào năm 2020. Đây là cơ hội để người lao

động Việt Nam tham gia rộng khắp vào thị trường lao động trong khu vực. Tuy nhiên,

tính cạnh tranh của nguồn lao động nước ta lại thấp, chưa có nhiều lợi thế nổi bật.

Như vậy, có thể nhận thấy, tất cả những yếu tố cấu thành của nhân tố người lao

động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều

hạn chế, bất cập. Thể lực, sức khỏe của người lao động nước ta tuy đã được cải thiện

so với trước kia nhưng nhìn chung còn chậm và kém so với các nước trong khu vực và

trên thế giới; trình độ, tay nghề, kỹ năng của người lao động còn thấp, chưa theo kịp

89

những tiến bộ của khoa học - công nghệ được ứng dụng vào sản xuất; ý thức trách

nhiệm trong công việc, ý thức đạo đức nghề nghiệp và ý thức bảo vệ môi trường sinh

thái còn nhiều hạn chế. Những bất cập đó đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản

xuất ở nước ta hiện nay.

3.2. NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU CỦA NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN

CHẾ Ở NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY

3.2.1. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực ở người lao động trong

lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay

Không thể phủ nhận được những thay đổi tích cực của người lao động Việt

Nam sau hơn 30 năm đổi mới. Những thay đổi tích cực đó bắt nguồn từ nhiều nguyên

nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu như sau:

3.2.1.1. Đảng, Nhà nước có những chủ trương đúng đắn trong phát triển

nguồn nhân lực nói chung và phát triển người lao động trong lực lượng sản xuất

nói riêng

Với quan điểm: con người là trung tâm mọi chiến lược phát triển, trong hơn 30

năm đổi mới, Đảng ta luôn đặt con người nói chung và người lao động nói riêng ở vị

trí trung tâm trong mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ở Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là

nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quan trọng, đóng vai trò

quyết định đến sự phát triển đất nước: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định đến

sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [29, tr.41]. Hơn nữa, phát triển và nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực cũng được coi là một khâu đột phá quan trọng để thúc đẩy

nền kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay: “Phát triển và nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là

yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại

nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất,

đảm bảo cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [29, tr.130]. Đây là một quan

điểm đúng đắn nhằm khắc phục những “điểm nghẽn” trong phát triển kinh tế - xã hội ở

Việt Nam hiện nay.

90

Để cụ thể hóa quan điểm này, Đảng ta đã có nhiều đường lối, chủ trương nhằm

phát triển nguồn nhân lực, trong đó Đảng ta đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục và đào

tạo, khoa học và công nghệ. Đảng ta xác định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát

triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”

[31, tr.114]; “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công

nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản

xuất hiện đại và kinh tế tri thức” [31, tr.119-120]… Từ đó, công tác đào tạo cho người

lao động được chú trọng theo chiều sâu, hướng đến mục tiêu đào tạo để nâng cao trình

độ, tay nghề cho người lao động. Những thành tựu khoa học và công nghệ cũng được

ứng dụng rộng rãi vào sản xuất tại các doanh nghiệp, công ty; góp phần thay đổi đáng

kể tính chất của lao động từ thủ công truyền thống sang cơ khí hóa, tự động hóa, làm

tăng năng suất lao động và gia tăng giá trị của sản phẩm hàng hóa.

3.2.1.2. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập quốc tế đã

góp phần thay đổi tích cực người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta tuy được bắt đầu từ những

năm 60 của thế kỷ XX nhưng nó chỉ thực sự được đẩy mạnh từ khi đổi mới đến nay.

Với mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,

Đảng ta còn gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức

và hội nhập quốc tế. Đây là một chủ trương đúng đắn góp phần làm thay đổi tích cực

người lao động Việt Nam trong những năm qua.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết làm thay đổi cơ cấu kinh tế

và cách thức tổ chức sản xuất của người lao động. Từ một nước nông nghiệp thuần túy

với ngành nông nghiệp chiếm phần lớn trong tỉ trọng đóng góp của các ngành, cho đến

nay, tỉ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp đang ngày một giảm dần, tỉ trọng đóng

góp của hai ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên nhanh chóng. Cùng với đó, cơ cấu

lao động của các ngành cũng có sự chuyển biến đáng kể. Từ một nước đa số là nông

dân, cho đến nay, số lượng công nhân nước ta cũng ngày càng tăng lên. Nếu như nông

dân lao động chủ yếu theo những tập tính, thói quen đã sẵn có từ lâu đời thì công nhân

hầu như đều được đào tạo nghề (ngắn hạn hoặc dài hạn). Quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa còn làm xuất hiện đội ngũ công nhân mới - công nhân trí thức với trình độ

tay nghề cao, biết cách sử dụng các loại máy móc hiện đại, có ý thức tổ chức kỷ luật

91

tốt. Đội ngũ công nhân này không phải là những lao động trực tiếp thuần túy mà họ có

thể là những chuyên gia, những kỹ sư... tham giam quản lý, điều hành sản xuất. Điều

đó góp phần từng bước thay đổi tính chất của người lao động, từ phụ thuộc đến từng

bước làm chủ quá trình lao động của mình.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế còn tạo ra một thế hệ người

lao động Việt Nam mới mà ở thế kỷ trước hầu như chưa có. Đó là những người lao

động làm việc ở nước ngoài. Trong những năm gần đây, mỗi năm nước ta không chỉ

xuất khẩu hàng nghìn lao động phổ thông sang các nước trong khu vực như Đài Loan,

Malaysia, Indonesia... mà sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)... đã tạo

điều kiện cho Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn lao động có trình độ sang các nước

có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Đức, Mỹ... Điều này giúp cho lao động Việt

Nam có thêm nhiều cơ hội làm việc ở những nước có nền sản xuất hiện đại, tiếp thu

được những tiến bộ về khoa học - công nghệ ứng dụng trong sản xuất, trau dồi được

tác phong làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm... Khi trở về nước, họ

mang theo những tiến bộ đó để làm việc một cách có hiệu quả và chuyên nghiệp hơn.

3.2.1.3. Bản thân người lao động Việt Nam đã biết thích nghi trước những

thay đổi của nền sản xuất hiện đại

Một trong những nguyên nhân chủ yếu mang đến những thay đổi tích cực của

người lao động Việt Nam sự thích nghi trước những thay đổi của nền sản xuất hiện

đại. Con người Việt Nam nói chung và người lao động nói riêng luôn có tính nhạy bén,

năng động nên trước yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, người lao

động Việt Nam đã chủ động thích nghi. Nếu như trước đây, học sinh nước ta chủ yếu

theo học các trường Đại học, cao đẳng thì trong những năm gần đây, xu hướng học

sinh học nghề đang ngày một tăng lên. Họ hướng đến những nghề mà xã hội đang cần

nên sau một thời gian ngắn đào tạo, hầu hết học sinh học nghề đều có việc làm; trong

khi đó, một số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học, cao đẳng ra trường

lại không có việc làm, hoặc phải làm việc không đúng với chuyên ngành đã được đào

tạo. Không chỉ có vậy, ngay cả những công nhân đã được nhận vào làm cũng tích cực,

chủ động học nghề theo yêu cầu công việc để có thu nhập cao hơn.

Nhận thấy lao động nông nghiệp đang gặp nhiều khó khăn trong sản xuất như

giá thành đầu vào cao (giống, phân bón...), thị trường tiêu thụ hạn chế, gặp nhiều rủi ro

92

vì thời tiết..., nhiều lao động nông nghiệp, nhất là những lao động trẻ đã chuyển từ sản

xuất nông nghiệp truyền thống sang làm công nhân tại các nhà máy, các khu công

nghiệp ở địa phương. Vì muốn có thu nhập cao, nhiều lao động ở nông thôn chủ động

học ngoại ngữ, tin học để tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động... Để thích nghi

với nền sản xuất hiện đại, công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất đã

biết thay đổi tập quán sản xuất từ thủ công sang sử dụng máy móc; từ sản xuất nhỏ lẻ,

manh mún sang sản xuất theo dây chuyền, tập trung với trình độ chuyên môn hóa cao.

Ở các doanh nghiệp lớn, để tránh bị đào thải và có được thu nhập ổn định, có vị trí

cao, người lao động phải tự thích nghi với môi trường làm việc cường độ cao, kỷ luật

lao động nghiêm ngặt. Do đó, ý thức trách nhiệm của người lao động cũng được cải

thiện rõ rệt. Có thể nói, chính môi trường làm việc chuyên nghiệp theo hướng hiện đại

đã tạo nên động lực quan trọng để người lao động tự thay đổi chính mình để có thể

thích nghi.

3.2.2. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt hạn chế ở người lao động trong

lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay

3.2.2.1. Sản xuất chậm phát triển, đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn

nên sức khỏe thể lực của người lao động Việt Nam chậm được cải thiện

Trong những năm qua, mặc dù nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển ở

mức độ khá, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao - đó là điều kiện tiên quyết

để chăm lo phát triển thể lực con người Việt Nam nhưng trên thực tế, trong khi dân số

của nước ta đứng thứ 13 thế giới nhưng kinh tế chỉ đứng vị trí 42 thế giới, thu nhập

bình bình quân đầu người cũng chỉ ở mức “trung bình thấp”

Nhìn chung, đời sống vật chất của người Việt Nam nói chung và người lao

động nước ta nói riêng còn thấp. Phần lớn người Việt Nam đều ở mức độ thiếu dinh

dưỡng, hoặc dinh dưỡng không cân đối nên so với các nước trong khu vực và trên thế

giới. Mức lương của người lao động hiện nay về cơ bản không đáp ứng được nhu cầu

sinh hoạt tối thiểu của bản thân, chưa nói đến việc tích lũy hay chăm lo cho con cái...

Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương tối thiểu, thậm chí có quy định về

mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm ở các loại hình doanh nghiệp

(Nghị định số 70/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên, mức tăng thường không theo kịp tốc độ

tăng giá của thị trường. Chẳng hạn, năm 2010, tiền lương của người lao động trong các

93

loại hình doanh nghiệp tăng 10,3% so với năm 2009 nhưng chỉ số giá sinh hoạt tăng

11,75%, nên việc tăng lương không có tác dụng nhiều trong việc cải thiện đời sống

công nhân, đặc biệt là công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong khi đó,

phần lớn các chủ doanh nghiệp vẫn đang lấy mức lương tối thiểu để trả lương cho

người lao động, chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng thang, bảng lương. Ngoài ra,

các chủ doanh nghiệp còn bớt một phần lương của người lao động chi cho các khoản

phụ cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi lại, thưởng...

Không chỉ đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn mà điều kiện lao động,

làm việc của người lao động, nhất là trong những ngành công nghiệp nặng ở nước ta

còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến độ an toàn trong lao động.

Điều kiện làm việc trong ngành xây dựng rất phức tạp do thường xuyên

phải thay đổi địa điểm, máy móc, thiết bị… Công nhân xây dựng chủ yếu

phải làm việc ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết, chóng mệt

mỏi, suy yếu, cảm nóng, cảm lạnh. Hơn nữa, môi trường lao động còn có

rất nhiều yếu tố độc hại như mụi đá, rung, ồn, hơi độc [40, tr.35].

Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, thể lực mà còn tác động không

nhỏ đến cả tâm lý sản xuất của người lao động.

3.2.2.2. Cơ chế, chính sách để thực hiện lợi ích còn nhiều hạn chế, bất cập

nên chưa phát huy được tính tích cực của người lao động

Không chỉ nền kinh tế chậm phát triển, đời sống vật chất của người lao động là

công nhân nước ta còn gặp nhiều khó khăn mà công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho

người lao động nhìn chung còn thấp. Hiện nay, chi tiêu của Chính phủ còn khá thấp so

với nhu cầu khám chữa bệnh của người lao động: “Chi tiêu của chính phủ cho công tác

chỉ tương đương với 2,8% GDP. Hơn 50% chi tiêu cho y tế chính là chi tiêu từ túi tiền

của bệnh nhân. Chi tiêu công cho y tế chiếm khoảng 8,7% chi tiêu công ở Việt Nam so

với mức 14,1% ở Thái Lan và 9,9% ở Trung Quốc” [6, tr.28]. Với mức đầu tư cho y tế

còn thấp như vậy, cơ sở vật chất trong y tế thiếu thốn, lạc hậu. Hiện tượng quá tải về

bệnh nhân trong các bệnh viện, nhất là ở các bệnh viện lớn vẫn đang là vấn đề nhức

nhối. Hơn nữa, mức đầu tư, các dịch vụ y tế cũng như nhân lực của ngành y, tập trung

chủ yếu ở đô thị, còn ở nông thôn, nhất là vùng núi cao, xa, sâu, dịch vụ y tế còn thiếu

thốn và kém chất lượng. Vì vậy, có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, các địa

94

phương trong việc hưởng lợi từ những dịch vụ y tế. Mức đầu tư cho công tác y tế còn

thấp cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến việc khám chữa bệnh và công tác bảo hiểm y tế

cho người lao động. Mặc dù hầu hết những người lao động trong các ngành công

nghiệp nước ta đều được mua bảo hiểm y tế nhưng công tác khám sức khỏe định kỳ

chưa được tổ chức thường xuyên, có những nơi tổ chức khám sức khỏe chỉ mang tính

hình thức, qua loa nên người lao động không được chăm sóc sức khỏe một cách tích

cực, phần lớn lao động công nghiệp nước ta đều mắc bệnh nghề nghiệp. Theo số liệu

của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2014, chỉ có khoảng 21% doanh nghiệp

ngoài nhà nước đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho công nhân và trích nộp kinh

phí công đoàn. Hầu như người lao động phải tự bỏ tiền ra mua bảo hiểm y tế nên tỉ lệ

những người nông dân có bảo hiểm y tế ở nước ta còn thấp. Điều đó ảnh hưởng rất lớn

đến việc chăm sóc sức khỏe, phát hiện và điều trị kịp thời bệnh tật cho người lao động.

Do đó, độ bền bỉ, dẻo dai về thể lực và “tuổi thọ nghề nghiệp” của người lao động Việt

Nam nhìn chung còn thấp.

Ngoài ra, cơ chế, chính sách về nhà ở cho người lao động là công nhân nước ta

còn nhiều hạn chế. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các tỉnh, thành phố lớn,

các khu công nghiệp, khu chế xuất không xây nhà lưu trú cho công nhân. Số người lao

động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất khoảng 1,6 triệu người, trong đó, chỉ có

20% số người có chỗ ở ổn định. Đa số người lao động ngoại tỉnh làm việc tại các khu

công nghiệp, khu chế xuất đều phải thuê nhà trọ, với điều kiện vệ sinh, môi trường

không bảo đảm.

Thực hiện Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng

Chính phủ về Cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người lao động trong các khu

công nghiệp, các tỉnh, thành phố đã đăng ký 110 dự án nhà ở cho người lao động tại

các khu công nghiệp giai đoạn 2010 - 2015. Tuy nhiên, cho đến nay, các dự án nhà ở

cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đều chậm tiến độ so với yêu cầu,

trong số 27 dự án đã được khởi công xây dựng mới có 9 dự án hoàn thành. Trong quy

hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, phần lớn chưa tính tới nhu cầu về

chỗ ở, nhà trẻ, trường học cho gia đình người lao động. Một số nơi xây nhà ở cho

người lao động thì lại thiếu đồng bộ với việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội. Do vậy,

gây khó khăn không nhỏ đối với người lao động trong sinh hoạt, làm việc... Ngoài ra,

95

ở Việt Nam còn thiếu những cơ chế tạo động lực cho người lao động như cơ chế tuyên

dương, khen thưởng cho những người lao động có thành tích tốt, có sáng kiến cải tiến

kỹ thuật. Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất mới chỉ chú trọng đến việc khai thác,

sử dụng sức lao động của người công nhân mà chưa ưu tiên đến việc đáp ứng nhu cầu

giải trí, văn hóa tinh thần nhằm tái sản xuất sức lao động, khích lệ, động viên tính tích

cực, sáng tạo cho người lao động. Vì thế, nhìn chung người lao động là công nhân ở

nước ta có đời sống tinh thần còn nghèo nàn, chưa thực sự gắn bó với doanh nghiệp,

chưa phát huy được hết tinh thần hăng hái, ý thức trách nhiệm trong công việc. Ở

nhiều doanh nghiệp và cơ sở sản xuất còn nhiều hiện tượng công nhân tự ý bỏ việc, bãi

công, làm việc chống đối… Những hiện tượng đó đang đè tặng lên tâm lý sản xuất của

người lao động nước ta hiện nay.

Bên cạnh đó, các tổ chức công đoàn các cấp ở Việt Nam hiện nay cũng chưa

phát huy được hết vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục, tuyên truyền cho

người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất về luật lao

động, quyền hạn và trách nhiệm của người lao động; chưa nói lên được tiếng nói của

mình khi người lao động đứng lên đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Người lao động, kể cả lao động có trình độ, lao động chất lượng cao ở nước ngoài

cũng chưa thực sự được quan tâm, giúp đỡ và được bảo vệ khi xảy ra những tranh

chấp về lao động. Do đó, người lao động ở nước ta hiện nay vẫn chưa có sự gắn kết

chặt chẽ, chưa có ý thức pháp luật và chưa có nhiều cơ chế, chính sách tạo động lực để

họ có thể phát huy tốt tâm lực của mình trong nền sản xuất hiện đại và hội nhập quốc

tế.

3.2.2.3. Chất lượng công tác đào tạo, nhất là đào tạo nghề còn thấp nên hiệu

quả lao động chưa cao

Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, một trong những khâu đột phá chiến

lược được Đảng ta xác định là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và

người lao động nói riêng. Giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo nghề cho người lao động

được coi là khâu then chốt nhằm cải thiện chất lượng người lao động trong lực lượng

sản xuất ở nước ta hiện nay.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về trình độ, tay nghề của

người lao động nước ta là do sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu đào tạo nghề.

96

Năm 2007, trong số lao động qua đào tạo thì cứ 1 qua đào tạo đại học, chỉ có 0,76 qua

đào tạo trung học và 3 qua đào tạo nghề; chất lượng đào tạo nghề nghiệp chưa cao nên

khả năng cạnh tranh của lao động rất thấp. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới

(WB):

Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm

10), xếp thứ 11 trong 12 nước ở châu Á được tham gia xếp hạng; thiếu

nhiều chuyên gia trình độ cao, thiếu công nhân lành nghề; Chỉ số Kinh tế

Tri thức ( KEI) của nước ta còn thấp, chỉ đạt 3,02 điểm, xếp thứ 102/133

quốc gia được phân loại; lao động nông thôn chủ yếu chưa được đào tạo

nghề, năng suất lao động thấp [21, tr.22].

Hiện nay, hệ thống đào tạo nghề chuyên môn kỹ thuật nước ta hiện có 300 cơ

sở, mỗi năm đào tạo được từ 85 nghìn đến 90 nghìn lao động. Năng lực đào tạo các

khóa ngắn hạn theo nhu cầu chính sách đối với lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ,

người tàn tật và những đối tượng khác hàng năm mới đạt khoảng từ 110 đến 120 nghìn

người. Cùng với hệ đào tạo lao động kỹ thuật, cả nước hiện có 345 trường đại học cao

đẳng, 273 trường trung học chuyên nghiệp. Hệ thống đào tạo này cung cấp cho nền

kinh tế nguồn nhân lực theo một cơ cấu trình độ: 1 đại học, 0,8 trung học và 3,7 công

nhân. Trong khi đó, theo nghiên cứu của các chuyên gia, cơ cấu lao động kỹ thuật hợp

lý phải là: 1 đại học, 4 trung học chuyên nghiệp và 15 - 20 công nhân (lao động kỹ

thuật). Những tính toán của chuyên gia Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã

hội Quốc gia (NCEIF) vào năm 2009 cho thấy: “Nếu tiếp tục đào tạo theo hệ thống

hiện hành, đến năm 2020 Việt Nam sẽ thiếu từ 3,8 triệu đến 5,12 triệu lao động kỹ

thuật, thiếu từ 3,14 triệu đến 3,4 triệu lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và

thừa từ 3,6 triệu đến 3,68 triệu lao động có trình độ đại học, cao đẳng” [73, tr.17].

Những bất cập trong cơ cấu đào tạo như trên đã dẫn đến tình trạng “thừa thầy

thiếu thợ”, làm lãng phí đáng kể đến nguồn lao động, ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở

rộng sản xuất; đồng thời tất yếu dẫn đến những bất hợp lý trong tỷ lệ người lao động

thất nghiệp ở nước ta hiện nay. Điều này đã tạo ra một số bất hợp lý đối với nguồn lao

động của nước ta bởi để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại cần nguồn lao động trẻ,

có trình độ, có tay nghề, nhanh nhạy, tháo vát, sáng tạo nhưng số lượng thanh niên thất

nghiệp lại chiếm gần một nửa số lượng người thất nghiệp trên cả nước. Đặc biệt, khi

97

phân chia tỷ trọng người thất nghiệp theo trình độ, số lượng người có trình độ tốt

nghiệp Đại học, cao đẳng chiếm tỷ lệ khá cao. Điều đó được thể hiện qua bảng số liệu

sau:

Bảng 4. Cơ cấu người thất nghiệp chia theo các bậc học cao nhất

đã đạt được năm 2014

Tỷ trọng (%) Bậc học cao nhất đã

đạt được Tổng số Nam Nữ

Tổng số 100,0 100,0 100,0

Chưa đi học 2,1 2,0 2,2

Chưa tốt nghiệp tiểu học 5,2 4,2 6,3

Tốt nghiệp tiểu học 14,0 14,1 13,8

Tốt nghiệp THCS 21,1 21,7 20,5

Sơ cấp nghề 3,1 5,3 0,6

Tốt nghiệp PTTH 17,6 19,1 15,9

Trung cấp nghề 3,1 4,5 1,6

Trung cấp chuyên nghiệp 8,1 6,0 10,6

Cao đẳng nghề 1,5 2,3 0,6

Cao đẳng 7,7 5,4 10,3

Đại học trở lên 16,5 15,4 17,7

98

Nguồn: [99, tr. 41].

Qua bảng số liệu trên, có thể thấy rõ một nghịch lý là tỷ lệ những người thất

nghiệp có trình độ Đại học, cao đẳng cao hơn hẳn những người có trình độ thấp hơn.

Nếu những người thất nghiệp có trình độ cao đẳng là 7,7%, Đại học là 16,5% thì

những người thất nghiệp có trình độ sơ cấp nghề chỉ 3,1%, trung cấp nghề 3,1%, thậm

chí những người chưa đi học là 2,1%. Điều này trái với quy luật chung là nạn thất

nghiệp có mối liên hệ mật thiết, và thường là tỉ lệ nghịch với trình độ giáo dục. Thông

thường, việc tham gia đào tạo tại các cơ sở (nhà trường, trung tâm dạy nghề) làm tăng

cơ hội việc làm, tăng thu nhập từ việc làm bằng cách cung cấp tri thức, kỹ năng về

nghề nghiệp. Hay nói cách khác, những người học cao hơn (đặc biệt là đại học) là

những người có nhiều năng lực hơn, có nhiều cơ hội việc làm hơn và họ có năng suất

lao động cao hơn và thu nhập từ việc làm của họ cũng cao hơn những người chỉ học

các cấp thấp hơn. Việc trái quy luật này cho thấy việc không gặp nhau giữa cung và

cầu của công tác đào tạo và thị trường lao động. Điều này phản ánh thực trạng sinh

viên tốt nghiệp các trường Đại học, cao đẳng khó xin được việc làm hơn những người

có trình độ thấp hơn. Do những bất cập trong công tác đào tạo như vậy nên ở Việt

Nam đang xảy ra tình trạng có một lực lượng không nhỏ có trình độ đại học và trên đại

học đang làm các nghề yêu cầu chuyên môn kỹ thuật thấp hơn. Để có việc làm kỹ năng

thấp hơn này, nhiều người đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng chưa có việc làm theo

chuyên môn đã mất thêm chi phí về tài chính và thời gian quay lại học trung cấp ở

những ngành nghề phù hợp hơn, dễ tìm việc làm hơn. Thực trạng này phản ánh sự mất

cân đối trầm trọng giữa đào tạo và sử dụng lao động hiện nay, gây ra sự lãng phí lớn

về nguồn lực con người và nguồn lực tài chính của gia đình và của toàn xã hội.

Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong quý 2 năm

2016, cả nước có 1,088 triệu người lao động trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp, tăng

16.400 người so với quý 1 năm 2016. Đáng chú ý, “trong số những người bị thất

nghiệp có tới 418.200 người có chuyên môn kỹ thuật, cụ thể có 191.300 người có trình

99

độ từ đại học trở lên, 94.800 người có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp và 59.100

người có trình độ trung cấp chuyên nghiệp” [102, tr.5]. Lý giải về việc lao động có

trình độ chuyên môn thất nghiệp, đặc biệt là lao động có trình độ tốt nghiệp từ đại học

trở lên, ông Đào Quang Vinh - Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho

rằng hiện nay, Việt Nam đang thừa ở nhóm lao động mà thị trường lao động không

cần như ngành quản trị kinh doanh, kinh tế; nhưng chúng ta lại đang thiếu các kỹ sư

công nghệ, kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật. Thực tế đã cho thấy đang có độ vênh giữa

công tác đào tạo và nhu cầu tuyển dụng trên thị trường lao động. Những bất cập đó

cũng đã dẫn đến tình trạng bản thân những người lao động đã được đào tạo những lại

chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Vì vậy, trong khi nước ta đang

lãng phí một nguồn lao động lớn có chất xám thì ở nhiều cơ sở sản xuất, nhất là những

công ty, xí nghiệp lớn phải bỏ tiền thuê nhân công, người quản lý nước ngoài với giá

cao. Hơn nữa, trong nhiều cơ sở sản xuất tuy được đầu tư máy móc, công nghệ tiên

tiến nhưng trình độ của người lao động thấp nên không tận dụng hết ưu thế của công

nghệ hiện đại.

Những bất cập trong công tác đào tạo nghề cho người lao động đã khiến tỉ lệ

lao động đã qua đào tạo của Việt Nam không chỉ thấp mà còn chưa đáp ứng được với

nhu cầu của công việc. Trong các trường Đại học, cao đẳng chủ yếu mới chú trọng đến

dạy kiến thức, dạy nghề mà chưa chú ý đúng mức đến việc giảng dạy các kỹ năng

nghề nghiệp, khả năng thích ứng với thị trường và với những rủi ro, thay đổi về nghề

nghiệp, kiến thức về hội nhập... Trong khi đó, các nhà tuyển dụng đòi hỏi ngày càng

cao các kỹ năng mềm khi họ dành đến 75% số điểm khi tuyển dụng cho các kỹ năng

như (nghiệp vụ chuyên môn, tác phong, thái độ làm việc, khả năng xử lý công việc) và

chỉ có khoảng 25% số điểm còn lại là cho bằng cấp. Do chưa bắt kịp được xu thế sử

dụng lao động của doanh nghiệp và chưa đủ đội ngũ giáo viên để thay đổi ngành đào

tạo đáp ứng cầu trong thị trường lao động hướng theo sự chuyển dịch mô hình, cơ cấu

kinh tế của xã hội, các cơ sở giáo dục và các trường đại học thường đưa ra những

chương trình học và đào tạo các sinh viên tốt nghiệp ra trường với những kỹ năng

không phản ánh đầy đủ nhu cầu của thị trường lao động.

Ở Việt Nam hiện nay, cơ cấu ngành kỹ thuật chiếm khoảng 35% nhu cầu thị

trường việc làm, tuy nhiên trong nhiều năm gần đây, các trường đại học lại

100

tập trung đào tạo khối ngành kinh tế, tài chính dẫn đến sự dư thừa nguồn

nhân lực. Nếu tính người có bằng đại học trên tổng số dân thì tỉ lệ người có

bằng đại học ở nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, nhưng

tốc độ đào tạo ngày càng tăng và mất cân đối giữa cung và cầu đã dẫn đến

thừa nhân lực trình độ đại học theo kiểu cục bộ [45, tr.14].

3.2.2.4. Sự phân bố lao động, nhất là lao động đã qua đào tạo còn bất hợp lý

đã hạn chế khả năng của người lao động Việt Nam

Hiện nay, trình độ dân trí và lao động được đào tạo có sự chênh lệch lớn giữa

các vùng, các địa phương. Ở các đô thị và các vùng có điều kiện phát triển về kinh tế

- xã hội, có trình độ dân trí cao, tập trung nhiều, thậm chí dư thừa lao động có trình

độ; còn ở các vùng sâu, vùng xa trình độ dân trí nhìn chung còn lạc hậu, lao động

chủ yếu chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật:

Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất là ở Hà Nội (39,0%) và thấp nhất là

ở Đồng bằng sông Cửu Long (10,4%)....Tỉ trọng lực lượng lao động có

trình độ đại học trở lên khác nhau đáng kể giữa các vùng. Nơi có tỷ trọng

này cao nhất là Hà Nội (21,2%) và Thành phố Hồ Chí Minh (18,8%).

Ngược lại, Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất của cả nước lại là

vùng có tỉ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên thấp nhất

(4,5%) [99, tr.18].

Với mục tiêu: Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng ta xác định cần phải phát triển lực lượng sản xuất

hiện đại trên cả nước, ở các vùng miền, nhất là những vùng nông thôn, miền núi còn

gặp nhiều khó khăn: “Phát triển hài hòa giữa các vùng đô thị và nông thôn. Đẩy mạnh

phát triển các vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ

phát triển các vùng còn nhiều khó khăn. Hình thành hệ thống đô thị phân bổ hợp lý ở

các vùng; phát triển hài hòa giữa thành thị và nông thôn” [29, tr.39-40]. Đây là một

chủ trương đúng đắn góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã

hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, sự phân bổ lao động,

nhất là lao động đã qua đào tạo ở nước ta còn nhiều bất cập, mất cân đối giữa các vùng

miền, các ngành nghề sản xuất, các thành phần kinh tế.

101

Hiện nay, trong tổng số 53,748 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng

lao động mới có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm 18,6% tổng lực lượng lao

động. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo có sự chênh lệch khá lớn giữa thành thị và nông

thôn; giữa các vùng trong cả nước. “Năm 2014, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ở thành

thị là 34,7%, trong khi đó, ở nông thôn là 11,5%. Trong các vùng trên cả nước, Hà Nội

và thành phố Hồ Chí Minh là hai địa phương có tỉ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất

cả nước là 39,0% và 32,5%; trong khi đó, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và Tây

Nguyên chỉ có 10,4% và 12,6% tỷ lệ lao động đã qua đào tạo” [xem 99, tr.17]. Sự

chênh lệch đó đã tạo nên rất nhiều khó khăn cho các vùng sâu, vùng xa trong việc phát

triển lực lượng sản xuất. Do trình độ tay nghề của người lao động thấp nên người lao

động ở các vùng này hầu như chỉ lao động thủ công với máy móc lạc hậu, chưa tận

dụng được ưu thế của khoa học - công nghệ hiện đại nên năng suất lao động thấp.

Với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong những

năm qua, tỉ lệ lao động trong các ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch nhưng chưa thực

sự hợp lý. Số lao động tập trung trong các ngành nông, lâm, thủy sản vẫn chiếm gần

một nửa là 46,3%; các ngành công nghiệp và xây dựng có tỉ lệ lao động còn khá khiêm

tốn là 28,3%; các ngành dịch vụ chiếm tỉ lệ 25,4% tổng số lao động trong các ngành

[xem 99, tr.21]. Tỉ lệ lao động ở các ngành kinh tế có sự chênh lệch đáng kể giữa các

vùng, miền trên cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh có tỉ lệ lao động trong lĩnh vực công

nghiệp, xây dựng và dịch vụ cao nhất cả nước, chiếm 97,4%. Ở các vùng miền núi và

ven biển, tỉ lệ lao động làm việc trong các ngành nông, lâm, thủy sản còn khá cao; ở

Tây Nguyên là 72,6%, ở Trung du và Miền núi phía Bắc là 69,5%, ở Bắc Trung Bộ và

Duyên hải miền Trung là 53,8% [xem 99, tr.27-28]. Việc lao động nông nghiệp chiếm

tỷ lệ gần một nửa trong tổng số lao động của tất cả các ngành đã cho thấy nền kinh tế

nước ta vẫn còn là nền kinh tế nông nghiệp với trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất còn thấp. Chỉ khi lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ

chiếm đa số, hơn hẳn ngành nông nghiệp thì mục tiêu phát triển nước ta thành một

nước công nghiệp theo hướng hiện đại mới có thể trở thành hiện thực.

Không chỉ có những bất hợp lý trong việc phân bố lao động theo các ngành

kinh tế, sự phân bố này còn được thể hiện trong các loại hình kinh tế. Năm 2014, loại

hình kinh tế cá nhân/hộ sản xuất kinh doanh cá thể đang chiếm đa số với 40,4 triệu

102

người, chiếm 76,7%. Ngược lại, loại hình kinh tế tập thể vốn là loại hình kinh tế chủ

đạo trong những năm 70 của thế kỷ trước đã từng có những đóng góp to lớn vào sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì nay, số lượng lao động của loại hình

kinh tế này chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ là 0,2%. Từ năm 2009 đến nay, tỉ lệ lao

động đang làm việc ở khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang có

xu hướng tăng lên nhưng còn khá chậm với tỉ lệ tương ứng là 8,8% và 3,9%. Cơ cấu

lao động trong một số năm gần đây được thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau:

Bảng 5. Cơ cấu lao động chia theo các loại hình kinh tế

thời kỳ 2009 - 2014 (đơn vị %)

Loại hình kinh tế Năm 2009 Năm 2011 Năm 2014

Tổng số 100,0 100,0 100,0

Cá nhân/Hộ sản xuất

kinh doanh cá thể

78,6 77,8 76,7

Tập thể 0.5 0.3 0,2

Tư nhân 8,0 8,1 8,8

Nhà nước 10,0 10,4 10,4

Vốn đầu tư nước ngoài 2,9 3,4 3,9

Nguồn: [99, tr.28]

Bởi vậy, để thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch theo hướng kinh tế thị trường cần

có tham gia ngày càng đông đảo hơn nữa đội ngũ lao động vào thành phần kinh tế tư

nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

3.2.2.5. Hợp tác quốc tế về lao động còn nhiều bất cập, chưa góp phần vào

việc xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

103

Trong những năm gần đây, công tác hợp tác quốc tế về lao động ở nước ta còn

nhiều bất cập, làm cản trở đến việc người lao động tham gia vào thị trường lao động

quốc tế. Hiện nay, có khoảng hơn 500.000 lao động Việt Nam đang làm việc trên 40

quốc gia và vùng lãnh thổ với 30 nhóm ngành nghề, công việc. Kể từ năm 2011 đến

nay, mỗi năm Việt Nam đưa được khoảng trên 100.000 lao động đi làm việc ở nước

ngoài. Tuy nhiên, phần lớn lao động Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài chủ yếu là

lao động phổ thông, chưa có trình độ, tay nghề; làm việc trong các ngành nghề công

nghiệp giản đơn, nặng nhọc như xây dựng, cơ khí. Nhiều phụ nữ xuất khẩu lao động

để giúp việc gia đình, bán hàng… Do đó, thu nhập của người lao động Việt Nam ở

nước ngoài thường thấp hơn nhiều so với lao động các nước khác. Theo thống kê của

Tổ chức lao động quốc tế ILO khu vực châu Á, “xét trên mặt bằng lương tối thiểu theo

quy định, lao động tại Việt Nam vẫn có giá thành rẻ với mức trung bình dưới 50

USD/tháng, thấp hơn Jakarta (Indonesia) và Bắc Kinh (Trung Quốc) hơn 50

USD/tháng và bị Manila (Philippines) bỏ xa, với trung bình khoảng 140 USD/tháng”

[84, tr.5].

Nhìn chung, chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam thấp chưa đáp ứng

với yêu cầu ngày càng cao của thị trường, đặc biệt là thị trường có thu nhập cao. Công

tác xuất khẩu lao động còn thiếu tính chuyên nghiệp, chưa xuất phát từ nhu cầu của thị

trường. Hầu như những lao động được đưa đi xuất khẩu chưa đều chưa được đào tạo

cơ bản về ngành nghề mình sẽ làm việc, chưa được trang bị kiến thức về pháp luật,

văn hóa của nước sở tại; chưa được trang bị kỹ năng làm việc nên có tình trạng một bộ

phận lao động Việt Nam vi phạm hợp đồng đang là một vấn đề nổi cộm, bức xúc trong

công tác xuất khẩu lao động hiện nay.

Hơn nữa, công tác quản lý việc xuất khẩu lao động còn nhiều bất cập. Nhiều cơ

sở tự ý thành lập trung tâm giới thiệu việc làm và tổ chức cho người lao động đi xuất

khẩu lao động. Vì cần việc nên người lao động phải nộp số tiền lớn, chờ đợi trong thời

gian dài với nhiều rủi ro. Hành vi lừa đảo đưa người đi xuất khẩu lao động gia tăng,

gây bất ổn xã hội. Lợi dụng chính sách thông thoáng của Nhà nước về xuất khẩu lao

động, nhiều tổ chức, cá nhân đã lừa đảo tổ chức đưa người ra nước ngoài. Tại

Malaysia, Thái lan có đến hàng nghìn lao động ở các tỉnh miền Trung, như Nghệ an,

104

Hà Tĩnh, Thanh Hóa,… bị lừa đảo đưa đi bằng đường du lịch không tìm được việc làm

và sống bất hợp pháp.

Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do ở một số địa phương vẫn chưa

có doanh nghiệp, công ty nào chuyên làm nhiệm vụ xuất khẩu lao động, ký trực tiếp

với thị trường lao động các nước, mà chỉ có doanh nghiệp trong vai trò môi giới; hệ

quả là việc đi lao động xuất khẩu không mang tính bền vững và ổn định.

Tình trạng lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp tại một số nước như

Hàn Quốc, Nhật bản, Đài Loan… đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc giữ gìn và mở rộng

các thị trường này, ảnh hưởng đến uy tín của lao động Việt Nam. Nguyên nhân của

tình trạng này một phần là do mức thu nhập ở bên ngoài cao hơn so với mức mà người

lao động được hưởng khi làm việc tại các doanh nghiệp theo hợp đồng. Cùng làm tăng

thêm mức độ nghiêm trọng của vấn nạn này là việc các cam kết về hợp đồng lao động

đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam ở nước ngoài nhiều khi

không được đảm bảo, gây khó khăn, thua thiệt cho người lao động.

Hơn nữa, ở nước ta cũng chưa có chính sách định hướng, hỗ trợ cho người lao

động sau khi xuất khẩu lao động, gây nên tình trạng lãng phí trong việc sử dụng nguồn

nhân lực “hậu xuất khẩu”. Nhờ nguồn thu nhập hàng tháng cao gấp nhiều lần trong

nước, số lao động ở nước ngoài gửi về nước khoảng 1,6 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, thực

tế cho thấy, ngoài ưu tiên cải thiện cuộc sống, xây dựng nhà cửa, mua đất đai, vật dụng

gia đình,… chỉ có một số ít dùng nguồn vốn này để đầu tư sinh lợi, tự tạo việc làm

hoặc làm chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, trang trại. Mặt khác, khi trở về nước, họ

không biết dùng nguồn vốn làm gì cho hiệu quả, nên nhiều người đã trở thành tay

trắng sau vài năm về nước. Đây là một sự lãng phí rất lớn, bởi vì trước yêu cầu phát

triển, mở rộng đầu tư, nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp trong nước đều thiếu

nguồn nhân lực có trình độ. Để đào tạo được một lao động đạt trình độ kỹ thuật, tay

nghề cao ở trong nước, nhà nước và người lao động phải đầu tư một số tiền khá lớn.

Thế nhưng, nhiều năm qua nhiều địa phương hầu như chưa quan tâm và có chiến lược

tái sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu trở về. Trừ một số ít lao động tái đăng ký đi

nước ngoài làm việc, số đông còn lại chưa hội nhập vào thị trường lao động trong

nước để phát huy các kỹ năng mà họ đã học hỏi được ở nước ngoài. Thực tế cho thấy,

nếu được chính quyền, các cơ quan chức năng tại địa phương quan tâm bằng cách tư

105

vấn, hoặc giới thiệu việc làm phù hợp với tay nghề, kỹ thuật, thì lực lượng lao động

xuất khẩu từ nước ngoài về sẽ đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở

địa phương.

Như vậy, những hạn chế trong công tác xuất khẩu lao động khiến cho đội ngũ

những người lao động ở Việt Nam được đưa đi làm việc đều tăng lên qua các năm

nhưng chưa thực sự tạo nên những chuyển biến đáng kể về chất cho người lao động

nước ta. Hơn nữa, những người lao động này chưa đóng góp nhiều cho việc hiện đại

hóa lực lượng sản xuất, chưa góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa về lực lượng

sản xuất ở Việt Nam.

Tiểu kết chương 3

Sau hơn 30 năm đổi mới, nhìn chung trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

ở Việt Nam đã được cải thiện. Công cụ lao động được cải tiến, nhiều đối tượng lao

động mới được ra đời thay thế cho những đối tượng tự nhiên đang dần cạn kiệt, các

phương tiện sản xuất được hiện đại hóa; khoa học - công nghệ hiện đại được ứng dụng

ngày càng nhiều vào quá trình sản xuất, mang lại diện mạo mới cho sự phát triển của

lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại. Tuy nhiên, so với các nước trong

khu vực và trên thế giới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta còn ở

mức độ thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất hiện đại, chưa thực sự góp

phần đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến tới mục tiêu phấn đấu đưa

nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như định

hướng ban đầu của Đảng.

Là nhân tố quan trọng đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản

xuất hiện đại, so với trước kia, người lao động Việt Nam đã được cải thiện về thể lực,

sức khỏe; trình độ, tay nghề; khả năng thích nghi, tính sáng tạo... Tuy nhiên, con người

Việt Nam nói chung và người lao động nước ta vẫn còn nhiều hạn chế về thể lực, với

trình độ tay nghề còn thấp; ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường sinh

thái chưa cao. Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến độ bền, sự dẻo dai, tính chuyên nghiệp,

khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại của người lao động

nước ta. Những hạn chế đó bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản như nền kinh tế

chậm phát triển; cơ chế, chính sách xã hội; công tác giáo dục - đào tạo về lao động;

106

công tác xuất khẩu lao động còn nhiều hạn chế, bất cập. Do đó, cần có những giải pháp

thiết thực, có tính khả thi để khắc phục những hạn chế trên, góp phần phát triển lực

lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Chương 4

NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN

NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA

LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM

107

4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI

LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở

VIỆT NAM

Để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất

hiện đại ở Việt Nam, cần dựa trên những quan điểm cơ bản sau:

4.1.1. Coi người lao động là trung tâm, có ý nghĩa quyết định trong lực

lượng sản xuất hiện đại

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển lực lượng sản

xuất là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất nhằm tạo ra những tiền đề về vật chất - kỹ thuật

cho nền kinh tế. Vì lực lượng sản xuất được cấu thành bởi nhiều yếu tố trong đó người

lao động là nhân tố quan trọng đóng vai trò quyết định nên để phát triển lực lượng sản

xuất hiện đại cần quán triệt quan điểm coi người lao động là trung tâm sự phát triển.

Quan điểm coi người lao động là trung tâm của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện

đại cần được hiểu ở cả hai khía cạnh: người lao động vừa là điểm xuất phát của mọi

chiến lược phát triển, vừa là mục tiêu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ hiện đại, nhiều

người đã cho rằng khoa học - công nghệ chính là chìa khóa vạn năng. Thậm chí, khoa

học - công nghệ đang dần thay thế sức lao động của con người để trở thành chủ nhân

của quá trình sản xuất. Do đó, khoa học - công nghệ đang trở thành tiêu chí để phân

biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế, giữa hình thái kinh tế - xã hội này với hình

thái kinh tế - xã hội khác. Vì vậy, ở nhiều cơ sở sản xuất chỉ chú trọng đến việc đầu tư

các máy móc, trang thiết bị sản xuất hiện đại mà không chú ý đến việc nâng cao trình

độ, tay nghề cho người lao động. Mặc dù chúng ta không thể phủ nhận được vai trò to

lớn của khoa học - công nghệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại nhưng

đúng như nhiều nhà nghiên cứu lý luận khẳng định: “Khoa học, kỹ thuật dù phát triển

mạnh mẽ đến đâu, có sức mạnh to lớn như thế nào thì cũng không thể đẩy con người

ra ngoài quá trình sản xuất xã hội nói chung mà chỉ thay thế những hoạt động lao động

nặng nhọc phức tạp, giúp cho con người có điều kiện tốt hơn để học tập, phát triển trí

tuệ” [13, tr.23].

108

Như vậy, trong bất cứ thời đại nào, người lao động vẫn luôn là điểm xuất phát

của quá trình sản xuất vật chất vì người lao động chính là người tạo ra tư liệu sản xuất,

ứng dụng khoa học - công nghệ sản xuất và quản lý, điều hành quá trình sản xuất ấy.

Người lao động không chỉ là xuất phát điểm của quá trình sản xuất mà còn phải

là mục tiêu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Khi lực lượng sản xuất phát

triển, năng suất lao động nâng cao, cần hướng đến việc tiếp tục phát triển người lao

động cả về thể lực, sức khỏe; tri thức, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp cũng như đời sống

tinh thần để họ phát triển một cách toàn diện hơn. Điều đó giúp cho người lao động có

thể tham gia vào quá trình sản xuất một cách tích cực và có hiệu quả hơn.

Như vậy, cần quán triệt quan điểm coi người lao động là trung tâm của sự phát

triển lực lượng sản xuất hiện đại. Có như vậy, chúng ta mới có thể có được những

đường lối, chính sách cần thiết và phù hợp nhằm tiếp tục phát triển những thế mạnh,

hạn chế những yếu kém của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt

Nam trong thời gian tới.

4.1.2. Phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại

phải gắn với chiến lược phát triển bền vững của đất nước

Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát

triển của xã hội loài người. Quan điểm phát triển bền vững đã trở thành đường lối,

quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước.

Quan điểm phát triển bền vững của Đảng ta đã được cụ thể hóa qua luận điểm:

Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu

phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều

sâu; vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả,

tính bền vững; từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài

nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang tăng trưởng chủ yếu do áp dụng

tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng

suất lao động và chất lượng sản phẩm, phát triển công nghiệp, nông nghiệp,

dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh trnah lớn gắn với

phát triển kinh tế tri thức; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường [29, tr.37-38].

109

Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều Chỉ thị, Nghị quyết khác của

Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai

thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và

thu được những kết quả bước đầu; nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi

vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.

Trong những năm qua, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn còn dựa nhiều

vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao động còn thấp; công nghệ sản

xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều

chất thải. Dân số tăng nhanh, tỉ lệ hộ nghèo còn cao; các dịch vụ cơ bản về giáo dục và

y tế hiện còn bất cập, các loại tệ nạn xã hội chưa được ngăn chăn triệt để... đang là

những vấn đề bức xúc. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử

dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại

nghiêm trọng, ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động.

Nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu cầu về phát triển bền vững ít có

đủ điều kiện vật chất để thực hiện. Đầu tư được tập trung chủ yếu cho những công

trình mang lại lợi ích trực tiếp, còn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên

nhiên và bảo vệ môi trường. Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác chưa

thuộc loại cao và chưa tới giới hạn nguy hiểm, song nó đang tăng lên nhanh chóng và

sẽ có nguy cơ đe doạ tính bền vững của sự phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn

vay chưa được sử dụng có hiệu quả. Mức độ chế biến, chế tác nguyên vật liệu trong

nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp và mức độ chi phí nguyên, nhiên, vật liệu cho một

đơn vị giá trị sản phẩm còn cao; sản phẩm tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu

phần lớn là sản phẩm thô; sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là theo chiều rộng...trong khi

đó những nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ có hạn và đã bị khai thác đến mức tới hạn.

Xu hướng giảm giá các sản phẩm thô trên thị trường thế giới gây ra nhiều khó khăn

cho tăng trưởng nông nghiệp ở Việt Nam. Với cơ cấu sản xuất như hiện nay, để đạt

được một giá trị thu nhập như cũ từ thị trường thế giới, Việt Nam đã phải bán đi một

số lượng hàng hoá hiện vật nhiều hơn trước.

Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng, tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc,

tỷ lệ hộ nghèo còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với sự phát triển bền vững. Chất

lượng nguồn nhân lực còn thấp. Số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu

110

ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Vì

vậy, nguồn lao động trong sản xuất ở nước ta chủ yếu mới chỉ là lao động thô, phần

nhiều mang tính thời vụ, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất lâu dài.

Bởi vậy, để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, cần quán triệt quan điểm phát

triển bền vững. Cần coi phát triển kinh tế tiếp tục là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn

phát triển sắp tới, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững, bảo

đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa

với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên

nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường bền vững. Ngoài

ra, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ

hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Tạo lập điều kiện

để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được

tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công bằng những lợi ích công

cộng, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hoá tốt đẹp cho những thế hệ mai

sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được, gìn giữ và cải thiện

môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với môi trường; xây

dựng lối sống lành mạnh, hài hoà, gần gũi và yêu quý thiên nhiên. Ngoài ra, công nghệ

hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các

ngành sản xuất, trước mắt cần được đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và lĩnh vực sản

xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành

và lĩnh vực sản xuất khác.

Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại theo hướng bền vững, cần quán triệt

quan điểm phát triển nhân tố người lao động một cách bền vững. Cần ưu tiên phát triển

theo chiều sâu, ưu tiên phát triển về chất lượng như trình độ tay nghề, ý thức lao động,

ý thức bảo vệ môi trường sinh thái để nguồn lao động nước ta vừa có thể đáp ứng được

những yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại, vừa có thể tham gia ngày càng

nhiều vào thị trường của các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển nhân tố

người lao động trong lực lượng sản xuất ở nước ta cần hướng đến mục tiêu phát triển

kinh tế tri thức, sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

4.1.3. Phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại

một cách toàn diện

111

Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất không phải là một khái niệm

trừu tượng mà được tạo thành bởi các yếu tố cụ thể như thể lực, trí lực và tâm lực. Mỗi

yếu tố lại đóng vai trò, vị trí khác nhau. Thể lực của người lao động là cơ sở của quá

trình sản xuất vật chất, giúp họ đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao động

trong quá trình sản xuất với những công việc khác nhau. Trí lực là yếu tố đóng vai trò

quyết định sự sáng tạo của người lao động, giúp họ không ngừng cải tiến quá trình sản

xuất một cách có hiệu quả hơn. Tâm lực tạo ra động cơ bên trong của người lao động,

thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của người lao động, góp phần vào việc phát huy vai

trò của các yếu tố thể lực và trí lực của người lao động với tư cách là chủ thể của quá

trình sản xuất vật chất. Như vậy, để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng nhu cầu

của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, cần chú ý phát triển tất cả các

yếu tố cấu thành nên nhân tố người lao động như thể lực, trí lực và tâm lực. Quan điểm

phát triển toàn diện con người nói chung cũng như phát triển người lao động nói riêng

đã được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh ở Đại hội XII: “Xây dựng môi trường văn hóa

lành mạnh, tạo điều kiện để con người Việt Nam phát triển toàn diện, đẹp về nhân

cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất,

phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc” [31,

tr.29].

Một trong những tiêu chí đánh giá sự khác biệt của lực lượng sản xuất hiện đại

so với lực lượng sản xuất trước kia là yếu tố trí tuệ, tri thức của người lao động trở

thành yếu tố nổi trội, đánh dấu sự khác biệt về chất của người lao động trong giai đoạn

hiện nay so với các giai đoạn trước. Do đó, để phát triển nhân tố người lao động đáp

ứng nhu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại, ngoài việc triển đồng bộ tất cả các yếu tố

cấu thành của người lao động nói chung, cần nhấn mạnh và chú ý hơn đến việc phát

triển yếu tố trí lực để tạo ra những lợi thế so sánh nổi bật của người lao động nước ta

trong bối cảnh hiện nay.

Khi phát triển các yếu tố cấu thành của nhân tố người lao động trong lực lượng

sản xuất hiện đại cần có những chiến lược toàn diện, đồng bộ và dài hạn để cải thiện cả

về thể lực, trí lực và tâm lực cho người lao động nước ta. Ngoài ra, cũng cần chú ý đến

tính đặc thù của từng ngành kinh tế, từng vùng miền để ưu tiên phát triển thế mạnh về

lao động ở các ngành và các vùng miền đó.

112

Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi phải phát triển tất cả các mặt cấu thành nên

nhân tố người lao động. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, để phát triển lực lượng

sản xuất hiện đại cần chú trọng đào tạo tri thức, tay nghề cho người lao động để tạo ra

những sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao. Ưu tiên vào các lĩnh vực sản xuất mũi nhọn,

công nghệ cao; hướng đến những lĩnh vực sản xuất mới nhằm tạo ra những bước đột

phá trong phát triển sản xuất hiện đại.

Quan điểm toàn diện cũng cần hướng tới việc khắc phục sự phân bố không

đồng đều, mất cân đối về lao động, nhất là lao động đã qua đào tạo ở các vùng miền

trong cả nước và các ngành kinh tế quốc dân. Mặc dù mục tiêu của quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa là phấn đấu sớm đưa Việt Nam trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại nhưng hiện nay, gần 70% lao động nước ta tập trung ở

nông thôn. Hơn nữa, phần lớn lực lượng lao động này lại chưa qua đào tạo. Điều đó

ảnh hưởng lớn đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở

nước ta. Đa phần lực lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta tập trung ở các thành

phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, ở những nơi này thường xuyên

xảy ra tình trạng dư thừa lao động đã qua đào tạo, thậm chí một bộ phận không nhỏ

lực lượng lao động chấp nhận làm trái công việc, ngành nghề đã được đào tạo để ở lại

các thành phố lớn. Trong khi đó, ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ lao

động đã qua đào tạo lại rất thấp nên không tạo ra được những bước đột phá trong việc

ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ và cải tiến quy trình sản xuất. Sự

mất cân đối trong việc phân bổ lao động, nhất là nguồn lao động có tay nghề, có trình

độ chuyên môn kỹ thuật đã tạo nên sự chênh lệch đáng kể về trình độ phát triển của

lực lượng sản xuất trên các vùng miền của nước ta.

Không chỉ có vậy, ngay bản thân các ngành nghề sản xuất cũng có sự phân bố

lao động không đồng đều. Trong khi một số ngành công nghiệp sử dụng công nghệ

cao với đội ngũ kỹ sư, công nhân lành nghề rất đông đảo thì cũng không ít ngành vẫn

chủ yếu sử dụng nguồn lao động thủ công, với trình độ tay nghề thấp. Sự chênh lệch

này đã tạo ra một khoảng cách lớn, một sự mất cân đối đáng kể giữa trình độ, tay nghề

của người lao động ở các ngành kinh tế khác nhau.

Mặc dù không thể phủ nhận được thế mạnh của một số vùng miền, một số

ngành kinh tế nhưng để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, cần tính đến tính tổng

113

thể, toàn diện, đồng bộ. Do đó, phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản

xuất hiện đại cần phải đảm bảo được tính cân đối, hài hòa giữa các vùng miền, các

thành phần kinh tế.

4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI LAO

ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT

NAM

Để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất

hiện đại ở Việt Nam trong những năm tiếp theo, cần chú ý đến những giải pháp cơ bản

như sau:

4.2.1. Thực hiện tốt chính sách nâng cao thể lực, sức khỏe, cải thiện tầm

vóc cho người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại

Để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất

hiện đại, một trong những giải pháp trước tiên cần thực hiện là nâng cao thể lực, sức

khỏe cho người lao động bởi đó là điều kiện đầu tiên đảm bảo sự đáp ứng và thích

nghi của người lao động với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.

Để nâng cao thể lực và sức khỏe cho người lao động, Nhà nước cần có những

chiến lược cụ thể. Điều này cũng đã được Đảng ta khẳng định ở Đại hội XI của Đảng:

“Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người

Việt Nam” [29, tr.129]. Cần xây dựng chiến lược cụ thể về dinh dưỡng để cải thiện

tầm vóc của người Việt Nam, từng bước thoát khỏi tình trạng “thấp bé nhẹ cân”. Để

tạo nên những người lao động khỏe mạnh, có tầm vóc ngang hàng với các nước trong

khu vực và tương xứng với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, cần quan tâm đến chế

độ dinh dưỡng cho người Việt ngay từ khi còn nhỏ, tích cực hỗ trợ những vùng, những

địa phương gặp nhiều khó khăn về kinh tế để cải thiện chế độ ăn uống, dinh dưỡng cho

trẻ em bởi đó chính là chủ nhân tương lai của nền sản xuất hiện đại. Cần xây dựng tiêu

chuẩn dinh dưỡng phù hợp, nhất quán; đồng thời giáo dục, tư vấn mọi người thực hiện

theo đúng chế độ dinh dưỡng đã đề ra.

Một trong những việc để cải thiện thể lực, sức khỏe cho người lao động là công

tác chăm sóc sức khỏe. Hiện nay, do điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn

nên ở một số nơi, công tác chăm sóc sức khỏe cho người lao động còn nhiều hạn chế.

Nhiều cơ sở sản xuất, nhất là cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là những cơ sở tư nhân

114

còn thoái thác trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho người lao động như không mua bảo

hiểm, nợ bảo hiểm của người lao động; không tổ chức khám sức khỏe định kỳ hoặc tổ

chức khám một cách qua loa… Do đó, sức khỏe của người lao động không được đảm

bảo. Điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất. Ở

Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ đạo: “Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã

hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… Khuyến

khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình

bảo hiểm” [29, tr.125-126]. Ở Đại hội XII, Đảng ta còn nhấn mạnh thêm: “Thực hiện

tốt chính sách bảo hiểm y tế cho toàn dân, đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao

chất lượng dịch vụ y tế” [31, tr.139].

Trong thời gian qua, hệ thống bảo hiểm ở nước ta đã được mở rộng nhưng hoạt

động chưa thực sự hiệu quả. Do đó, cần thắt chặt hơn nữa hoạt động của các đơn vị

bảo hiểm, nhất là bảo hiểm xã hội qua việc chăm sóc sức khỏe và bù đắp thiệt hại cho

người lao động trong những trường hợp gặp rủi ro trong lao động. Việc giải quyết thủ

tục bảo hiểm cần nhanh gọn, hiệu quả. Đẩy mạnh việc phát triển hệ thống bảo hiểm

thất nghiệp để hỗ trợ người lao động trong những khi mất việc, tạo điều kiện cho họ có

thời gian tìm kiếm việc làm mới, góp phần giảm thiểu tính trạng thất nghiệp và lãng

phí nguồn lao động ở nước ta hiện nay.

Ngoài ra, cần tích cực hạn chế tỉ lệ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Các

cơ sở sản xuất, cơ quan quản lý lao động cần trang bị cho người lao động kiến thức, kỹ

năng phòng tránh tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; trang bị cho người lao động

những công cụ lao động hiện đại để giảm thiểu sức lao động cơ bắp, thủ công, hạn chế

bệnh nghề nghiệp. Khi tai nạn lao động xảy ra, cần tiến hành cấp cứu và xử lý kịp thời.

Các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất cần cam kết và thực hiện an toàn lao động bằng

cả trách nhiệm và lương tâm của mình. Nhà nước tăng cường việc quản lý, giám sát về

tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh.

Các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc khám sức khỏe định kỳ cho người lao

động để nắm bắt được tình hình sức khỏe của người lao động. Từ đó, có sự bố trí lao

động hợp lý dựa trên năng lực, trình độ, cũng như sức khỏe của người lao động; ưu

tiên đối với lao động nữ, lao động đang trong giai đoạn mang thai, nuôi con nhỏ.

Tuyên truyền, giáo dục cho họ ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường làm

115

việc để đảm bảo sức khỏe, tránh những bệnh nghề nghiệp, bệnh do ô nhiễm môi

trường gây nên.

4.2.2. Đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ để

không ngừng nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động

Để thực sự tạo nên những bước chuyển biến về chất của nhân tố người lao động

đáp ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện đại, không thể không chú đến việc đẩy mạnh

phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ bởi đây là một giải pháp thiết thực

và hữu hiệu nhất nhằm nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động. Từ Đại hội X

(năm 2006), Đảng ta đã xác định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công

nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước” [28, tr.94-95]. Đây là một quan điểm đúng đắn nhằm nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực nói chung và người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở

Việt Nam nói riêng.

Qua 30 năm đổi mới, nền giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể,

góp phần to lớn vào sự nghiệp nâng cao dân trí, tăng cường nhân lực, bồi dưỡng nhân

tài cho đất nước. Tuy nhiên, xét ở góc độ kinh tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở

nước ta vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Giáo dục

còn mang tính lý thuyết nhiều hơn thực hành, lý luận nhiều hơn ứng dụng nên người

học mới chỉ có khả năng “biết” chứ chưa có nhiều kỹ năng “làm”. Do đó, để cải tiến

chất lượng của người lao động, cần có những biện pháp đồng bộ về giáo dục - đào tạo;

kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ.

Thứ nhất, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo nghề cho người lao động.

Để nâng cao chất lượng của người lao động, quan trọng nhất là đào tạo nghề

cho họ. Nội dung chương trình đào tạo nghề cần thiết thực, tập trung vào những năng

lực chuyên môn then chốt. Đây là giải pháp chính nhằm cung cấp cho người học

những tri thức về nghề nghiệp của họ.

Thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho lao động tuy đã có những chuyển biến

tích cực, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, chưa đáp ứng

được yêu cầu đặt ra và chưa gắn với nhu cầu sản xuất, kinh doanh, nhiều trường hợp

doanh nghiệp phải đào tạo lại mới có thể sử dụng được. Một số địa phương, nhu cầu

116

về công nhân kỹ thuật công nghiệp tại các huyện thị khá cao, trong khi ngành nghề đào

tạo cho lao động nông thôn của tỉnh lại thiên về kỹ thuật nông nghiệp. Ở một số tỉnh,

hệ thống các khu công nghiệp phát triển nhanh, nhu cầu công nhân lành nghề về công

nghiệp nặng tăng nhưng tỉnh lại mở các lớp may công nghiệp, trồng cây cảnh, hoặc

nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, có tình trạng đúng chuyên môn đào tạo nhưng chất

lượng nguồn nhân lực thấp không đáp ứng được nhu cầu lao động của doanh

nghiệp. Thực trạng đó đã gây ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu không đáp ứng được

nhu cầu lao động thực tế của địa phương. Điều này đã được Đảng ta chỉ rõ ở Đại hội

XII: “Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu

của thị trường lao động, chưa chú trọng đến giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng làm

việc” [31, tr.114]. Những thiếu sót trong nội dung và cách thức đào tạo đó đã khiến

người lao động đã được đào tạo nghề nhưng khi làm việc tại các doanh nghiệp, khu

công nghiệp lại không đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Do đó, công tác đào tạo nghề cho người

lao động cần phải bám sát với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng

địa phương, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh để có hiệu quả thiết thực đúng như

Đảng ta đã định hướng: “Phát triển giáo dục và đào tạo cần gắn với nhu cầu phát triển

kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu

cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” [31, tr.115].

Nội dung đào tạo nghề cần hướng vào thực tiễn, gắn với nhu cầu của địa

phương, doanh nghiệp và của xã hội. Điều này cũng đã được Đảng ta nhấn mạnh trong

Đại hội XI như sau: “Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của

công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, các ngành nghề. Thực hiện liên kết

chặt chẽ giữa doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để

phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu của xã hội” [29, tr.130]. Trong nền sản xuất

hiện đại, người lao động không chỉ cần có một kỹ năng nghề nghiệp nhất định mà còn

cần có những kỹ năng tổng hợp, liên ngành nên nội dung đào tạo nghề vừa đảm bảo

tính chuyên sâu, vừa cần có sự tích hợp kiến thức liên ngành để trang bị cho người học

kiến thức phong phú, khả năng thích nghi với những thay đổi về nghề nghiệp và có

nhiều cơ hội hơn về việc làm. Ngoài ra, nội dung chương trình đào tạo nghề cũng cần

được thường xuyên cập nhật kiến thức giúp cho người học nắm bắt được nhu cầu và

xu hướng phát triển của xã hội, của ngành nghề và của địa phương. Để những người

117

công nhân trở thành những người lao động hiện đại, song song với việc truyền đạt kiến

thức, kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị cho họ những kiến thức tiêu chuẩn an toàn sản

phẩm, về thị trường, kiến thức kinh doanh trong điều kiện hội nhập.

Trong chương trình đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn cần chú trọng phát

triển các ngành nghề thủ công. Đó là những ngành nghề có thể tự đào tạo, bồi dưỡng

tại địa phương. Đào tạo nghề ở nông thôn không thể không chú trọng việc phát triển

các ngành nghề thủ công, nhất là việc thực hiện “mỗi làng, một nghề” đang được triển

khai. Trong nông thôn đang có một số nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống cần được

bảo tồn và có khả năng phát triển, cần được quan tâm và đưa vào chương trình dạy

nghề. Cụ thể như: chế biến gỗ, sơn mài, chạm, khảm; làm đồ gốm, đồ đồng; nghề mây

tre đan, nghề thêu ren, nghề dệt, lụa, thổ cẩm…

Để người lao động Việt Nam có thể thích nghi với nền sản xuất hiện đại trong

điều kiện hội nhập quốc tế, nội dung đào tạo nghề cho người lao động không chỉ

hướng đến việc trang bị kiến thức về nghề nghiệp mà còn trang bị cả kiến thức về tin

học, ngoại ngữ, thị trường, hội nhập… Người lao động hiện đại cần được đào tạo cả

tác phong làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức bảo vệ môi trường, tinh thần hợp tác

trong lao động sản xuất… Điều đó sẽ góp phần tạo nên tính chuyên nghiệp cho người

lao động Việt Nam trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đáp ứng nhu cầu của

cả thị trường trong nước và quốc tế.

Thứ hai, đổi mới phương pháp, cách thức đào tạo nghề cho người lao động.

Đào tạo nghề là đào tạo gắn với thực tiễn nên để người học thực sự hứng thú và

thu được hiệu quả trong việc học nghề, cần đổi mới mạnh mẽ hình thức đào tạo nghề ở

nước ta hiện nay. Đào tạo nghề không chỉ cần trang bị kiến thức cho người học mà còn

hướng họ đến việc tự học, tự sáng tạo, tự nghiên cứu, đánh giá hoạt động học tập của

mình dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt của người thầy. Dạy nghề không chỉ dạy bằng các

phương pháp truyền thống mà còn cần kết hợp với các phương pháp giảng dạy tích

cực, với những phương tiện hiện đại. Kết quả của quá trình học nghề là cần thu nhận

được ngay những kiến thức về nghề nghiệp để áp dụng vào quá trình sản xuất nên khi

học, người học cần được tiếp xúc trực tiếp với các loại máy móc, nông cụ. Đào tạo

nghề cho lao động công nghiệp cần gắn với đặc thù của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất;

còn đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn cần chú ý đến tính đa dạng vùng miền và

118

tính đặc thù của người nông dân và lao động nông thôn như trình độ học vấn không

đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh tác… Do đó, việc tổ chức các khóa

đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào

tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình đào tạo phải gắn với học liệu sinh động,

đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.

Thứ ba, tích cực áp dụng những tiến bộ của khoa học - công nghệ vào sản xuất

để nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động.

Trong thời gian qua, những thành quả của khoa học - công nghệ hiện đại đã góp

phần to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay. Khoa

học - công nghệ không chỉ cải tiến công cụ lao động, tạo ra những đối tượng lao động

mới theo hướng thân thiện và bền vững với môi trường, thúc đẩy sự phát triển của

phương tiện sản xuất, hạ tầng cơ sở trong sản xuất mà còn góp phần đáng kể trong việc

nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động. Nếu một doanh nghiệp, một cơ sở sản

xuất sử dụng những loại máy móc tiên tiến, có trình độ công nghệ cao thì để thích

nghi, người lao động phải tự học hỏi, tìm tòi, không ngừng nâng cao nhận thức và

trình độ tay nghề của mình để có thể sử dụng, vận hành các loại máy móc ấy. Khi công

nghệ được sử dụng vào sản xuất, để đạt được năng suất lao động cao, người lao động

phải tự học hỏi để có thể ứng dụng được những tiến bộ của khoa học - công nghệ vào

sản xuất. Do đó, việc tích cực áp dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện

đại vào sản xuất sẽ tạo ra “cú hích” quan trọng để người lao động tự thấy mình cần

phải nâng cao trình độ, tay nghề, tích cực tìm tòi cải tiến sáng kiến kỹ thuật để ứng

dụng vào sản xuất. Ở Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh việc đẩy mạnh việc ứng

dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất thông qua việc đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế

đầu tư tài chính: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức hoạt

động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư, cơ chế tài

chính để giải phóng năng lực sáng tạo, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào

hoạt động thực tiễn” [30, tr.28].

Thứ tư, đào tạo nghề cho người lao động cần gắn với định hướng nghề nghiệp

và giải quyết việc làm.

Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng của công tác đào tạo nghề là

người lao động sau khi tham gia học nghề có việc làm, có thể sử dụng những kiến thức

119

đã học vào sản xuất. Trong thời gian qua, ở nước ta, công tác đào tạo nghề chưa gắn

liền với công tác định hướng nghề nghiệp và giới thiệu việc làm cho người lao động

nên nhiều người đã tham gia đào tạo nhưng vẫn không có việc làm, hoặc làm việc trái

với ngành nghề được đào tạo. Tại Đại hội Đảng XI, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đẩy

mạnh dạy nghề và tạo việc làm. Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng,

chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hóa” [29, tr.125]; “Tạo cơ

hội để mọi người có việc làm và đảm bảo thu nhập” [31, tr.136]. Đây là một chủ

trương đúng đắn nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo nghề ở nước

ta hiện nay.

Việc đào tạo nghề cho lao động công nghiệp cần phải gắn bó chặt chẽ với công

tác định hướng về nghề nghiệp để người lao động có mục tiêu, động cơ phấn đấu. Các

cơ sở đào tại nghề cần gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất để giải

quyết việc làm cho lao động sau khi tham gia đào tạo nghề. Nếu khi đã được đào tạo

nghề mà người lao động vẫn không có việc làm sẽ gây ra tình trạng lãng phí nguồn lao

động đã qua đào tạo.

4.2.3. Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, phù hợp tạo điều

kiện phát huy tốt những khả năng của người lao động Việt Nam

Để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng nhu cầu của lực lượng sản xuất

hiện đại, cần chú ý đến việc phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của họ. Đó là

đòn bẩy quan trọng để người lao động phát huy được vai trò của mình trong phát triển

lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay. Một khi tính tích cực trở thành lối

sống thường trực của người dân lao động thì khi đó, mọi chủ trương, kế hoạch sản xuất

kinh doanh sẽ được thực hiện một cách có hiệu quả.

Ở Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ đạo: “Thực hiện tốt chính sách về lao động, việc

làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người

lao động. Bảo đảm quan hệ lao động hài hòa, cải thiện môi trường và điều kiện lao

động” [29, tr.125].

Quan điểm đó cần được cụ thể hóa bằng những giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, xây dựng chính sách tiền lương hợp lý đảm bảo lợi ích kinh tế cho

người lao động.

120

Để phát huy tính tích cực của người lao động trong phát triển lực lượng sản

xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, cần xây dựng được chính sách tiền lương hợp lý

dựa trên nguyên tắc công bằng xã hội, tránh tình trạng giải quyết lợi ích theo kiểu bình

quân. Tiền lương, tiền công của người lao động cần căn cứ vào năng lực thực tế của

họ, không chỉ đảm bảo lợi ích vật chất mà còn tạo điều kiện để người lao động nâng

cao đời sống tinh thần, tái sản xuất sức lao động và làm việc một cách hiệu quả hơn.

Vì vậy, cần “Xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công, khắc phục cơ

bản những bất hợp lý” [31, tr.136]. Đây là một giải pháp hữu hiệu và cần thiết nhằm

giải quyết lợi ích kinh tế cho người lao động. Mặc dù công cuộc đổi mới đã khơi dậy

tính tích cực của người lao động, biến nó thành nguồn sức mạnh to lớn để đưa đất

nước vượt qua những khó khăn, thử thách song nếu chỉ dựa vào tinh thần tích cực và ý

chí vươn lên đơn thuần của người lao động, chúng ta không thể xây dựng được một

nền sản xuất hiện đại. Vì vậy, việc xây dựng chính sách tiền lương hợp lý là một trong

những điều kiện cần thiết để tác động vào lợi ích kinh tế của người lao động Việt Nam

hiện nay.

Thứ hai, xây dựng môi trường dân chủ hóa đời sống kinh tế cho người lao

động.

Để kích thích tính chủ động, tích cực của người lao động trong phát triển lực

lượng sản xuất hiện đại, không chủ quan tâm đến nhu cầu, lợi ích kinh tế mà còn cần

chú ý đến cả lợi ích về xã hội của họ. Một trong những công cụ để thực hiện lợi ích ấy

là dân chủ hóa đời sống xã hội, trước hết là dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế. Bản

chất của dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế là trong giới hạn pháp luật, người lao động

phải được tự do sản xuất, kinh doanh. Họ được phép làm tất cả những gì không cấm

như tự do được lựa chọn công việc, nghề nghiệp phù hợp với khả năng của mình, được

hưởng quyền bảo vệ tài sản và thu nhập hợp pháp từ sức lao động mà mình bỏ ra. Dân

chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế còn tạo điều kiện cho người lao động được hưởng đúng

với thành quả lao động và đóng góp của mình. Trên con đường thực hiện dân chủ hóa,

Nhà nước cần mở rộng dân chủ cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh. Các chính sách

thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế của Nhà nước cần định hướng vào việc nâng

cao tính tích cực của người lao động như cần có chính sách ưu đãi, thu hút và trọng

dụng những nhân tài trong sản xuất, nhất là đội ngũ lao động có tay nghề, có chuyên

121

môn kỹ thuật trong các ngành kinh tế mũi nhọn, những vùng kinh tế trọng điểm và cả

những vùng kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài việc tạo điều kiện về vật chất, cần

quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần của người lao động để họ được yên tâm lao

động, cống hiến cho xã hội.

Thứ ba, tích cực cải thiện điều kiện sống, điều kiện làm việc và môi trường xã

hội cho cho người lao động.

Để phát huy tinh thần và trách nhiệm của người lao động trong phát triển lực

lượng sản xuất hiện đại, cần tích cực cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc của

họ. Việc cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc của người lao động phải nhằm

đạt hiệu quả trước mắt là đáp ứng tốt nhu cầu ăn ở, học tập, đi lại, chữa bệnh của

người lao động; đồng thời, xét về lâu dài nhằm tạo ra thế hệ người lao động mới có thể

lực tốt, sức khỏe dẻo dai, tinh thần thoải mái thích hợp với môi trường sống và làm

việc hiện đại.

Hiện nay, người lao động nước ta đang sống và làm việc trong môi trường của

nền kinh tế thị trường. Môi trường đó không chỉ tạo ra những thuận lợi mà còn đặt ra

những thử thách rất lớn cho bản thân mỗi người lao động. Xét về mặt thuận lợi, nền

kinh tế thị trường giúp cho người lao động thay đổi những tập quán sản xuất lạc hậu,

tự cấp, tự túc khép kín, phụ thuộc của nền sản xuất bao cấp trước đây; giúp người lao

động chủ động, tích cực, cạnh tranh trong quá trình sản xuất. Nền kinh tế thị trường

đòi hỏi mỗi người lao động phải tự mình vươn lên để tạo ra những sản phẩm tốt, đáp

ứng nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, cũng vì thế mà kinh tế thị trường tạo ra những

hệ quả xấu cho người lao động, trong đó biểu hiện trước tiên là rơi vào tình trạng phụ

thuộc vào những sản phẩm của sản xuất hàng hóa (đó là tệ “sùng bái hàng hóa” như

C.Mác đã từng nói). Từ đó, mối quan hệ giữa người với người bị quan hệ vật chất chi

phối nên một bộ phận người lao động cũng có tâm lý chụp giật, cạnh tranh khốc liệt vì

lợi ích của đồng tiền, đạo đức suy đồi… Bởi vậy, người lao động trong nền sản xuất

hiện đại cần được định hướng một cách đúng đắn về kinh tế thị trường, cần được trang

bị những hiểu biết, tri thức về môi trường làm việc, môi trường xã hội để họ có thể có

những lựa chọn đúng đắn về nghề nghiệp, xác định rõ trách nhiệm của mình với công

việc và với nền sản xuất xã hội nói chung.

122

Để phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của người lao động là công nhân, cần mở

rộng cơ hội cho công nhân mua cổ phần trong doanh nghiệp, nhằm góp phần xây dựng

quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, giảm thiểu tranh chấp lao động và đình

công trong doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng nhà nước và tổ chức công đoàn cần

tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính

đáng của người lao động, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm quyền lợi của người

lao động. Cần có chính sách cụ thể giải quyết nhà ở cho người lao động. Khi phê duyệt

các khu công nghiệp, khu chế xuất, cần yêu cầu dành quỹ đất tương xứng để xây dựng

nhà ở và các công trình thuộc kết cấu hạ tầng xã hội cho công nhân. Cần có chính sách

ưu đãi thích đáng cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở tại các khu công nghiệp

như chính sách ưu đãi về tiền sử dụng đất, miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ hạ

tầng… Để nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho công nhân, Nhà nước cần thể

chế hóa các quy định, xác định trách nhiệm rõ ràng đối với các cấp chính quyền, các

doanh nghiệp trong việc chăm lo xây dựng đời sống văn hóa cho người lao động. Có

các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư xây dựng các dịch vụ văn hóa, thể thao, chăm

sóc sức khỏe cho người lao động.

Ngoài ra, cần xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên

quan đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Xây dựng,

hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đời sống, nâng cao thể chất

cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức công

đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp, có chế tài xử lý

nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật. Khuyến khích, tạo điều

kiện cho người lao động chủ động học tập nâng cao nhận thức, nắm bắt những quy

định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động, giúp họ tự bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng trong trường hợp cần thiết. Bên cạnh đó, cần tăng cường

vai trò của các cấp uỷ Đảng, Đoàn Thanh niên và đặc biệt là của Công đoàn trong việc

nâng cao đời sống, đảm bảo quyền lợi cho công nhân nhất là công nhân ở các khu

công nghiệp. Tăng tỉ lệ tham gia của công nhân trong cơ cấu tổ chức chính trị - đoàn

thể ở doanh nghiệp, nhất là tổ chức Công đoàn để tăng cường tính đại diện cho lợi ích

của công nhân.

123

Thứ tư, hoàn thiện chính sách pháp luật về việc sử dụng, phát triển và quản lý

người lao động.

Để phát huy được những ưu điểm, hạn chế những yếu điểm của nhân tố người

lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước

cần chú trọng đến việc khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lao động ở các ngành kinh

tế và các địa phương trong cả nước. Nhà nước cần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ,

thực trạng cơ cấu nguồn lao động ở từng giai đoạn, nắm rõ những nơi, những ngành có

nguồn lao động thừa - thiếu, phân bổ hợp lý hay chưa hợp lý. Từ đó, áp dụng những

chính sách và công cụ đòn bẩy nhằm khai thác, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn

lao động. Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng, hướng nghiệp trong

đào tạo, nhất là đào tạo nghề của người lao động, qua đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu

lao động theo hướng tích cực, phù hợp với nhu cầu cụ thể, thiết thực của từng ngành

sản xuất, từng địa phương. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm thu hút

nguồn lao động, nhất là nguồn lao động có trình độ, có tay nghề từ nơi thừa sang nơi

thiếu; từ thành phố, đồng bằng đến những vùng sâu, vùng xa. Trước mắt, cần có kế

hoạch cụ thể và hợp lý để tận dụng được lực lượng lao động đã qua đào tạo, tránh tình

trạng lãng phí, dư thừa như hiện nay.

Để khắc phục những hạn chế trong việc sử dụng, phân bổ nguồn lao động ở

nước ta như hiện nay, Nhà nước cần tăng cường công tác dự báo nguồn nhân lực. Cần

nghiêm túc đánh giá cơ cấu nguồn lao động hiện có cũng như dự báo về nhu cầu lao

động của các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, các địa phương khác nhau nhằm chủ động

tránh tình trạng thừa hoặc thiếu nhân lực. Tăng cường công tác dự báo phát triển

nguồn lao động trên phạm vi vùng, ngành, quốc gia đảm bảo sự phù hợp với chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Nhiệm vụ này cần được

tiến hành thường xuyên để có sự điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi của thực

tiễn cuộc sống.

4.2.4. Nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò, vị trí, trách nhiệm

của mình trong nền sản xuất hiện đại

Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hạn chế, yếu kém của

người lao động Việt Nam trong phát triển lực lượng sản xuất hiện nay là do họ chưa có

ý thức một cách rõ ràng về vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình trong nền sản xuất nói

124

riêng và trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Để thúc đẩy nền sản xuất hiện đại,

người lao động cần có những đổi mới cả về nhận thức và thực tiễn về vai trò của mình.

Việc thay đổi vị trí, vai trò của người lao động theo hướng xác lập địa vị làm chủ của

họ trong sản xuất, dưới những hình thức sở hữu phù hợp bao giờ cũng là nhiệm vụ căn

bản gắn việc giải phóng những người lao động với việc giải phóng từng bước lực

lượng sản xuất.Trong nền sản xuất hiện đại, phải khắc phục triệt để những bất hợp lý

trong xã hội tư bản với hiện tượng “lao động bị cưỡng bức”, “lao động bị tha hóa”, tức

tình trạng người lao động bị tách rời khỏi tư liệu sản xuất như C.Mác đã từng nêu ra

cách đây gần 2 thế kỷ.

Để phát huy tính tích cực của người lao động trong sản xuất, cần phải từng

bước thay đổi tính chất của lao động - từ lao động làm thuê trở thành lao động làm

chủ; từ lao động rời rạc, manh mún trở thành lao động liên kết, hợp tác; từ lao động tự

cấp, tự túc, lấy việc thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của chính mình làm mục đích thành lao

động sản xuất hàng hóa theo nhu cầu của thị trường. Sự thay đổi đó sẽ làm gia tăng

tinh thần, ý thức trách nhiệm cũng như vị thế của người lao động trong nền sản xuất

mới.

Để nâng cao vai trò, vị thế, trách nhiệm của người lao động trong nền sản xuất

hiện đại, cần đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất phù hợp với trình

độ sản xuất. Cần cải tạo đồng bộ cả ba quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối

sản phẩm một cách thỏa đáng, phù hợp. Người lao động không chỉ là chủ thể của quá

trình sản xuất mà họ cần được làm chủ của việc sở hữu tư liệu sản xuất, được quyền sử

dụng những thành quả lao động của mình. Khi gắn chặt họ với các khâu của quá trình

sản xuất, tất yếu họ sẽ ý thức hơn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình. Điều đó góp

phần xóa bỏ tình trạng “lao động bị tha hóa”, “lao động bị cưỡng bức”.

Ngoài ra, để nâng cao vai trò, vị thế của người lao động trong nền sản xuất hiện

đại, cần tăng cường việc giáo dục ý thức chính trị, tri thức về kinh tế - xã hội để họ

hiểu được vai trò, tính chất của nền sản xuất vật chất, vị trí của mình trong nền sản

xuất ấy, có ý thức thức bảo vệ thành quả lao động của mình và có ý thức đấu tranh để

bảo vệ địa vị kinh tế, vị thế chính trị của mình trong nền sản xuất xã hội.

4.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo và xuất khẩu lao động để thúc

đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam

125

Một trong những đặc điểm của lực lượng sản xuất hiện đại là lực lượng sản xuất

có tính toàn cầu. Do đó, người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại

không chỉ cần đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đạt được những tiêu chuẩn mang

tính quốc tế. Vì vậy, việc tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo lao động là một giải

pháp cần thiết nhằm cải thiện chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam trong những năm

tới.

Thứ nhất, tích cực, chủ động hợp tác quốc tế về đào tạo và đánh giá chất lượng

người lao động theo tiêu chuẩn quốc tế.

Để người lao động Việt Nam có thể hội nhập với thị trường lao động quốc tế,

Nhà nước cần xây dựng chiến lược về phát triển nguồn lao động vừa phù hợp với trình

độ phát triển của Việt Nam, vừa đạt tiêu chuẩn quốc tế về nguồn lao động trong phát

triển lực lượng sản xuất hiện đại. Từ đó, thiết lập khung trình độ đào tạo, nội dung

chương trình và phương pháp giáo dục, đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn quốc

tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa các

cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận lẫn

nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế

giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các

nước.

Để người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam được thế giới công

nhận, Nhà nước cần chủ động và tích cực tham gia kiểm định quốc tế về chương trình

đào tạo, trong đó có đào tạo nghề. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu

chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo nghề; liên kết các đề tài, dự án

nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở đào tạo của Việt Nam và thế giới.

Hiện nay, người lao động Việt Nam với nhiều ưu thế như trẻ, năng động, cần cù

chăm chỉ đang là một tiềm năng lớn thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế

giới nên việc đào tạo nghề cho lao động Việt Nam cần hướng tới những ngành nghề

của thế giới đang trông chờ vào nguồn lao động Việt Nam có thể đáp ứng. Các cơ sở

đào tạo nghề, nhất là các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp có uy tín cần liên

kết với các doanh nghiệp nước ngoài để đào tạo theo yêu cầu và đơn đặt hàng của họ.

Có như vậy, người lao động Việt Nam vừa có định hướng đầu ra, vừa có thể đạt được

tiêu chuẩn của các nước trên thế giới.

126

Thứ hai, chủ động và tích cực hợp tác quốc tế về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ

thuật, chuyển giao khoa học - công nghệ về đào tạo nghề cho người lao động.

Hiện nay, nhiều cơ sở đào tạo, nhất là cơ sở đào tạo nghề còn thiếu trang thiết

bị kỹ thuật, nhất là các mô hình máy học, học cụ hiện đại. Một trong những điểm khác

biệt của đào tạo nghề so với các loại hình đào tạo khác là sử dụng chủ yếu giáo cụ trực

quan. Bởi vậy, để nâng cao nhận thức, trình độ tay nghề cho người học, cần đẩy mạnh

hợp tác quốc tế về việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại. Ngoài ra, cần tạo

môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và

kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào

tạo nhân lực trình độ cao và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở đào tạo

nghề ở Việt Nam. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy

động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường

đại học, cao đẳng và dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề

có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động. Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại

ngữ, tin học, kỹ năng giao tiếp, khả năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc

tế cho người lao động Việt Nam.

Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động để tăng cường hợp tác quốc tế

về sử dụng lao động.

Vì lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu nên để phát huy tính tích cực

của lao động Việt Nam, cần chú ý đến việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động

nhằm tăng cường hợp tác quốc tế về lao động. Ở Đại hội XI, Đảng ta đã nhấn mạnh:

“Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước

ngoài” [29, tr.125].

Đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một việc làm cần thiết đối với sự phát triển

nguồn lao động ở Việt Nam hiện nay. Nó vừa tạo điều kiện cho người lao động có việc

làm, tăng thu nhập, xóa đỏi giảm nghèo mà tạo nên sự hợp tác quốc tế giữa các quốc

gia trong việc sử dụng lao động. Tuy nhiên, cần hướng đến việc xuất khẩu nguồn lao

động có trình độ, tay nghề cao, đã qua đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn lao động

xuất khẩu của Việt Nam. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao

động, hỗ trợ kinh phí cho người lao động khi đăng ký tham gia xuất khẩu lao động.

Trước khi xuất khẩu lao động, cần tổ chức đào tạo để trang bị cho họ những kỹ năng

127

nghề nghiệp, giáo dục truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nơi tiếp nhận,

trang bị cho họ khả năng tự vệ, tự thích nghi trước những khó khăn, rủi ro khi lao động

ở nước ngoài. Ngoài ra, Đại sứ quán Việt Nam ở các nước có người xuất khẩu lao

động cần thường xuyên liên kết với các nước sở tại để theo dõi, bảo vệ người lao động

Việt Nam, tránh tình trạng người lao động Việt Nam bị lợi dụng, ngược đãi. Mở rộng

thị trường xuất khẩu lao động sang các nước có nền kinh tế phát triển để nâng cao chất

lượng nguồn lao động Việt Nam.

Tiểu kết chương 4

Xuất phát từ những ưu điểm và hạn chế của nhân tố người lao động trong phát

triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay trên cả ba phương diện: thế lực, trí lực

và tâm lực, để phát huy nhân tố người lao động trong thời gian tới, cần chú ý đến

những quan điểm cơ bản sau: Trước hết, cần quán triệt quan điểm luôn coi người lao

động là trung tâm trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Đây là quan

điểm trước tiên có ý nghĩa rất quan trọng, nó không chỉ là sự kế thừa quan điểm của

chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của người lao động trong phát triển lực lượng

sản xuất mà nó còn là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta khi coi con người là trung

tâm của mọi sự phát triển. Đó là một sự phát triển mang tính bền vững và kết tinh

những giá trị nhân văn. Ngoài ra, phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng

sản xuất hiện đại phải gắn với chiến lược phát triển bền vững; đảm bảo tính cân đối,

hài hòa giữa các vùng miền và các ngành sản xuất.

Dựa trên ba quan điểm cơ bản trên, để phát triển nhân tố người lao động đáp

ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện đại của Việt Nam trong thời gian tới, cần chú ý đến

một số giải pháp cơ bản: nâng cao thể lực, sức khỏe; cải thiện tầm vóc cho người lao

động ở Việt Nam; đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ để

không ngừng nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động, cải tiến sáng kiến kỹ

thuật để thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất;, xây dựng môi trường kinh tế - xã

hội thuận lợi, chính sách pháp luật phù hợp để người lao động phát huy được tính tích

cực, chủ động, sáng tạo của mình; nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò,

vị trí, trách nhiệm của mình trong nền sản xuất hiện đại; tăng cường hợp tác quốc tế về

đào tạo và xuất khẩu lao động đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội nhập.

128

KẾT LUẬN

Để đạt được mục tiêu sớm đưa Việt Nam trở thành thành một nước công nghiệp

theo hướng hiện đại, không thể không ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất. Trong điều

kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế hiện nay, lực lượng sản xuất của

Việt Nam cần phát triển với một trình độ cao, hiện đại. Trình độ đó được quyết định

129

bởi tư liệu sản xuất tiên tiến; khoa học - công nghệ hiện đại và người lao động với thể

lực tốt, sức khỏe dẻo dại; trình độ tay nghề cao; có khả năng thích nghi, có ý thức tổ

chức kỷ luật, có đạo đức nghề nghiệp và ý thức bảo vệ môi rường sinh thái. Đó chính

là những yêu cầu cơ bản cơ bản của người lao động Việt Nam nhằm phát triển lực

lượng sản xuất hiện đại hiện nay.

Sau hơn 30 năm đổi mới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam

đã có những bước phát triển đáng kể so với trước kia: Công cụ lao động và đối tượng

lao động ngày càng được cải tiến; khoa học - công nghệ được ứng dụng ngày càng

nhiều vào quá trình sản xuất, góp phần đáng kể trong việc giải phóng sức lao động,

tăng năng suất lao động và hiện đại hóa nền sản xuất. Đặc biệt, với quan điểm: Coi con

người là trung tâm của mọi sự phát triển, Đảng ta đã rất chú trọng đến việc phát triển

nhân tố con người, coi việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất

lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược quan trọng. Do đó, người lao động

Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể về thể lực, sức khỏe; trình độ, tay

nghề; khả năng thích nghi, tính sáng tạo... Tuy nhiên, nhìn chung, con người Việt Nam

nói chung và người lao động nước ta vẫn còn còn nhiều hạn chế cả về thể lực và trình

độ tay nghề; ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái chưa cao.

Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến độ bền, sự dẻo dai, tính chuyên nghiệp, khả năng đáp

ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại ở người lao động nước ta.

Xuất phát từ thực trạng trên, để tiếp tục phát triển nhân tố người lao động đáp

ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam trong những năm tiếp theo,

cần quán triệt ba quan điểm cơ bản sau: Thứ nhất, luôn coi người lao động là trung tâm

trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Khi quán triệt quan điểm coi người

lao động là trung tâm của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, chúng ta không chỉ

xuất phát từ việc phát huy nhân tố người lao động để làm nòng cốt để phát triển lực

lượng sản xuất hiện đại mà còn hướng sự phát triển của lực lượng sản xuất nhằm mục

đích phát triển người lao động, vì chính bản thân người lao động. Đó là một sự phát

triển mang tính bền vững và kết tinh những giá trị nhân văn. Thứ hai, cần quán triệt

quan điểm phát triển bền vững trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nói chung

và phát triển nhân tố người lao động nói riêng. Đó là phát triển lực lượng sản xuất cần

phải kết hợp cả phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, tận dụng những thành quả của

130

khoa học, công nghệ hiện đại để phát triển sản xuất một cách có chọn lọc, nâng cao

năng suất và chất lượng sản phẩm gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Đặc biệt,

cần ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thứ ba, cần quán triệt quan điểm

toàn diện trong phát triển nhân tố người lao động. Phát triển nhân tố người lao động

trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại là phát huy tất cả các yếu tố cấu thành của

nhân tố người lao động như cần chú ý tăng cường cả về thể lực, sức khỏe; nâng cao

trình độ, tay nghề; bồi đắp ý thức, trách nhiệm, tính chuyên nghiệp. Trong những yếu

tố trên, cần nhấn mạnh hơn đến yếu tố trí lực bởi đó là lợi thế so sánh nổi bật của

người lao động trong nền sản xuất hiện đại với nền sản xuất truyền thống trước kia,

đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế về đào tạo và sử dụng nguồn lao động có chất lượng

cao hiện nay. Phát huy nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện

đại cũng phải đảm bảo tính cân đối, hài hòa giữa các vùng miền và các ngành sản xuất.

Dựa trên ba quan điểm cơ bản trên, để phát triển nhân tố người lao động đáp

ứng nhu cầu của nền sản xuất hiện đại của Việt Nam trong thời gian tới, cần chú ý đến

một số giải pháp cơ bản sau: Một là, nâng cao thể lực, sức khỏe; cải cách chế độ bảo

hiểm, chế độ chăm sóc sức khỏe cho người lao động.Đây là giải pháp trước tiên nhằm

cải thiện tình trạng sức khỏe, tăng cường thể lực và tầm vóc của người lao động Việt

Nam, đáp ứng nhu cầu về độ bền, sự dẻo dai, nhanh nhẹn của những dây chuyền sản

xuất có cường độ cao; đồng thời hạn chế tình trạng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

đang rất phổ biến và là vấn đề xã hội đáng quan tâm ở nước ta hiện nay. Hai là, đẩy

mạnh phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ để không ngừng nâng cao

trình độ, tay nghề của người lao động, cải tiến sáng kiến kỹ thuật để thúc đẩy sự phát

triển lực lượng sản xuất. Đây là một giải pháp quan trọng nhằm khắc phục những hạn

chế, yếu kém về chất lượng, nhất là trình độ, tay nghề, kỹ năng của người lao động

Việt Nam hiện nay. Ba là, xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi, chính sách

pháp luật phù hợp để người lao động phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo

của mình. Giải pháp này hướng đến việc tạo ra động lực cả về vật chất và tinh thần cho

người lao động, giúp họ phát huy được tính chủ động, tích cực của mình trong việc sản

xuất vật chất. Bốn là, nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò, vị trí, trách

nhiệm của mình trong nền sản xuất hiện đại. Đây là một giải pháp cần thiết để giúp

cho người lao động thấy được ý thức trách nhiệm của mình trong sản xuất, ý thức bảo

131

vệ môi trường sinh thái, ý thức trong việc đảm bảo an toàn trong sản xuất và an toàn

với những sản phẩm lao động do họ làm ra. Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về đào

tạo và xuất khẩu lao động đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội nhập. Giải pháp này tạo điều

kiện thúc đẩy toàn cầu hóa lực lượng sản xuất hiện đại, giúp cho người lao động Việt

Nam có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu sang thị trường lao động quốc tế.

Như vậy, phát triển nhân tố người lao động chính là cách thức quan trọng, đóng

vai trò quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, góp

phần đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế tri thức và tăng cường hội nhập quốc tế.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Lê Thị Chiên (2014), “Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất theo quan

điểm mácxít và ý nghĩa của nó đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 2, tr. 61-68.

132

2. Lê Thị Chiên (2014), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức để

phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý,

số 3, tr. 10-16.

3. Lê Thị Chiên (2014), “Hoàn thiện chính sách phân phối vì mục tiêu công bằng xã

hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 52-56.

4. Lê Thị Chiên (2014), “Khoa học và công nghệ hiện đại với sự phát triển của lực

lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 4, tr. 23-27.

5. Lê Thị Chiên (2015), “Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện

nay”, Tạp chí Phát triển Nhân lực thành phố Hồ Chí Minh, số 2 (45), tr. 54 - 60.

6. Lê Thị Chiên (2015), “Về lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí Lý luận chính trị, số

5.

7. Lê Thị Chiên (2016), “Yếu tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam

sau 30 năm đổi mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 53-59.

8. Lê Thị Chiên (2016), “Những thách thức chủ yếu của người lao động Việt Nam khi

gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN”, Tạp chí Mặt trận, số 149 (3/2016), tr.28-

32.

9. Lê Thị Chiên (2016), “Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp

của C.Mác và một số gợi mở với Việt Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận

chính trị, số 4 (17), tr. 38-44.

10. Lê Thị Chiên (2016), “Người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí

Khoa học xã hội, số 7 (104), tr. 51-57.

11. Lê Thị Chiên (2016), “Quan điểm của Đại hội XII về phát triển lực lượng sản xuất

và xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Sinh

hoạt lý luận, số 5 (138), tr. 3-8.

12. Lê Thị Chiên (2016), “Vai trò của khoa học, công nghệ trong phát triển lực lượng

sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, tr.40-44.

13. Lê Thị Chiên (2016), “Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam theo tinh thần của

Đại hội XII”, Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, số 9, 10 (22, 23), tr. 16-23.

14. Lê Thị Chiên (2017), “Những yêu cầu cơ bản của người lao động trong phát triển

lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 02 (45),

tr.24-30.

133

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chu Ngọc Anh (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức

đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử

(tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn), truy cập ngày 27/1/2017.

134

2. Lê Ngọc Anh (2006), “Quan điểm về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn

với phát triển kinh tế tri thức - bước phát triển mới trong đường lối công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng ta”, Tạp chí Triết học, (12), tr.3-8.

3. Nguyễn Vân Thùy Anh (2012), “Những khó khăn trong hoạt động đào tạo công

nhân kỹ thuật tại doanh nghiệp: Nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Lao động và

Xã hội, (438), tr.9-11.

4. Báo Kinh tế Việt Nam điện tử, “Nguồn thị trường lao động nông thôn còn nhiều

thách thức”, tại trang http://vcn.vn, truy cập ngày 22/3/2013.

5. Ban Kinh tế Trung ương và Viện Hàn lân Khoa học xã hội Việt Nam (2016), "Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế -

xã hội của Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Hà Nội.

6. Nguyễn Anh Bắc (2015), “Năng suất lao động ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã

hội, số 5(90), tr.24-29.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dùng trong các

trường Đại học, cao đẳng), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng Cục thống kê (2014), Báo cáo điều tra dân số và nhà

ở năm 2012, NXB Thống kê, Hà Nội.

9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015), Thông báo số 653 /TB - LĐTBXH về

tình hình tai nạn lao động năm 2014, Hà Nội.

10. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo tình hình môi trường quốc gia năm 2010,

(tại trang http://vea.gov.vn), truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2011.

11. Chu Văn Cấp (2012), “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh

tế - xã hội nhanh và bền vững”, Tạp chí Khoa học Chính trị, (2), tr. 8-15.

12. Nguyễn Đức Chính (2012), “Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (189), tháng 12, tr.40-42.

13. Nguyễn Trong Chuẩn (1993), “Phát triển nhân tố con người trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Chuyên đề: Chiến lược con người trong

công cuộc đổi mới và phát triển, Tạp chí Triết học, (1), tr. 23-30.

14. Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), “Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực

của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (2), tr. 3-5.

135

15. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên)

(2002), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Vũ Đình Cự (2003), “Những đặc điểm của hệ thống công nghệ mới và lực lượng

sản xuất mới tác động quyết định đến quá trình hình thành kinh tế tri thức”, Tạp

chí Lý luận chính trị, (2), tr.20-29.

17. Vũ Đình Cự, Trần Xuân Sầm (chủ biên) (2009) với Lực lượng sản xuất mới và

kinh tế tri thức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Nguyễn Hùng Cường (2012), “Chính sách trợ cấp cho người bị tai nạn lao động,

bệnh nghề nghiệp: Kết quả và những vẫn đề đặt ra”, Tạp chí Lao động và Xã hội,

(445), tr.30-31,41.

19. Lê Kim Dung (2012), “An toàn - Sức khỏe nghề nghiệp trong chiến lược thúc đẩy

việc làm bền vững ở Việt Nam”, Tạp chíLao động và Xã hội, (462), tr.44-45.

20. Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt

Nam hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Nguyễn Huy Dũng (2012), “Những phẩm chất nghề nghiệp của người lao động

Việt Nam”, Tạp chí Phát triển nhân lực, Thành phố Hồ Chí Minh, (6), tr.22-26.

22. Lê Văn Dương (2002), “Đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Triết học,

(1), tr.5-9.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành

TW khóa 6, tháng 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

136

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành

Trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,

Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

32. Trần Tiên Đạt (chủ biên) (2006), Nguyên lý Triết học Chủ nghĩa Mác, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

33. Lê Thị Hồng Điệp (2014), “Những hạn chế về lao động và việc làm trên thị trường

lao động ở Việt Nam thời kỳ hội nhập”, Tạp chí Kinh tế và Kinh doanh, Đại học

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tập 30, (4), tr. 42-46.

34. Đặng Quang Định (2012), “Phát triển lực lượng sản xuất trong mối tương quan với

quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (114), tr. 23-

29.

35. Đặng Quang Định (2014), “Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam theo tinh

thần Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Mặt trận, (12), tr.8-13.

36. Trần Khánh Đức (2014), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo

ISO & TMQ, NXB Giáo dục Hà Nội.

37. Trần Thanh Đức (2002), Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với vấn đề

đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt

Nam hiện nay (Từ thực tiễn Đồng Bằng Sông Cửu Long), Luận án Tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

38. Nguyễn Tĩnh Gia (1987), Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp

với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Triết học, Học

viện cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.

39. Lương Đình Hải (2009), “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong nền kinh tế

thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6), tr.3-9.

137

40. Nguyễn Hiền (2012), “Giải pháp tăng cường an toàn vệ sinh cho các ngành có

nguy cơ cao tại Việt Nam”, Tạp chí Lao động và xã hội, (435), tháng 7, tr.35-36.

41. Trần Đắc Hiến (2011), “Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực

tiếp” của C.Mác và sự vận dụng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1), tr.9-

15.

42. Nguyễn Cảnh Hồ (2002), “Có phải khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất

trực tiếp”, Tạp chí Triết học, (2), tr.58-62.

43. Lê Hồng Huyền (2015), “Tác động của chuyển dịch lao động quốc tế đến phát

triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (4),

tr.23-28.

44. Vũ Thanh Huyền (2014), “Nhà ở cho công nhân - thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu

Hội thảo khoa học Quốc gia, Bình Dương, tr. 61 - 68.

45. Đào Thị Minh Hương (2015), “Phát triển con người Việt Nam hiện nay nhìn từ

góc độ lao động, việc làm và năng suất lao động”, Tạp chí Nghiên cứu con người,

số 2.

46. Nguyễn Thị Lan Hương (2006), “Tác động của cuộc cách mạng trong công nghệ

thông tin đến lực lượng sản xuất - nhìn từ góc độ triết học”, Tạp chí Triết học,

(9), tr.46-52.

47. Đặng Hữu (2002), “Phát triển kinh tế tri thức, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng sản, (22), tháng 8, tr.26-30.

48. Đặng Hữu (2005), “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

dựa trên tri thức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (4), tháng 2, tr.29-33.

49. Đặng Hữu, Đinh Quang Ty, Hồ Ngọc Luật (2009), Phát triển kinh tế tri thức gắn

với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội.

50. Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Đình Phan (1994), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt

Nam và các nước trong khu vực, NXB Thống kê, Hà Nội.

51. Nguyễn Hữu Khiển (2009), “Học thuyết Mác và vấn đề hoàn thiện các yếu tố của

lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.3-8.

52. Sơn Lâm, Nguồn nhân lực Việt Nam phát triển mất cân đối, (tại trang

laodong.com.vn), cập nhật ngày 05/07/2011.

138

53. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, t. 38, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva.

54. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, t. 39, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva.

55. Trương Giang Long (1997), “Xem xét nhân tố người lao động trong cấu trúc của

lực lượng sản xuất”, Tạp chí Cộng sản, (13), tháng 7, tr.27-31.

56. Trương Giang Long (2007), “Giai cấp công nhân Việt Nam - thực trạng và suy

ngẫm”, Tạp chí Cộng sản, (12), tr. 26 - 31.

57. Nguyễn Đức Luận (2011), “Về khái niệm lực lượng sản xuất và trình độ của lực

lượng sản xuất”, Tạp chí Triết học, số 11 (246), tr.23-30.

58. Lương Công Lý (2014), Giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính

trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

59. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, t.13, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.19, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.23, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.27, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

68. C. Mác và Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập, t.34, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, t.42, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. C. Mác và Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập, t.46, phần I, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

71. C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, t.46, phần II, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

72. Đoàn Công Mẫn (2011), “Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt

trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 5

(108), tr.28-32.

73. Phạm Văn Nam (2012), “Nguồn nhân lực trình độ Đại học ở Việt Nam: Thực trạng

và một số kiến nghị”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (440), tr.17-19.

139

74. Nguyễn Thế Nghĩa (1996), “Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học, (1), tr.9-13.

75. Nguyễn Thế Nghĩa (2000), “Để khoa học và công nghệ trở thành “quốc sách hàng

đầu””, Tạp chí Triết học, (4), tr.10-12.

76. Phạm Công Nhất (2007), Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng

sản xuất ở Việt Nam hiện nay (sách chuyên khảo), NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

77. Hoàng Văn Phong (2003), “Để khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và động

lực trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng sản, (29), tháng

10, tr.11-16.

78. Trần Văn Phòng (chủ biên) (2015), Giáo trình Triết học (Dùng cho cao học không

chuyên ngành Triết học), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

79. Đào Mai Phước (2012), “Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật

của Hà Nội đến năm 2020”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (437), tr.26-28.

80. Phạm Ngọc Quang (2003), “Kinh tế tri thức - xét từ giác độ lực lượng sản xuất và

quan hệ sản xuất”, Tạp chí Triết học, số 3 (142), tháng 3, tr.22-29.

81. Nguyễn Thị Quế - Nguyễn Thị Tú Hoa (2013), “Thực trạng giai cấp công nhân

Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr. 23 - 28.

82. Nguyễn Thị Tú Oanh (2008), “Nguồn lực con người - chủ thể trực tiếp quyết định

sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Khoa học chính trị,

(6), tr. 24- 29.

83. Cao Văn Sâm (2012), “Vai trò của lực lượng lao động có tay nghề trong việc xây

dựng nông thôn mới”, Tạp chí Lao động xã hội, (434), tháng 7, tr. 21-22.

84. Cao Văn Sâm (2015), “Xuất khẩu lao động Việt Nam - những vấn đề đang đặt ra”,

Tạp chí Lao động và Xã hội, (612), tr.3-7.

85. Hoàng Thanh Sơn (2008), “Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển

con người trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Triết học, (7), tr. 64-69.

86. Nguyễn Văn Sơn (2007), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức”, Tạp chí

Triết học, (9), tr. 61-66.

140

87. Bùi Ngọc Thanh (2012), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở

Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (438), tr.2-6.

88. Hoàng Thị Thành (2014), “Một số định hướng chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu

cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ

XXI”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

89. Phạm Trung Thông (2012), “Thúc đẩy phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (436), tr.40-41.

90. Thông tin những vấn đề lý luận (2008), “Quan niệm mới về phát triển lực lượng

sản xuất”, (Bài của tác giả Lý Quảng Hân được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu

chủ nghĩa Mác của Trung Quốc), (19), Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

tr.9-16.

91. Dương Văn Thịnh (2016), : “Về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác”,

Tạp chí Khoa học xã hội, số 5(102).

92. Thuật dùng người (Bản dịch Tiếng Việt), NXB Lao động, Hà Nội.

93. Lê Huy Thực (2003), “Về luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực

tiếp”, Tạp chí Triết học, (2), tr. 60-62.

94. Mạc Văn Tiến (2012), “Cơ hội mới cho phát triển đào tạo nghề”, Tạp chí Lao động

và Xã hội, (437), tr.39-40.

95. Tổng Cục thống kê (2011), Niên giám thống kê năm 2010, NXB Thống kê, Hà

Nội.

96. Tổng Cục thống kê (2014), Niên giám thống kê năm 2013, NXB Thống kê, Hà

Nội.

97. Tổng Cục Thống kê (2014), Báo cáo điều tra Dân số và nhà ở năm 2013, Hà Nội,

98. Tổng Cục thống kê (2015), Niên giám thống kê năm 2014, NXB Thống kê, Hà

Nội.

99. Tổng Cục thống kê (2015), Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2014, NXB

Thống kê, Hà Nội.

100. Nguyễn Thị Tùng (2014), Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay, Luận ánTiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

141

101. Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), “Về vai trò nền tảng, động lực của khoa học và

công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển xã hội ở

Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (7), tr.12-18.

102. Phan Văn Trinh (2011), “Lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay - những yêu cầu

đặt ra”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 3 (106), tr. 23-28.

103. Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong “thần kỳ” kinh tế Nhật Bản,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

104. Đào Quang Vinh (2016), “Lý giải về tình trạng lao động có trình độ thất nghiệp ở

Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (512), tr. 3-6.

105. Nguyễn Quang Vinh (2015), “Phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam”, Tạp chí

Kinh tế và Phát triển, (217), tháng 7, tr. 4-11.

106. William Pounstone (2006), Làm thế nào dịch chuyển núi Phú Sĩ - Bài toán tuyển

dụng nhân tài của các công ty hàng đầu thế giới ở Nhật Bản, Bản dịch tiếng

Việt, NXB Tri thức, Hà Nội.

107. Http://chinhphu.org, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn trước đại biểu

Quốc hội tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIII, truy cập ngày 12/2/2015.

108. Http://anninhthudo.vn, Nâng thể lực và tầm vóc người Việt, Ủy ban Dân số - Gia

đình và Trẻ em, truy cập ngày 28/11/2016.