B N TIN TH TR Ư N TU N 52 NĂM 2018 - agribank.com.vn 2018/Ban tin nong san tuan 52... · 2 LÚA G...
Transcript of B N TIN TH TR Ư N TU N 52 NĂM 2018 - agribank.com.vn 2018/Ban tin nong san tuan 52... · 2 LÚA G...
1
BẢN TIN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN
TUẦN 52 NĂM 2018
2
LÚA GẠO
Thị trường thế giới
Sản xuất
Bộ trưởng Bộ Kinh tế Indonesia, ông Darmin Nasution cho rằng lượng dự trữ 2,2 triệu tấn hiện tại hoàn toàn đủ cho đợt lễ sắp tới. Thêm vào đó, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Indonesia, ông Amran Sulaiman cũng cho biết nước này vẫn còn khoảng 50 triệu tấn gạo chưa thu hoạch tại khu vực nam Jarkata. Do đó, trong vòng 4 tháng tới, Indonesia sẽ không nhập khẩu thêm gạo.
Công ty Hợp tác Quốc tế về Kinh tế và Kĩ thuật Henan Yuguang (HYIETC), của Trung Quốc đang đề xuất xây dựng thêm một nhà máy sấy và xay sát lúa gạo có khả năng chế biến 100.000 tấn lúa/ngày, nhằm giúp thúc đẩy lượng xuất khẩu gạo của Campuchia lên 500.000 tấn gạo/năm. Chính phủ Campuchia khuyến khích HYIETC kết nối với công ty nhà nước Green Trade để nghiên cứu khả thi và lên kế hoạch cho dự án.
Các chuyên gia nhận định sự sụt giảm về xuất khẩu gạo của Ấn Độ trong vài tháng qua chỉ là một hiện tượng theo chu kì, do năm trước Ấn Độ đã xuất khẩu rất nhiều gạo. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo của
Ấn Độ sẽ tăng trở lại trong quý sau, do nhu cầu tăng tại thị trường Trung Đông và các thị trường mới như Qatar, Yemen, Israel, Philippines, Kenya và Ukraine.
Giá cả
Trong tuần này, giá gạo 5% tấm giảm ở Việt Nam, Thái Lan và không đổi tại Ấn Độ cụ thể:
- Giá gạo 5% tấm Thái Lan đạt 403 USD/tấn, giảm nhẹ 1 USD/tấn so với tuần trước. Các thương vụ cũ đã đóng gần hết và không có thêm nhu cầu mới.
- Giá gạo 5% tấm Việt Nam đạt mức 380 USD/tấn, giảm 3 USD/tấn so với tuần trước, do Trung Quốc, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam thắt chặt kiểm tra.
- Giá gạo 5% tấm của Ấn Độ đạt mức 370 USD/tấn, không đổi so với tuần trước, do không có thêm thương vụ mới và mùa thu hoạch mới sắp bắt đầu. Dù chính phủ nước này đã phải đưa ra gói hỗ trợ xuất khẩu gạo khác basmati trong tuần trước, nhưng do đồng rupee tiếp tục giảm 1% vào tuần này, nên giá gạo Ấn Độ vân duy trì ở mức thấp so với Việt Nam và Thái Lan.
Thị trường trong nước
Sản xuất Sau một thời gian nghiên cứu, khảo sát và làm việc cùng UBND huyện Eakar, Trung tâm Xúc tiến đầu tư - Sở Kế hoạch
3
và Đầu tư tỉnh Đắk Lắk, Công ty TNHH gạo công nghệ cao Agroinpro Đắk Lắk được thành lập, với sự hỗ trợ và hợp tác của Tập đoàn San Jose nổi tiếng Tây Ban Nha, cùng 2 công ty: Công ty Agroinpro - công ty hàng đầu châu Âu về công nghệ sấy bảo quản chế biến gạo, tiêu và xử lý chất thải công nghệ Plasmas và Công ty Emilio Camacho chuyên về sản xuất lúa giống, phân bón, bao tiêu sản phẩm nông nghiệp, cung cấp gạo ở thị trường châu Âu .. Theo kế hoạch, đầu năm 2019 sẽ khởi công xây dựng nhà máy chế biến gạo, café, tiêu với công suất hơn 200.000 tấn lúa/năm bảo quản (Silo 60.000 tấn) và sử dụng công nghệ 4.0 của châu Âu (Ý, Pháp, Tây Ban Nha) là những quốc gia có kinh nghiệm về lúa gạo và trang thiết bị hàng đấu thế giới.
Song song với việc xây dựng nhà máy, công ty sẽ đăng kí trồng thử nghiệm 2 giống lúa khô tại Việt Nam do đối tác Công ty Emilio camacho nghiên cứu và trồng thành công tại châu Âu, châu Phi. Loại lúa này năng suất tối thiểu 11 tấn cho 1ha và trồng thành luống không ngập nước, hạn chế sâu bệnh…. Một trong hai loại lúa này là lúa Japonica được nghiên cứu phù hợp với thị trường của Nhật Bản và Hàn quốc - đạt chất lượng theo tiêu chuẩn châu Âu. Sau khi trồng thử nghiệm công ty sẽ hợp tác và hướng dẫn nông dân thực hiện cánh đồng lớn công nghệ cao phù hợp với Nghị định 57 của Chính phủ.
Theo Sở Công Thương tỉnh Long An, từ đầu năm đến nay, khối lượng xuất khẩu gạo của tỉnh đạt trên 462.800 tấn và đạt kim ngạch 232,2 triệu USD. Theo ông Lê Minh Đức, Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Long An, hiện trên địa bàn tỉnh có 19 doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo trực tiếp. Trong đó, có 2 doanh nghiệp được xuất khẩu gạo trực tiếp sang Trung Quốc. Ngoài ra, Long An còn có 4 chi nhánh của doanh nghiệp ngoài tỉnh được xuất khẩu gạo có kho, cơ sở xay xát trên địa bàn tỉnh. Để nâng cao chất lượng lúa gạo, phục vụ chế biến xuất khẩu, những năm qua, tỉnh Long An đã tập trung vào phát triển vùng lúa chất lượng cao..
Giá cả
Giá lúa IR50404 (khô) trung bình tại các tỉnh ĐBSCL tăng nhẹ, đạt 5.991 đồng/kg, không đổi so với tuần trước. Giá lúa IR50404 (khô) tại các tỉnh Bến Tre, Hậu Giang, Tiền Giang không đổi so với tuần trước, mức giá tại các tỉnh này lần lượt là 6.000 đồng/kg; 6.200 đồng/kg và 5.300 đồng/kg.
Giá lúa Jasmine (khô) trung bình tại các tỉnh ĐBSCL không đổi so với tuần trước, đạt 6.917 đồng/kg.
Giá lúa OM6976 (khô) trung bình tại các tỉnh ĐBSCL không đổi so với tuần trước, đạt 6.255 đồng/kg.
Cà Phê
Thị trường thế giới
4
Sản xuất
Tại Ấn Độ, tình hình thời tiết xấu trong thời gian qua khiến sản lượng cà phê cùng thu nhập của người dân năm nay bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cụ thể, Hội đồng Cà phê Ấn Độ (Coffee Board) đã đưa ra đánh giá về mức thiệt hại sản lượng cà phê tại các vùng canh tác trọng điểm ở Karnataka, Kerala và Tamil Nadu là 82.000 tấn trong niên vụ 2017/18. Mưa lớn và lũ lụt đã khiến năng suất năm nay giảm 30%, doanh thu từ cà phê không đủ bù đắp chi phí song người dân vẫn chưa nhận được hỗ trợ từ chính phủ Ấn Độ.
Theo nguồn tin từ Kenya, sản lượng cà phê nước này trong năm nay đạt 45.000 tấn, cao hơn 6.000 tấn so với năm trước. Hiện tại, người dân trồng cà phê nơi đây đang được hưởng chương trình xóa nợ trị giá 4,8 tỉ Shilling do Bộ Tài chính thực hiện nhằm hỗ trợ nông dân giảm bớt gánh nặng nợ nần. Gói hỗ trợ này sẽ giúp người dân đầu tư chăm sóc cây cà phê tốt hơn, triển vọng tăng sản lượng cà phê của Kenya trong những năm tới.
Công ty Cung ứng Nông nghiệp (Conab) cho biết diện tích trồng cà phê của Brasil chỉ tăng 0,1% lên 1,86 triệu ha nhưng sản lượng đã tăng rất đáng kể nhờ
nông dân đã di chuyển cây cà phê đến vùng trồng có khí hậu thuận lợi và việc cải tạo, trẻ hóa vườn cây liên tục với các giống mới có sức kháng bệnh và năng suất cao hơn. Ngoài ra, sau ba năm liên tiếp mất mùa, sản lượng cà phê Conilon Robusta vụ mùa năm 2018 đã tăng 31,1% lên 16 triệu bao.
Giá cả
Giá cà phê Robusta bình quân trên sàn kỳ hạn London tuần này 1.480,6 USD/tấn, tăng 0,7% so với tuần trước và thấp hơn 14,4% so với cùng kỳ năm 2017. Giá cao nhất trong tuần đạt 1.487 USD/tấn, giá thấp nhất là 1.461 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica bình quân trên sàn kỳ hạn New York tuần này đạt 2.247,6 USD/tấn, tăng 0,9% so với mức giá tuần trước và thấp hơn 20,6 % so với cùng thời điểm năm 2017. Giá cao nhất trong tuần đạt 2.290,6 USD/tấn, giá thấp nhất trong tuần đạt 2.198 USD/tấn
Giá cà phê tuần qua tăng nhẹ trong bối cảnh thị trường quốc tế không có nhiều biến động. Tại Trung Mỹ, vụ mùa năm nay đến muộn, thị trường nội địa nơi đây có sự kháng cự về giá từ phía người nông dân nên lượng hàng chuyển về kho dự trữ tại sàn New York rất hạn chế.
Thị trường trong nước
Thương mại Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thời điểm
5
hiện tại, người trồng cà phê trong tỉnh đang bước vào thu hoạch. Diện diện tích cà phê gieo trồng trên toàn tỉnh đạt khoảng 5.130 ha, giảm hơn 300 ha so với diện tích năm 2017, năng suất trung bình đạt 17,9 tạ/ha. Hiện nay hầu hết vườn cà phê còn lại trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đều được trồng xen canh với cây hồ tiêu hoặc cây trồng khác, còn rất ít diện tích cà phê trồng riêng lẻ.
Theo Bloomberg, nông dân trồng cà phê Việt Nam đang phải đối mặt với mối lo là hạt cà phê nhỏ. Một số vùng trồng cà phê robusta lớn ở Việt Nam đang gặp khó khăn trước vấn đề này khi quả cà phê không có hạt hoặc hạt nhỏ hơn bình thường. Đặc biệt tại tỉnh Gia Lai, nơi chiếm 15% tổng lượng cà phê cả nước, tình trạng hạt cà phê nhỏ hoặc không nhân càng phổ biến. Ông Nguyễn Nam Hải, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam, nhận định việc hạt cà phê nhỏ đồng nghĩa với nguy cơ Việt Nam không đạt được sản lượng như đã được dự báo trước đó là 1,83 triệu tấn, tương đương 30,5 triệu bao, theo khảo sát của Bloomberg.
Giá cả
Giá cà phê trong nước tuần này tăng nhẹ so với tuần trước. Tại Đắk Lắk, giá cà phê bình quân đạt 33.130 đồng/kg, tăng 1,4% so với mức giá tuần trước và thấp hơn 8,9% so với cùng kỳ năm 2017. Tại Lâm Đồng, giá cà phê tăng 2,8% so với tuần trước, lên mức 32.423 đồng/kg, và thấp hơn 10,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá cà phê xuất khẩu giao ngay (FOB) tại cảng Sài Gòn tuần này tăng 1,1% so với tuần trước lên mức 1.419 USD/tấn và vẫn thấp hơn 13,9% so với cùng kỳ năm 2017.
Tại khu vực các tỉnh Tây Nguyên, giá thu mua cà phê đồng loạt tăng trước những sự thay đổi tích cực về giá tham chiếu tại các giao dịch quốc tế, đặc biệt là giá cà phê Robusta tại sàn London. Mặc dù vậy, các chuyên gia cho rằng, giá cà phê tăng nhẹ những ngày qua do sức mua nâng lên cho ngày giáng sinh và năm mới, song có thể chững lại sau kỳ nghỉ năm mới hoặc giảm do áp lực dư cung từ vụ thu hoạch đang diễn ra trong nước.
CAO SU
Thị trường thế giới
Sản xuất
Theo Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công thương), Chính phủ Malaysia đã đồng ý tăng giá kích hoạt của chương trình Ưu đãi
sản xuất cao su để hỗ trợ ngành trồng cao su nước này. Theo đó, Chính phủ Malaysia sẽ dành 294 triệu USD để hỗ trợ những hộ tiểu điền bị ảnh hưởng từ việc giá cao su
6
giảm và đảm bảo nguồn cung nguyên liệu đầy đủ cho lĩnh vực chế biến. Mức hỗ trợ là sự chênh lệch giữa giá thị trường và mức giá được kích hoạt.Từ tháng 1/2019, giá kích hoạt cho ưu đãi sẽ được nâng lên 2,5 RM/kg, so với mức 2,2 RM/kg hiện tại.Malaysia hiện có khoảng 41 nhà máy chế biến cao su tiêu chuẩn và công suất sản xuất khoảng 1,5 triệu tấn mỗi năm.Những hộ sản xuất nhỏ của Malaysia sản xuất khoảng 750.000 tấn, các hộ sản xuất nhỏ sở hữu khoảng 90% các đồn điền cao su ở Malaysia.Tổng diện tích đất trồng cao su của Malaysia khoảng một triệu ha, 20% trong số đó là những cây chưa trưởng thành và có khả năng sản xuất ít nhất một triệu tấn mỗi năm.
Giá cả
Trong tuần qua, giá cao su RSS3 kỳ hạn tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), hợp đồng kỳ hạn tháng 01/2019 đã tăng1,1% so với tuần trước, đạt trung bình 171,8 yên/kg (tương đương 1,56USD/kg). Giá cao su kỳ hạn tháng
03/2019 đạt trung bình tuần 169,4 yên/kg (tương đương 1,53 USD/kg), giảm 0,8% so với tuần trước.
Trong tuần, giá cao su giao kỳ hạn tháng 3/2019 tại sàn Thượng Hải (SHFE) tăng so với tuần trước đó, đạt 11.044 NDT/tấn (tương đương 1,61 USD/kg) giảm 1,9% so với tuần trước. Giá kỳ hạn tháng 6/2019 đạt 11.338 NDT/tấn (tương đương 1,65 USD/kg), giảm 1,2% so với tuần trước đó.
Theo Hiệp hội Cao su Thái Lan (TRA), giá cao su RSS3 của Thái Lan tuần qua đạt mức giá 48,6 baht/kg (1,49 USD/kg), tăng 0,8% so với tuần trước đó.
Theo Hiệp hội Cao su Indonesia (GAPKINDO), giá cao su SIR20 của nước này trong tuần qua đạt mức 1,37 USD/kg, tăng 0,7% so với tuần trước đó.
Theo Hiệp hội Cao su Malaysia (MRE), giá cao su SMR20 của nước này trong tuần qua đạt 1,27 USD/kg, giảm 0,8% so với tuần trước đó.
Thị trường trong nước
Sản xuất
Theo Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Cao su Việt Lào, mặc dù năm 2018 là năm có thời tiết không thuận, thị trường vẫn suy giảm do tác động của kinh tế thế giới, đặc biệt là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, nhưng công ty vẫn hoàn thành kế
hoạch và vượt mức chỉ tiêu trước thời hạn hơn một tháng. Sản lượng công ty khai thác được đạt 16.000 tấn, sản lượng tiêu thụ 18.300 tấn với doanh thu 567,3 tỷ đồng đạt 101,67% kế hoạch. Giá bán bình quân 31triệu/tấn. So với giá thành sản xuất bình quân 28 triệu/tấn thì mỗi tấn lãi là 3 triệu
7
đồng. Công ty ước đạt lợi nhuận trước thuế 55 tỷ đồng.
Theo Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Cao su Bình Long, công ty cũng đã hoàn thành kế hoạch sớm hơn 10 ngày so với chỉ tiêu đưa ra. Công ty đã khai thác được 16.600 tấn mủ, hoàn thành kế hoạch VRG giao. Dự kiến đến ngày 31/12, Công ty khai thác vượt 747 tấn, đạt 104,5% kế hoạch. Năng suất vườn cây đạt trên 2 tấn/ha.
Theo Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, (VRG) ước kết quả sản xuất kinh doanh cả năm 2018 so với kế hoạch do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giao tại Quyết định số 1209/QĐ-BNN-QLDN ngày 05/4/2018 thì doanh thu Công ty mẹ VRG đạt trên 4.273 tỷ đồng/3.672 tỷ đồng (đạt 116% KH), lợi nhuận trước thuế trên 2.784 tỷ đồng/2.513 tỷ đồng (đạt 111%).
Thương mại
Theo Tổng cục Hải quan, trong 15 ngày đầu của tháng 12/2018, Việt Nam đã xuất khẩu được 84,6 nghìn tấn cao su, trị giá 102,9 triệu USD, đưa tổng xuất khẩu cao su năm 2018 của Việt Nam đạt 1476,1 nghìn tấn, trị giá 1984,6 triệu USD. Trong khi đó, xuất khẩu sản phẩm từ cao su trong 15 ngày đầu tháng đạt 29,4 triệu USD, đưa tổng xuất khẩu mặt hàng này trong năm 2018 lên 675,3 triệu USD.
Cũng trong 15 ngày đầu tháng 12/2018, Việt Nam đã nhập khẩu 30,2 nghìn tấn cao su, trị giá 51,5 triệu USD, đưa tổng xuất khẩu cao su năm 2018 của Việt Nam lên 582,1 nghìn tấn, trị giá 1061,6 triệu USD. Về các sản phẩm từ cao su, trong 15 ngày đầu tháng 12/2018, xuất khẩu mặt hàng này đạt 37,2 triệu USD, đưa tổng xuất khẩu mặt hàng này lên 827,4 triệu USD.
HỒ TIÊU
Thị trường thế giới
Sản xuất
Theo dự báo về thị trường năm 2019
của Tổ chức Hồ tiêu quốc tế, tổng sản
lượng hồ tiêu thế giới năm 2019 ước đạt
gần 500.000 tấn, giảm so với mức 523.400
tấn của năm 2018.
Theo tờ Financial Times, sản lượng
tiêu Ấn Độ dự đoán giảm trong 2019 từ
mức 64.000 tấn năm 2018 xuống còn
47.000 tấn. Nhu cầu tiêu thụ tại thị trường
này ước tính khoảng 58.000 tấn với lượng
nhập khẩu 17.700 tấn và xuất khẩu 17.000
tấn.
Theo tờ Khmer Times, Hiệp hội Xúc
tiến Hồ Tiêu Kampot mới chỉ bán 50 tấn hồ
tiêu trong năm 2018, giảm 80% so với năm
ngoái. Sự sụt giảm về doanh số bán hàng,
sau khi sản lượng giảm vì điều kiện thời
8
tiết không thuận lợi trong suốt năm, hiệp
hội cho biết. Theo đó, tổng sản lượng hồ
tiêu giảm khoảng 30 tấn xuống còn 70 tấn
trong năm 2018. Lượng mưa lớn từ đầu
mùa trồng trọt là nguyên nhân dẫn tới sự
suy giảm về sản lượng.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam
(VPA), trên phạm vi thế giới, trong vòng 5
- 7 năm qua, diện tích hồ tiêu tăng 3 lần
(đạt 480.000 ha) nhưng giá trị hạ thấp 4
lần.
Thương mại
Theo báo cáo của IPC, nhập khẩu hồ
tiêu của Đức đã tăng lên. Năm 2016, lượng
nhập khẩu của Đức đạt 29.706 tấn. Năm
2017, đạt 32.299 tấn. Tính đến tháng
9/2018, Đức đã nhập khẩu tổng cộng
20.145 tấn (tăng 1% so với cùng kỳ năm
2017) với 89% là hạt tiêu nguyên hạt.
Giá cả
Tại sàn Kochi (Ấn Độ) ngày
27/12/2018 lúc 11h (giờ Việt Nam), giá
tiêu giao kỳ hạn tháng 12/2018 tăng 35
rupee (tức tăng 0,09%) đạt 38.800 rupee/tạ;
giao kỳ hạn tháng 1/2019 giảm 191,9 rupee
(tức giảm 0,49%) xuống còn 38.637,5
rupee/tạ.
Trong khi đó, trên sàn ICCICOCHIN
(Ấn Độ), giá tiêu chọn và giá tiêu xô nội
địa trung bình trong tuần 52/2018 giảm
1,2% (-460 Rupee/tạ) so với tuần trước khi
lần lượt đạt trung bình 38.300 Rupee/tạ và
36.300 Rupee/tạ.
Theo tờ Khmer Times, một tấn tiêu
đen ở Kampot hiện có giá khoảng 15.000
USD. Trong khi đó, tiêu đen và tiêu đỏ lại
có giá cao hơn, lần lượt ở mức 25.000
USD/tấn và 28.000 USD/tấn.
Tại cảng Kuching của Malaysia , giá
hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng xuất khẩu tăng
5,1% và 0,4% so với ngày 30/11, lên mức
2.965 USD/tấn và 5.361 USD/tấn.
Tại cảng Lampung ASTA của
Indonesia, giá hạt tiêu đen xuất khẩu giảm
10,1% so với ngày 30/11 và giảm 12,2% so
với ngày 9/11, xuống còn 2.797 USD/tấn;
giá hạt tiêu trắng xuất khẩu giảm 5,5% so
với ngày 30/11 và giảm 6,8% so với ngày
9/11, xuống còn 4.257 USD/tấn.
Thị trường trong nước
Sản xuất
Theo IPC, với tốc độ gia tăng năng
suất và sản lượng hồ tiêu tại một loạt quốc
gia như Brazil, Indonesia, Malaysia,
Campuchia…, thị phần của Việt Nam đang
bị đe dọa dù hiện tại chiếm trên 50% tổng
sản lượng hồ tiêu toàn cầu. Điều đáng lưu
ý, các nước rất chú trọng đến vấn đề chất
9
lượng, an toàn thực phẩm hồ tiêu, trong khi
đây lại là điểm yếu của hồ tiêu Việt Nam.
Theo VPA, hiện hạt tiêu Việt Nam
đang chuẩn bị bước vào vụ thu hoạch sớm
tại tỉnh Đắk Nông, với sản lượng năm 2019
được dự báo đạt khoảng 250.000 tấn.
Thương mại
Theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam,
kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu chỉ đạt 800
triệu USD trong năm 2018, thấp nhất sau 4
năm liên tục đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD.
Mặc dù sản lượng hạt tiêu xuất khẩu liên
tục tăng, nhưng giá trị ngày càng giảm,
khiến nhà nông và doanh nghiệp đều khó
khăn.
Theo TCHQ, xuất khẩu hạt tiêu
trong 11 tháng của năm 2018 ước đạt 220
nghìn tấn, với giá trị 718 triệu USD. Số
lượng này tăng 8,9% nhưng giá trị lại giảm
rất sâu, đến 32,5% so với cùng kỳ năm
2017, do giá hạt tiêu giảm mạnh ở hầu hết
mọi thị trường xuất khẩu của Việt Nam.
Trong đó có một số thị trường giảm giá
mạnh gần 60% như thị trường Tiểu Vương
Quốc Ả Rập thống nhất; thị trường lớn là
Ấn Độ cũng giảm từ 8% - 10%. Như vậy,
cả năm 2018 kim ngạch xuất khẩu tiêu chỉ
đạt 800 triệu USD.
Giá cả
Theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam
(VPA), trong phiên giao dịch hôm 28/12,
giá tiêu trung bình tại các tỉnh trồng tiêu
lớn tại Việt Nam (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia
Lai, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng
Tàu) đạt trung bình 51.800 đồng/kg. Giá
tiêu thấp nhất được ghi nhận tại tỉnh Gia
Lai và Đồng Nai (51.000 đồng/kg), giá tiêu
cao nhất tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đạt
53.000 đồng/kg. Tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk
Nông và Bình Phước, giá tiêu đạt 52.000
đồng/kg.
Trong khi đó, giá tiêu trung bình
tuần 52/2018 tại các tỉnh nói trên đạt
52.400 đồng/kg, giảm 0,7% so với tuần
51/2018 (52.700 đồng/kg). Giá hạt tiêu
trắng đầu tháng 12 đạt 87.000 đồng/kg, ổn
định so với cuối tháng 11, nhưng thấp hơn
nhiều so với mức 117.000 đồng/kg cùng kỳ
năm 2017. Mặc dù vậy, Cục dự báo thời
gian tới giá hạt tiêu toàn cầu khó có thể
phục hồi do nguồn cung dồi dào.
HẠT ĐIỀU
Thị trường thế giới
Sản xuất Theo Hội đồng Hạt - Quả khô Quốc
tế, nguồn cung hạt điều được bổ sung khi
10
nhiều nước sản xuất bước vào vụ thu hoạch
sớm. Hiện các nước đang trong vụ thu
hoạch gồm Bra-xin, Tan-da-ni-a, In-đô-nê-
xi-a, Bê-nanh, Mô-dăm-bích và Kê-ni-a.
Theo Hiệp hội Hạt điều Việt Nam,
Tan-da-ni-a đã điều chỉnh dự báo về sản
lượng điều thô của nước này niên vụ
2018/19 tăng từ 220.000 tấn lên 275.000
tấn.
Thương mại
Theo Reuters, Hoa Kỳ và các nước
châu Âu đang trong giai đoạn có nhiều kỳ
nghỉ lễ lớn, giao dịch hạt điều diễn ra ít
hơn. Các hợp đồng giao ngay và hợp đồng
kỳ hạn tháng 1/2019 đã được thực hiện ở
khâu sản xuất, do đó nhu cầu hạt điều dự
kiến sẽ yếu trong thời gian tới.
Theo số liệu thống kê từ Ủy ban
Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, năm 2015
Hoa Kỳ nhập khẩu hạt điều đạt 152.585
tấn, trị giá 1,148 tỷ USD, năm 2016 đạt
147.106 tấn, trị giá 1,215 tỷ USD, năm
2017 đạt 153.448 tấn, trị giá 1,562 tỷ USD.
Trong 10 tháng năm 2018, nhập khẩu hạt
điều của Hoa Kỳ đạt 131.337 tấn, trị giá
1,263 tỷ USD, tăng 0,3% về lượng, nhưng
giảm 5,0% về trị giá so với 10 tháng năm
2017.
Ấn Độ là thị trường cung cấp hạt
điều lớn thứ 2, đạt 5.793 tấn, trị giá 58,7
triệu USD, giảm 65,9% về lượng và giảm
67,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017;
Bra-xin đứng thứ 3, đạt 4.471 tấn, trị giá
44,46 triệu USD, giảm 4,3% về lượng và
giảm 3,7% về trị giá.
Giá cả
Theo số liệu thống kê từ Ủy ban
Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, giá nhập
khẩu bình quân hạt điều của Hoa Kỳ 10
tháng năm 2018 đạt mức 9,62 USD/kg,
giảm 5,3% so với 10 tháng năm 2017.
Trong đó, giá nhập khẩu bình quân hạt điều
từ Ấn Độ đạt 10,13 USD/kg, giảm 3,6%; từ
Bra-xin tăng 0,7%, lên mức 9,94 USD/kg,
từ In-đô-nê-xi-a tăng 3,9%, lên mức 9,96
USD/kg, từ Mô-dăm-bích tăng 3,7%, lên
mức 9,57 USD/kg. Đáng chú ý, giá nhập
khẩu bình quân hạt điều của Hoa Kỳ từ Bờ
Biển Ngà tăng mạnh 11,9%, lên mức 9,95
USD/kg.
Trong tuần, tại cảng Delhi của Ấn
Độ, giá hạt điều loại WW180 ổn định ở
mức 1.085 Rupee/kg (tương đương 15,5
USD/kg), giá hạt điều loại WW210 ổn định
ở mức 977,5 Rupee/kg (tương đương 13,9
USD/kg), giá hạt điều loại WW240 ổn định
ở mức 825 Rupee/kg (tương đương 11,8
USD/kg), hạt điều loại WW320 có mức giá
là 737,5 Rupee/kg (tương đương 10,5
USD/kg). Giá điều nhân vỡ 2 mảnh ổn định
11
ở mức 727,5 Rupee/kg (tương đương 10,4
USD/kg).
Trong khi đó, giá hạt điều các loại
tại sàn Kochi (Ấn Độ) trong tuần được giao
dịch ổn định như sau: hạt điều loại W240
từ 4,00-4,15 USD/lb, hạt điều loại W320 từ
3,75-3,95 USD/lb, hạt điều loại W450 từ
3,65-3,7 USD/lb, hạt điều loại SW320 từ
3,65-3,7 USD/lb, hạt điều DW từ 3,45-3,5
USD/lb, hạt điều tách (SSW&Butts) từ 3,3-
3,35 USD/lb, hạt điều vỡ (Splits) từ 3,3-3,35
USD/lb, hạt điều mảnh từ 2,25-2,3 USD/lb.
Thị trường trong nước
Sản xuất
Theo Trung tâm Khuyến nông quốc
gia, dự kiến sản lượng điều nhân năm 2018
đạt 354.800 tấn, đáp ứng khoảng 30% nhu
cầu chế biến, xuất khẩu. Giống điều địa
phương trồng bằng hạt chiếm 61,4%; diện
tích điều già cỗi, sâu bệnh, sinh trưởng
kém, năng suất thấp chiếm khoảng
80.000ha ở khu vực Đông Nam bộ. Diện
tích điều giống mới trên toàn quốc mới đạt
32,3%.
Theo Sở Nông nghiệp &PTNT tỉnh
Bình Phước, tại địa phương, việc chăm sóc,
thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào vườn điều chỉ đạt 45% và 1/3
diện tích là điều già trên 20 năm tuổi nên
nguy cơ nhiễm bệnh cao, năng suất thấp
cần phải tái canh.
Theo Cục trồng trọt, do biến đổi khí
hậu cùng sâu bệnh phá hoại nên diện tích
điều và năng suất giảm mạnh. Năm 2017,
năng suất điều Việt Nam chỉ đạt bình quân
7,55 tạ/ha; trong khi đó, diện tích chung cả
nước cũng giảm từ 440.000ha xuống còn
290.000ha. Để đạt mục tiêu đến năm 2020
cả nước duy trì ổn định 300.000 ha điều,
sản lượng 450.000 tấn, các chuyên gia
ngành nông nghiệp cho rằng, cần tái canh
và ghép cải tạo 60.000ha.
Theo VINACAS, vụ thu hoạch hạt
điều mới tại Việt Nam sẽ bắt đầu từ tháng
3/2019.
Thương mại
Theo số liệu thống kê từ Ủy ban
Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, Việt Nam là
nguồn cung hạt điều lớn nhất cho Hoa Kỳ
trong 10 tháng năm 2018, đạt 111,7 nghìn
tấn, trị giá 1,07 triệu USD, tăng 13,2% về
lượng và 6,3% về trị giá so với 10 tháng
năm 2017; giá nhập khẩu bình quân hạt
điều từ Việt Nam đạt 9,55 USD/kg, giảm
6,1%.
Theo Tổng cục Hải quan, xuất khẩu
hạt điều 15 ngày đầu tháng 12/2018 đạt
15,8 nghìn tấn, trị giá 128,35 triệu USD,
giảm 2,4% về lượng và giảm 0,5% về trị
12
giá so với 15 ngày đầu tháng 11/2018, tăng
7,8% về lượng, nhưng giảm 14,5% về trị
giá so với cùng kỳ năm 2017. Lũy kế từ
đầu năm đến hết ngày 15/12/2018, xuất
khẩu hạt điều đạt 355,6 nghìn tấn, trị giá
3,22 tỷ USD, tăng 5,4% về lượng, nhưng
giảm 4,1% về trị giá so với cùng kỳ năm
2017.
Giá cả
Theo Tổng cục Hải quan, giá xuất
khẩu bình quân nửa đầu tháng 12/2018, giá
xuất khẩu bình quân hạt điều đạt mức
8.109 USD/tấn, tăng 2% so với 15 ngày
đầu tháng 11/2018, nhưng vẫn giảm 20,7%
so với cùng kỳ năm 2017. Lũy kế từ đầu
năm đến hết ngày 15/12/2018, giá xuất
khẩu bình quân hạt điều đạt mức 9.061
USD/tấn, giảm 9% so với cùng kỳ năm
2017.
Tại Bình Phước, trong tuần, giá hạt
điều khô giao dịch trong mức 40.000-
42.000 đồng/kg, gái hạt điều tươi giao dịch
trong muwasc 28.000-30.000 đồng/kg.
THỦY SẢN
Thị trường thế giới
Thương mại
Hà Lan là thị trường nhập khẩu tôm lớn thứ hai của Việt Nam trong khối EU, chiếm 5,6% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam đi các thị trường trong 11 tháng đầu năm nay. Trong cơ cấu xuất khẩu tôm, mặt hàng tôm sú chiếm khoảng 15% tổng các sản phẩm tôm Việt Nam xuất khẩu sang Hà Lan. Hiện nay nhu cầu nhập khẩu tôm sú sang Hà Lan từ Việt Nam vẫn khá ổn định.
Hàng năm, Hà Lan nhập khẩu trung bình khoảng 600 triệu USD tôm từ các nguồn cung tôm lớn trên thế giới như Việt Nam, Ấn Độ, Bangladesh, Ecuador và một số nước nội khối như Bỉ, Đức, Anh, Đan Mạch. Hà Lan nhập khẩu tôm không chỉ để tiêu thụ trong nước mà còn để chế biến
xuất khẩu sang các nước trong khối EU. Những năm gần đây, nhập khẩu tôm vào Hà Lan ngày một tăng.
Trong 10 năm (2008-2017), nhập khẩu tôm của Hà Lan đã tăng 61% từ 430 triệu USD lên 695 triệu USD. Nhập khẩu tôm của Hà Lan tăng trưởng khá tốt trong 10 năm, đạt đỉnh năm 2014 với 777 triệu USD do giá tôm tăng và xu hướng tăng trưởng chung của thị trường tôm thế giới. Từ 2015 – 2017, nhập khẩu tôm của Hà Lan liên tục tăng trưởng ổn định.
11 tháng đầu năm nay, trong cơ cấu sản phẩm tôm Việt Nam xuất khẩu sang Hà Lan, tôm chân trắng chiếm tỷ lệ cao nhất 80,2%, tiếp đó tôm sú chiếm 14,8% và còn lại là tôm loại khác.
13
Thị trường trong nước
Sản xuất
Tháng 11/2018, xuất khẩu tôm Việt Nam chưa có dấu hiệu phục hồi, đạt 304,3 triệu USD, tiếp tục giảm 15,8% so với cùng kỳ năm 2017. Kim ngạch xuất khẩu tôm 11 tháng đầu năm 2018 đạt 3,27 tỷ USD, giảm 6,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong tháng 11 năm nay, xuất khẩu tôm Việt Nam sang các thị trường lớn đều giảm mạnh như EU (-36,6%), Trung Quốc (-25,7%), Hàn Quốc (-20,7%), Mỹ (-2,8%). Tuy nhiên, xuất khẩu sang Nhật Bản tăng 11%.
Tôm chân trắng vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong cơ cấu các sản phẩm tôm xuất khẩu của Việt Nam, chiếm 68,6%, tôm sú chiếm 23% và tôm biển 8,4%.
Xuất khẩu tôm Việt Nam có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm ngoái là do giá tôm trong nước và thế giới giảm, nhu cầu nhập khẩu thấp từ các thị trường chính.
Giá cả
+ Đồng Tháp
Tại Đồng Tháp, giá cá tra giữ mức ổn định so với tuần trước cụ thể là: giá cá tra thịt trắng loại I là 33.000 đồng /kg, giá cá tra thịt trắng loại II đạt 25.000 đồng/kg.
+An Giang
Tại An Giang giá cá tra thịt trắng loại 800g/con 29.000 - 30.000 đồng/kg giữ mức ổn định so với với tuần trước, cá điêu hồng đạt 45.000 – 48.000 đồng/kg giữ mức ổn định so với tuần trước, cá lóc đạt 51.000- 56.000 đồng/kg tăng 1.000 đồng/kg so với tuần trước.
+Sóc Trăng
Giá tôm sú loại 20 con/kg đạt 245.000 đồng/kg giữ mức ổn định so với tuần trước, giá tôm thẻ loại 40 con/kg đạt 185.000 đồng/kg tăng 5.000 đồng/kg so với tuần trước, trong khi đó giá tôm thẻ loại 100 con/kg đạt 100.000 đồng/kg giữ mức ổn định so với tuần trước.