Post on 30-Dec-2020
HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRUNG ƯƠNG
ĐẶC SANTUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT
Số: 10 /2013
CHỦ ĐỀ LUẬT GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
HÀ NỘI - NĂM 2013
CHỦ ĐỀ LUẬT GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Biên soạn và chịu trách nhiệm nội dung: Bộ Quốc phòng
Chỉ đạo nội dung:
1. Thiếu tướng Nguyễn Duy Nguyên, Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ
2. Thiếu tướng Hồ Xuân Thức, Phó Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ
3. Đại tá Nguyễn Mạnh Khuê, Phó Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ
Tham gia thực hiện:
1. Đại tá Lê Thanh Trì, Trưởng phòng Giáo dục quốc phòng
2. Đại tá Nguyễn Trọng Hà, Tổng biên tập Tạp chí DQTV-GDQP
3. Đại tá Nguyễn Chính Hậu, Ban biên tập Tạp chí DQTV-GDQP
4. Đại tá Ngô Anh Tuấn, Trưởng ban Khoa học Quân sự
5. Đại tá Bùi Văn Thới, Phòng Giáo dục quốc phòng
6. Đại tá Bùi Đức Kha, Phó Tổng biên tập Tạp chí DQTV-GDQP
7. Đại tá Chu Văn Nghĩa, Ban Khoa học quân sự
Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
2
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp
đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong mọi tình huống, Đảng ta chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân vững mạnh; trong đó, giáo dục quốc phòng và an ninh
là một mắt xích, một nhiệm vụ rất quan trọng.
Đảng, Nhà nước ta luôn xác định giáo dục quốc phòng và an ninh là một
nhiệm vụ nhằm giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, lòng tự hào, tự
tôn dân tộc; nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân đối với nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh. Chính vì vậy, giáo dục quốc phòng và an ninh có vị trí quan
trọng hàng đầu trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Trong những năm qua, giáo dục quốc phòng và an ninh tuy còn một số
hạn chế, nhưng đã góp phần làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ
vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội; chủ động ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của
các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Nhằm khắc phục những hạn chế của công tác giáo dục quốc phòng và an
ninh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc, đồng bộ; ngày
19 tháng 6 năm 2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội (khóa XIII) nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh số
30/2013/QH13. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Đây là
3
đạo luật quan trọng, là cơ sở pháp lý cao nhất để thực hiện giáo dục quốc phòng
và an ninh thống nhất trên phạm vi toàn quốc, qua đó góp phần nâng cao nhận
thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức và của mọi
công dân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
I. QUAN NIỆM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở VIỆT
NAM
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và
lợi ích quốc gia, dân tộc”1. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân vững mạnh toàn diện, trong đó, thực hiện tốt giáo dục quốc phòng và
an ninh là một chủ trương rất quan trọng.
1. Khái niệm về giáo dục quốc phòng và an ninh
* Quốc phòng
“Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt”2.
Như vậy, quốc phòng được hiểu là công cuộc giữ nước của dân tộc Việt
Nam do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức thực hiện.
Mục tiêu của quốc phòng nhằm bảo vệ, giữ vững chủ quyền và an ninh đất
nước, bảo vệ chế độ, đảm bảo sự ổn định và phát triển của Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, Nhà nước phải
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
1 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX. Tr 117, Nxb CTQG 2001.2 Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11, khoản 1 Điều 3.
4
Sức mạnh quốc phòng là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc Việt Nam,
gắn liền với các hoạt động đối nội và đối ngoại, trên các các lĩnh vực quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học… của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Biểu hiện đặc trưng của sức mạnh quốc phòng là sức mạnh quân sự của
quốc gia, dân tộc hay nhà nước, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng
cốt. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam gồm: Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân và Dân quân tự vệ.
Quân đội nhân dân Việt Nam được khẳng định “là lực lượng nòng cốt của
lực lượng vũ trang nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”3. Quân đội
nhân dân Việt Nam bao gồm lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động
viên. Lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân Việt Nam có Bộ đội chủ lực
và Bộ đội địa phương.
Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, “có trách nhiệm phối hợp với Quân đội
nhân dân và Dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”4.
Dân quân tự vệ là lực lượng có nhiệm vụ “phối hợp với các đơn vị Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân và các lực lượng khác trên địa bàn tham gia
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tài sản
của Nhà nước, tính mạng, tài sản của nhân dân ở địa phương, cơ sở”5.
Thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, được quy định như sau:
Chính phủ “thống nhất quản lý nhà nước về quốc phòng”6, thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật về quốc phòng.
3 Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11, khoản 1 Điều 14.4 Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11, khoản 1 Điều 17. 5 Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11, khoản 1 Điều 156 Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11, khoản 2 Điều 44 .
5
Bộ Quốc phòng “chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về quốc phòng trong phạm vi cả nước”7; “chủ trì, phối hợp với bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ xây dựng quy hoạch, kế hoạch nhà nước về
quốc phòng trình Chính phủ quyết định”8; “hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện công tác quốc phòng ở bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và địa phương”9.
Tóm lại, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của
công dân, là trách nhiệm của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, đoàn thể. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng đòi hỏi các thành viên trong xã hội phải được
trang bị kiến thức và kỹ năng quân sự cần thiết, phù hợp với vai trò xã hội của
mình.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang
nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Bộ Quốc phòng chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng trong phạm
vi cả nước.
* An ninh
An ninh gắn với quốc phòng chính là an ninh quốc gia.
“An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội
chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”10.
Như vậy, an ninh quốc gia chính là trạng thái ổn định, có trật tự của một
quốc gia, một chế độ xã hội; theo đó, các cá nhân, tổ chức, các lĩnh vực hoạt
động của xã hội đều thống nhất, hướng đến mục tiêu xác định.
Bảo đảm an ninh quốc gia là đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền
vững của một chế độ xã hội, của nhà nước. An ninh quốc gia được thực hiện
7 Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11, khoản 1 Điều 45.8 Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11, khoản 2 Điều 45.9 Luật Quốc phòng số 39/2005/QH11, khoản 3 Điều 45.10 Luật An ninh quốc gia số 32/2004/QH11, khoản 1 Điều 3 .
6
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả hoạt động đối nội và đối
ngoại.
Những hành vi xâm phạm đến chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của một quốc gia, dân tộc hay nhà nước đều là những hành vi vi phạm
đến an ninh quốc gia của dân tộc hay quốc gia, nhà nước.
Mục tiêu của an ninh quốc gia nhằm bảo vệ quyền bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, dân tộc. Vì vậy,
Bảo vệ an ninh quốc gia chính là sự “phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu
tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia”11.
Theo đó, an ninh quốc gia có các nhiệm vụ sau:
“1. Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
2. Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá, khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các
lợi ích khác của quốc gia.
4. Bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc
gia.
5. Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại trừ
các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia.”12
Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trên và các quy định khác của pháp luật
về bảo vệ an ninh quốc gia.
Để đảm bảo an ninh quốc gia đòi hỏi các cá nhân, các tổ chức chính trị,
chính trị - xã hội, đoàn thể, các thành viên trong xã hội đó phải có ý thức và sự
11 Luật An ninh quốc gia số 32/2004/QH11, khoản 2 Điều 3 12 Luật An ninh quốc gia số 32/2004/QH11, Điều 14
7
đồng thuận về trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, quốc gia, dân tộc và với
chế độ xã hội.
Việc đảm bảo an ninh quốc gia là trách nhiệm của mọi cá nhân, mọi tổ
chức chính trị, chính trị - xã hội; trong đó, trước hết là trách nhiệm của cơ quan
chuyên trách và cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia.
Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia là “cơ quan chỉ đạo, chỉ
huy và đơn vị nghiệp vụ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân được giao nhiệm vụ
chuyên trách làm tham mưu, tổ chức, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia”13.
“Cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia là sĩ quan, hạ sĩ quan của
cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia được giao nhiệm vụ chuyên trách
làm tham mưu, tổ chức, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia”14.
Các cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm: Cơ quan chỉ
đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh vệ Công an nhân dân; cơ quan
chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh Quân đội, tình báo Quân đội nhân
dân và Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển.
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất quản lý
nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia.
Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ
Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà
nước về bảo vệ an ninh quốc gia.
Bộ Quốc phòng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu trách
nhiệm trước Chính phủ phối hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý nhà nước về
bảo vệ an ninh quốc gia; chỉ đạo các lực lượng thuộc quyền phối hợp chặt chẽ
với lực lượng Công an nhân dân và chính quyền địa phương để bảo vệ an ninh
quốc gia theo quy định của pháp luật.
13 Luật An ninh quốc gia số 32/2004/QH11, khoản 5 Điều 3.14 Luật An ninh quốc gia số 32/2004/QH11, khoản 6 Điều 3.
8
Bảo vệ an ninh quốc gia là nghĩa vụ của công dân, là trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức. Để thực hiện tốt an ninh quốc gia đòi hỏi các thành viên trong
xã hội phải được trang bị kiến thức cần thiết, phù hợp với vai trò xã hội của
mình.
* Giáo dục
Theo nghĩa của từ, giáo dục được hiểu là một lĩnh vực hoạt động xã hội;
sự “tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để
họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”15.
Giáo dục có những đặc trưng cơ bản sau:
- Là một quá trình xã hội, có sự phối hợp thống nhất biện chứng giữa hoạt
động của chủ thể với đối tượng.
- Là sự tác động có mục đích, có phương pháp, có hình thức và nội dung
đến đối tượng giáo dục.
- Nhằm chuyển hóa đối tượng, làm cho đối tượng có được những phẩm
chất và năng lực theo mục tiêu đã xác định.
* Giáo dục quốc phòng và an ninh
Từ cách tiếp cận trên cho thấy, giáo dục quốc phòng và an ninh có thể
được hiểu là tổng thể các tác động đến các thành viên trong xã hội, giúp họ có
được phẩm chất và năng thực cần thiết để thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng và
an ninh của mình theo vị trí, vai trò xã hội được phân công.
Giáo dục quốc phòng và an ninh có những đặc điểm nổi bật sau:
- Là sự tác động có mục đích, có phương pháp, có hình thức và nội dung
đến đối tượng;
- Là quá trình truyền thụ và lĩnh hội đường lối, chủ trương, chính sách đối
nội và đối ngoại có liên quan đến quốc phòng và an ninh của quốc gia và những
kiến thức cần thiết khác, nhất là kiến thức về kỹ năng quân sự và giữ gìn an ninh
quốc gia cho đối tượng giáo dục theo vai trò xã hội đảm nhiệm;15
9
- Là tổng thể các hoạt động hướng đến mục tiêu chuẩn bị con người tham
gia và thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ, giữ vững chủ quyền và an ninh đất nước,
bảo vệ chế độ, đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội.
2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về giáo dục quốc phòng và an ninh
Ngay khi đất nước giành được độc lập, tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho học sinh nhân ngày khai trường, trong đó có đoạn:
“Đối riêng với các em lớn, tôi khuyên thêm một điều này: chúng ta đã đánh đuổi
bọn thực dân, chúng ta đã giành được độc lập. Nhưng giặc Pháp còn lăm le
quay lại. Chúng ỷ vào kẻ khác mạnh hơn mà gây sự với ta. Tất nhiên chúng sẽ bị
bại, vì tất cả quốc dân ta đoàn kết chặt chẽ và một lòng chiến đấu cho giang sơn
Tổ quốc. Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp nước, đấy là bổn phận của
mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy,
nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc
để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ
nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước.”16. Bức thư này không chỉ thể hiện sự
quan tâm của Người đối với sự nghiệp giáo dục cho thế hệ trẻ, mà còn thể hiện
rõ nét tư tưởng về giáo dục ý thức công dân trong giữ gìn và bảo vệ độc lập, tự
do của Tổ quốc. Quan điểm nhất quán của Người là “dựng nước phải đi đôi với
giữ nước”.
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Luật về chế độ phục vụ của sĩ
quan Quân đội nhân dân Việt Nam, có đề cập việc phong hàm sĩ quan dự bị cho
sinh viên tốt nghiệp đại học. Ngày 28 tháng 12 năm 1961, Hội đồng Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 219/CP về việc huấn luyện quân sự cho quân nhân dự
bị và dân quân tự vệ; tại Điều 3 văn bản này quy định: “…các trường đại học và
các trường chuyên nghiệp trung cấp, việc học tập quân sự phải đặt thành một
môn học chính...”. Từ đó, học viên trung cấp được học chương trình quân sự
16 Bác Hồ với giáo dục, NxbGD, tr 71,72
10
tương đương của hạ sĩ quan; sinh viên đại học được học theo chương trình dự bị
sĩ quan.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh; để phát huy nhân tố chính trị tinh thần,
huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, tăng cường
tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, củng cố, xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân
ngày càng vững chắc, nhằm góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng đến giáo dục quốc phòng và an
ninh.
Vấn đề quốc phòng, an ninh nói chung, giáo dục quốc phòng và an ninh
nói riêng luôn được đề cập trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhất là từ
năm 2001 đến nay.
Triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về quốc phòng, an ninh,
nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới và Nghị quyết của Bộ Chính trị (khóa VIII) về Chiến lược bảo vệ
an ninh quốc gia, ngày 30 tháng 7 năm 1987, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 02-NQ/TW và tiếp đó là Nghị quyết Số 28-NQ/TW ngày 22 tháng 9
năm 2008 về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành
khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Trong đó, Nghị quyết nhấn
mạnh “Việc tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành
khu vực phòng thủ vẫn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu đặt ra là
“Xây dựng khu vực phòng thủ có tiềm lực và sức mạnh toàn diện, nhằm ngăn
ngừa, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biễn hòa bình”, gây bạo loạn,
lật đổ của các thế lực thù địch; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình
để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
xử lý có hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh; giữ vững chủ quyền
biển, đảo, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc từng
địa phương trong mọi tình huống, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
11
xã hội chủ nghĩa.” Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, Đảng ta xác định nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu là “tập trung xây dựng tiềm lực về chính trị, tư tưởng,
kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sinh, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh và
đối ngoại của khu vực phòng thủ; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên từng địa phương”; đồng thời, đề
ra các giải pháp chủ yếu để thực hiện, trong đó xác định “nâng cao chất lượng
công tác giáo dục quốc phòng, an ninh, trước hết là đối với cán bộ chủ chốt các
cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở”, nhằm đẩy mạnh, tạo sự chuyển biến
về nhận thức và trách nhiệm của cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành và toàn
dân trong xây dựng khu vực phòng thủ.
Đảng xác định “Giáo dục quốc phòng, an ninh là một bộ phận của nền
giáo dục quốc dân”17, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy đảng, sự
quản lý điều hành của chính quyền và vai trò tham mưu của các cơ quan, ban,
ngành, đoàn thể.
Giáo dục quốc phòng và an ninh là “…nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội; phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất
từ Trung ương đến địa phương”18.
Giáo dục quốc phòng và an ninh được tiến hành “bằng các hình thức tổ
chức phù hợp với từng đối tượng”19, kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo dục
tập trung, có trọng tâm, trọng điểm. “Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức
về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới; giáo dục lòng yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ
nghĩa, lịch sử, truyền thống của Đảng và dân tộc, lòng tự tôn, ý thức dân tộc, ý
thức sống và làm việc theo pháp luật; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần
cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh… xây dựng “thế trận
lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Kiên quyết làm thất bại
mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, coi trọng nhiệm 17 Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị.18 Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị.19 Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị.
12
vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi
người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị”20.
Quy định số 07-QĐ/BTCTW ngày 16 tháng 4 năm 2008 về tiêu chuẩn
kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ, đảng viên của Ban Tổ chức Trung
ương là sự thể hiện quan tâm đặc biệt của Đảng đến giáo dục quốc phòng và an
ninh.
Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng về giáo dục quốc phòng và an
ninh, Nhà nước, các cơ quan chức năng có thẩm quyền đã kịp thời ban hành các
văn bản phát luật và triển khai thực hiện.
Theo đó, mục tiêu giáo dục quốc phòng và an ninh nhằm “Giáo dục cho
công dân về kiến thức quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước,
truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý
thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.21
Như vậy, theo quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, giáo dục quốc phòng và
an ninh là: Tổng thể các hoạt động giáo dục nhằm xây dựng, nâng cao phẩm
chất và năng lực về quốc phòng và an ninh cho công dân Việt Nam trong các
hoạt động nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tổng thể các hoạt động giáo dục quốc phòng và an ninh bao gồm cả hoạt
động giáo dục và hoạt động bồi dưỡng; tùy theo đối tượng cụ thể để thực hiện
giáo dục hay bồi dưỡng nâng cao kiến thức về quốc phòng và an ninh. Nội dung
giáo dục quốc phòng và an ninh bao gồm: hệ thống quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
về quốc phòng và an ninh; về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam và về kỹ năng quân sự - khả năng thực hành những nội dung cơ bản,
cần thiết về kỹ, chiến thuật quân sự.
20 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.21 Điều 4, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, số 30/2013/QH13.
13
Đối tượng giáo dục quốc phòng và an ninh là mọi công dân Việt Nam.
Công dân có quyền và trách nhiệm học tập, nghiên cứu để nắm vững kiến thức
quốc phòng và an ninh.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân có vai trò khác nhau trong hệ thống chính trị, các
tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và cộng đồng; vì vậy, tùy thuộc vào vai trò xã
hội của các cá nhân trong hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị, chính trị - xã
hội và cộng đồng để phân nhóm đối tượng và xác định nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho phù
hợp. Trong từng giai đoạn cụ thể, nội dung giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng và an ninh được xác định, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng.
Mục tiêu của giáo dục quốc phòng và an ninh là xây dựng, nâng cao lòng
yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức cảnh giác cách mạng, tự giác chấp
hành và thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; có kiến thức, kỹ năng
quốc phòng và an ninh cần thiết, phù hợp với vai trò và lĩnh vực hoạt động xã
hội, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng,
Nhà nước và nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa ngày càng giàu mạnh.
Tóm lại, giáo dục quốc phòng và an ninh là quá trình giáo dục, bồi dưỡng
cho công dân những phẩm chất và năng lực cần thiết về quốc phòng và an ninh
theo vai trò xã hội đảm nhiệm nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục quốc phòng và an ninh có vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc xây
dựng nhân tố chính trị tinh thần, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, giáo dục
quốc phòng và an ninh còn thiết thực góp phần gắn các hoạt động xây dựng,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… với quốc phòng, an ninh, nhằm phát huy
mọi tiềm lực của đất nước và toàn dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, giáo dục quốc phòng và an
14
ninh là một trong những chủ trương chiến lược quan trọng của Đảng, được Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể chế hóa thành Luật Giáo dục
quốc phòng và an ninh.
II. HỆ THỐNG VĂN BẢN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH CỦA VIỆT NAM
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có những yêu cầu
khác nhau, với những hình thức, tính chất, bước đi khác nhau; song, từ khi có
Đảng lãnh đạo, quản lý của Nhà nước, giáo dục quốc phòng và an ninh luôn
được xác định là nhiệm vụ chiến lược với những định hướng khoa học và những
chế tài có tính pháp lý cao, ngày càng được hoàn thiện, đã góp phần to lớn vào
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Trong thập kỷ 60 của Thế kỷ XX, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Để thức hiện hai nhiệm vụ chiến lược
trên, ngày 28 tháng 4 năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 11/SL
công bố Luật Nghĩa vụ quân sự. Tại Điều 30 của Luật quy định: Đối với sinh
viên, học sinh các trường đại học, các trường chuyên nghiệp trung cấp thì việc
huấn luyện quân sự thuộc chương trình giáo dục do Chính phủ quy định.
Thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, ngày 26 tháng 12 năm 1961, Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 217-CP về ban hành Điều lệ về đăng ký,
thống kê và quản lý quân nhân dự bị, trong đó quy định “những sinh viên và học
sinh trong lứa tuổi nghĩa vụ quân sự đang học tại các trường đại học và các
trường chuyên nghiệp trung cấp phải đăng ký vào loại hạ sĩ quan và binh sĩ dự
bị hạng 2”. Tiếp đó, ngày 28 tháng 12 năm 1961, Hội đồng Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 219/CP về việc Huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị và
dân quân tự vệ. Tại Điều 3 của Nghị định này, quy định: “…trong các trường
đại học và các trường chuyên nghiệp trung cấp việc học tập quân sự phải đặt
thành một môn học chính”. Từ đây, môn học Huấn luyện quân sự phổ thông
15
được đưa vào trong chương trình giáo dục của các trường chuyên nghiệp trung
cấp (nay là trung cấp chuyên nghiệp), đại học, cao đẳng và sau đó là các trường
phổ thông cấp 3 (nay là trung học phổ thông). Môn học Huấn luyện quân sự phổ
thông là dấu mốc quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện,
tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tu dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện lối sống có
kỷ luật và năng lực để sẵn sàng thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, quán triệt nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố quốc
phòng, Đảng, Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục quốc
phòng. Để làm cơ sở cho các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai
thực hiện, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ thị số 107-
CT/TW ngày 28 tháng 4 năm 1981 về tăng cường công tác giáo dục quốc phòng
nhân dân, chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Tiếp
đó, ngày 30 tháng 7 năm 1987, Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị quyết
02-NQ/TW quy định đưa nội dung đường lối quân sự của Đảng và nhiệm vụ
quốc phòng vào chương trình học tập chính thức của các trường đào tạo, bổ túc
cán bộ của Đảng và Nhà nước; đưa nội dung chương trình giáo dục quốc phòng
vào chương trình chính khóa của các trường trung học và đại học.
Ngày 27 tháng 12 năm 1979, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số
387-TTg về việc huấn luyện sĩ quan dự bị trong học sinh, sinh viên các trường
đại học và cán bộ công tác tại các ngành ngoài quân đội có nghề nghiệp phù
hợp với quốc phòng. Đây là bước phát triển mới, nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ sĩ quan dự bị trẻ có phẩm chất tốt, có kiến thức khoa học và những hiểu biết
quân sự cần thiết, có sức khỏe đảm nhiệm được nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết
hợp với củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước. Chỉ thị quy định:
“Các bộ, các cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ
và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố thực hiện tốt những điểm sau đây:
16
1. Tổ chức tuyên truyền giáo dục sâu rộng ý nghĩa chiến lược của lực
lượng dự bị và xây dựng đội ngũ sĩ quan dự bị trong cán bộ, nhân dân và trong
thanh niên học sinh thuộc lứa tuổi làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, thực hiện đúng
Nghị định số 219-CP ngày 28 tháng 12 năm 1961 về việc huấn luyện quân sự
cho quân dự bị và dân quân tự vệ, Nghị định số 217-CP ngày 26 tháng 12 năm
1961 về công tác đăng ký, quản lý quân nhân dự bị.
2. Đưa nội dung huấn luyện quân sự, đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan dự bị vào
trong chương trình chính khóa của các trường đại học và cao đẳng, xác định
nội dung ấy là một trong những nhiệm vụ đào tạo của các trường. Trước mắt,
trường nào có thể điều chỉnh để đưa toàn bộ chương trình sĩ quan dự bị vào
chính khóa huấn luyện quân sự từ 02 đến 03 tháng vào cuối khóa học để bảo
đảm đầy đủ chương trình đào tạo bồi dưỡng sĩ quan dự bị như năm 1979, và
thời gian này được tính vào chính khóa. Việc điều chỉnh chương trình do Bộ Đại
học và Trung học chỉ đạo thực hiện cụ thể, nhưng nhất thiết không được để ảnh
hưởng đến yêu cầu nâng cao chất lượng toàn diện trong việc đào tạo cán bộ
khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ.
Năm 1980 sẽ tiếp tục mở rộng việc huấn luyện quân sự cho sĩ quan dự bị
trong các trường đại học, cao đẳng ở miền Bắc và làm thí điểm trong một số
trường ở miền Nam.
Từ năm 1981 trở đi, công tác đào tạo sĩ quan dự bị phải đưa vào nề nếp
theo quy chế đã ban hành. Để các trường có thể đảm nhiệm được toàn bộ
chương trình huấn luyện sĩ quan dự bị, các ngành có trường cần củng cố, kiện
toàn các ban (hoặc bộ môn) quân sự trong các trường”.
Trong sự nghiệp đổi mới, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã
hội, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến giáo dục quốc phòng và an ninh.
Vì vậy, công tác giáo dục quốc phòng và đào tạo sĩ quan dự bị trong học sinh,
sinh viên trong nhiều năm đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tích
cực vào việc củng cố quốc phòng. Tuy nhiên, do nhận thức chưa đầy đủ, chương
17
trình và nội dung giáo dục chưa phù hợp, phân công chỉ đạo chưa thật rõ ràng,
điều kiện bảo đảm chưa tốt... nên chất lượng công tác này còn hạn chế.
Triển khai thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự và Luật Sĩ quan Quân đội
nhân dân Việt Nam sửa đổi, bổ sung (công bố ngày 02 tháng 01 năm 1991); để
thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng - an ninh phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội trong tình hình mới, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành Chỉ thị số 420-CT ngày 30 tháng 12
năm 1991 về giáo dục quốc phòng và đào tạo sĩ quan dự bị trong học sinh, sinh
viên. Nội dung của Chỉ thị nêu rõ:
“1. Giáo dục quốc phòng và đào tạo sĩ quan dự bị là nhiệm vụ quan trọng
trong chiến lược đào tạo con người mới nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung
và cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức tổ chức
kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào
tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Giáo dục quốc phòng là yêu cầu không thể thiếu trong chương trình ở
các trường phổ thông trung học, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học, kể cả quốc lập, dân lập và các loại hình đào tạo khác.
- Tiếp tục đào tạo có chọn lọc các sinh viên đại học có ngành nghề phù
hợp với quốc phòng thành sĩ quan dự bị của các ngành kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ, để khi cần thì động viên phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo và quản lý công
tác giáo dục quốc phòng và đào tạo sĩ quan dự bị trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Bộ Quốc phòng có trách nhiệm cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thực
hiện. Hai Bộ cần củng cố tổ chức hiện có để quản lý, chỉ đạo điều hành công tác
này.
2. Trên tinh thần tích cực đổi mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Quốc
phòng cần sớm tổng kết; cải tiến lớn về chương trình, nội dung phương pháp
giáo dục quốc phòng và đào tạo sĩ quan dự bị nhằm nâng cao chất lượng và
khắc phục tình trạng hình thức, kém hiệu quả.18
Cần chú ý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên quân sự; xây dựng hệ
thống tài liệu, giáo trình; bảo đảm cơ sở vật chất, trang bị huấn luyện, học cụ
quân sự chuyên dùng và các mặt bảo đảm khác; áp dụng phương thức lồng ghép
một số nội dung quân sự vào những môn học phù hợp của các trường; tổ chức
cho học viên được học tập tại các trung tâm huấn luyện quân sự hoặc đơn vị,
nhà trường quân đội để nâng cao năng lực thực hành”.
Đối với hệ thống các trường hành chính, chính trị, đoàn thể, môn Giáo dục
quốc phòng cũng được quy định tại Nghị định số 71/CP ngày 13 tháng 7 năm
1994 của Chính phủ. Nghị định quy định:
“Điều 1. Đưa môn giáo dục quốc phòng thành môn học bắt buộc trong hệ
thống các trường chính trị, hành chính và đoàn thể ở các cấp.
Điều 2. Thời gian, nội dung môn học giáo dục quốc phòng Bộ Quốc
phòng bàn với các ngành liên quan xác định cho phù hợp”.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng phục vụ sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 12 tháng 02 năm 2001 về tăng
cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Chỉ thị nêu
rõ: “Cần tăng cường thực hiện công tác giáo dục quốc phòng toàn dân sâu
rộng, thường xuyên có nền nếp vững chắc…”, và yêu cầu các cấp ủy, các tổ
chức chính quyền các cấp, ngành cần thực hiện tốt những việc sau đây:
“1. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng toàn
dân, tạo chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng về nhận thức và trách nhiệm của cán
bộ các cấp và toàn dân đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
mọi tình huống…
2. Giáo dục quốc phòng toàn dân là một bộ phận của nền giáo dục quốc
dân, việc phổ cập và tăng cường giáo dục quốc phòng toàn dân là nhiệm vụ
chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện
thống nhất từ Trung ương đến địa phương bằng các hình thức phù hợp với từng 19
đối tượng, kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo dục tập trung có trọng điểm;
chú trọng giáo dục ý thức, tri thức và kỹ năng quân sự cần thiết cho toàn dân,
kết hợp giáo dục lý thuyết với thực hành…”.
Ngày 01 tháng 5 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số
15/2001/NĐ-CP về Giáo dục quốc phòng, trong đó quy định rõ về vị trí, tính
chất, mục tiêu, yêu cầu, nguyên lý, đối tượng, cơ chế, chính sách… và nội dung
cơ bản của công tác giáo dục quốc phòng, như sau:
“Điều 2. Vị trí, tính chất của công tác giáo dục quốc phòng:
1. Giáo dục quốc phòng thuộc nội dung của nền giáo dục quốc gia, là nội
dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, có ý nghĩa quan trọng
trong chiến lược đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa.
2. Giáo dục quốc phòng là môn học chính khóa trong các trường, lớp đào
tạo bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, trung học phổ
thông thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, các trường chính trị, hành chính và
đoàn thể.
Điều 3. Mục tiêu giáo dục quốc phòng.
Giáo dục quốc phòng nhằm góp phần đào tạo con người phát triển toàn
diện, có đạo đức, sức khỏe và kiến thức quốc phòng, kỹ năng quân sự cầu thiết
để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân.
Điều 4. Yêu cầu về giáo dục quốc phòng:
1. Giáo dục quốc phòng phải hợp lý, đồng bộ, thống nhất bằng nhiều hình
thức, nội dung phù hợp với từng đối tượng.
2. Giáo dục quốc phòng phải được thực hiện theo chương trình, giáo
trình, kế hoạch giảng dạy, phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, có hệ
thống, phù hợp với mục tiêu giáo dục của từng bậc học, cấp học.
Điều 5. Nguyên lý giáo dục quốc phòng:
20
Phải quán triệt và thực hiện đúng nguyên lý giáo dục của Đảng, Nhà
nước; giáo dục phải có tính nhân dân, tính truyền thống của dân tộc, tính khoa
học kỹ thuật quân sự hiện đại, giáo dục lý thuyết đi đôi với thực hành.
Điều 6. Đối tượng, nội dung giáo dục quốc phòng:
1. Học sinh trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, sinh
viên cao đẳng, đại học thuộc các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục;
nội dung giáo dục quốc phòng gồm một số kiến thức cơ bản, cần thiết về: kỹ
thuật, chiến thuật quân sự, phòng thủ dân sự; một số hiểu biết về Quân đội nhân
dân và Lực lượng vũ trang nhân dân, nghĩa vụ quân sự; Luật Sĩ quan Quân đội
nhân dân Việt Nam; quan điểm, đường lối quốc phòng, công tác quốc phòng
của Đảng, Nhà nước; tác động của các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại
trong lĩnh vực hoạt động quân sự; nghệ thuật quân sự Việt Nam; phòng chống
chiến lược ''diễn biến hòa bình'', bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với
cách mạng Việt Nam. Nội dung chương trình cụ thể cho từng đối tượng do Bộ
Quốc phòng thống nhất với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội ban hành.
2. Học viên đào tạo trong các trường chính trị, hành chính, đoàn thể các
cấp và các lớp đào tạo tại chức do các bộ, các địa phương tổ chức. Nội dung
giáo dục quốc phòng gồm một số kiến thức cơ bản về đường lối, quan điểm của
Đảng, Nhà nước về quốc phòng; quản lý nhà nước về quốc phòng; sự hình
thành, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam; chiến lược an ninh - quốc phòng
một số nước liên quan đến an ninh, quốc phòng Việt Nam; phòng chống chiến
lược ''diễn biến hòa bình'', bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách
mạng Việt Nam; công tác tham mưu quân sự ở các bộ, ngành và địa phương.
Nội dung, chương trình cụ thể cho từng đối tượng do Bộ Quốc phòng phối hợp
với các học viện, các trường chính trị, hành chính, đoàn thể Trung ương thống
nhất quy định.
3. Cán bộ, công chức lãnh đạo chủ chốt các cấp của Đảng, Nhà nước.
21
Cán bộ, công chức của Đảng, Nhà nước giữ các chức vụ chủ chốt ở các
cấp, được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng tại Học viện Quốc phòng hoặc ở
Trường Quân sự quân khu, Trường Quân sự tỉnh theo phân cấp cho từng đối
tượng. Nội dung, thời gian, chương trình cụ thể do Bộ Quốc phòng thống nhất
với các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước để quy định phù hợp với sự
phát triển của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và quốc phòng - an
ninh của đất nước trong từng thời gian.
4. Giáo dục quốc phòng cho các đối tượng không thuộc quy định tại
khoản 1, 2 và 3 Điều 6.
a) Học sinh trung học cơ sở: Giáo dục quốc phòng được thực hiện ngoại
khóa, vận dụng lồng ghép vào các môn học khác có nội dung gần với hoạt động
quốc phòng như thể dục, giáo dục công dân, lịch sử; tổ chức tham quan các di
tích lịch sử, Bảo tàng Quân đội, tổ chức hội thi, hội khỏe Phù Đổng...
b) Thanh, thiếu niên nếu có điều kiện về trình độ, sức khỏe và tự nguyện,
được giáo dục hướng nghiệp quốc phòng thông qua hình thức câu lạc bộ thể
thao hướng nghiệp quốc phòng và kỹ thuật quân sự.
c) Đối với các tầng lớp quần chúng nhân dân, thực hiện việc tuyên truyền,
giáo dục quốc phòng thường xuyên, thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng và sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể, quần chúng ở cơ sở”.
Sau năm 1975, việc huấn luyện quân sự phổ thông được điều chỉnh phù
hợp với giai đoạn phát triển mới, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo tăng cường giáo
dục nâng cao nhận thức của học sinh, sinh viên về quốc phòng và an ninh. Ở bậc
đại học, sĩ quan biệt phái đảm nhiệm giảng dạy khi ngành giáo dục và đào tạo
chưa đào tạo được giáo viên chuyên trách. Ngày 11 tháng 5 năm 1982, Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có Nghị định số 86/HĐBT về chế độ biệt phái
của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Nghị định số 153/HĐBT ngày 08
tháng 9 năm 1982 về chế độ của sĩ quan dự bị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Các văn bản này đã quy định về tổ chức, biên chế sĩ quan biệt phái tại ngành
Giáo dục và Đào tạo; sĩ quan biệt phái chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ chuyên môn
22
theo ngành dọc từ Bộ xuống các cơ sở giáo dục. Trước sự phát triển của kinh tế
- xã hội, nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; để tăng cường quản lý nhà nước về
giáo dục quốc phòng và an ninh, ngày 22 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban
hành Nghị định số 165/2003/NĐ-CP về Biệt phái sĩ quan Quân đội nhân dân
dân Việt Nam. Nghị định quy định:
“Biệt phái làm tham mưu trong quản lý và giảng dạy môn giáo dục quốc
phòng ở Sở Giáo dục và Đào tạo một số tỉnh, thành phố trọng điểm, một số học
viện, trường đại học, cao đẳng (sau đây gọi chung là cơ quan, nhà trường) theo
quy định của Chính phủ về giáo dục quốc phòng…” (khoản 3 Điều 3 Chương I).
Yêu cầu “Sĩ quan biệt phái ở các cơ quan giáo dục đào tạo và các nhà
trường phải có trình độ năng lực quản lý, giảng dạy môn giáo dục quốc phòng
theo quy định của Luật Giáo dục; có khả năng tham gia vào các hoạt động giáo
dục đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động quân sự khác;” (điểm b
Khoản 2 Điều 4 Chương I).
Tại khoản 3 Điều 10, Chương III, quy định: “Sĩ quan biệt phái ở cơ quan
giáo dục - đào tạo và các nhà trường có nhiệm vụ:
a) Làm tham mưu với Thủ trưởng cơ quan, nhà trường nơi sĩ quan đến
biệt phái thực hiện công tác quản lý về giáo dục quốc phòng; nghiên cứu khoa
học, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và thực hiện giảng dạy môn học
giáo dục quốc phòng;
b) Tham gia phối hợp thực hiện các công tác quân sự khác…”;
Về trách nhiệm quản lý công tác chuyên môn của sĩ quan biệt phái, tại
khoản 5 Điều 12 Chương IV, quy định: “Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách
nhiệm quản lý công tác chuyên môn đối với sĩ quan biệt phái làm nhiệm vụ quản
lý và giảng dạy môn giáo dục quốc phòng trong cả nước”.
Thực hiện nghị định của Chính phủ, trong những năm qua, lực lượng sĩ
quan biệt phái đã có những đóng góp quan trọng giúp các bộ, ban, ngành Trung
ương triển khai nhiệm vụ quân sự, quốc phòng đạt kết quả tốt; đội ngũ sĩ quan
23
biệt phái làm nhiệm vụ giảng dạy là bộ phận nòng cốt quyết định trực tiếp tới
chất lượng dạy và học môn giáo dục quốc phòng tại các cơ sở giáo dục đại học
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Ngày 3 tháng 12 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (khóa XI) thông qua Luật An ninh quốc gia số 30/2004/QH11. Luật
quy định:
“Điều 10. Tuyên truyền, giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia
1. Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo công tác tuyên truyền,
giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia.
2. Cơ quan thông tin, tuyên truyền có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền,
phổ biến pháp luật và nâng cao ý thức bảo vệ an ninh quốc gia cho toàn dân.
3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm tuyên truyền, giáo dục, vận động công dân Việt Nam, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài bảo vệ an ninh quốc gia.
4. Giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia là một nội dung giáo dục quốc dân.
Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa nội dung
giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia vào chương trình dạy học trong nhà trường và
các cơ sở giáo dục khác phù hợp với ngành học, cấp học”.
Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua Luật Quốc phòng số 30/2004/QH11. Luật quy định:
“Điều 19. Phạm vi, đối tượng giáo dục quốc phòng
1. Giáo dục quốc phòng được thực hiện trong phạm vi cả nước với nội
dung, hình thức, phương pháp phù hợp cho từng đối tượng.
2. Giáo dục quốc phòng là môn học chính khóa trong nhà trường từ trung
học phổ thông trở lên.
24
Kiến thức quốc phòng là một trong các tiêu chuẩn bắt buộc đối với người
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, tổ chức. Đối tượng, tiêu chuẩn cụ
thể do Chính phủ quy định.
Điều 20. Nội dung giáo dục quốc phòng
1. Giáo dục quyền và nghĩa vụ của công dân về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; truyền thống đấu
tranh chống ngoại xâm của dân tộc; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội, ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống
phá chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và kỹ năng quân sự cần
thiết; rèn luyện thể lực để công dân sẵn sàng làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
3. Bồi dưỡng cho cán bộ, công chức và người đứng đầu cơ quan, tổ chức
những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự và công tác quản lý nhà nước về
quốc phòng.
Điều 21. Trách nhiệm tổ chức thực hiện giáo dục quốc phòng
1. Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng
nội dung, chương trình giáo dục quốc phòng phù hợp với từng đối tượng, cấp
học; chỉ đạo tổ chức thực hiện giáo dục quốc phòng trong phạm vi cả nước.
2. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm tổ chức thực hiện nội dung, chương trình giáo dục quốc phòng theo quy
định của pháp luật.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân và
gia đình phát triển các hình thức giáo dục hướng nghiệp và giáo dục đại chúng
về quốc phòng.
4. Cơ chế, chính sách bảo đảm đối với giáo dục quốc phòng do Chính phủ
quy định”.
Ngày 11 tháng 5 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 119/2004/NĐ-CP
về công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ . 25
Tại điều 2 của Nghị định xác định “công tác quốc phòng ở các bộ, ngành và các
địa phương là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác quốc phòng của
Nhà nước”, trong đó có công tác giáo dục quốc phòng toàn dân; đồng thời, quy
định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành, địa phương về công tác quốc
phòng, như sau:
“Điều 4. Nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành
1. Chỉ đạo, tổ chức tuyên truyền giáo dục quốc phòng toàn dân và thực
hiện công tác giáo dục quốc phòng toàn dân cho cán bộ, công chức và người
lao động trong các cơ quan, đơn vị thuộc bộ, ngành quản lý; phối hợp với Bộ
Quốc phòng thực hiện bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đối tượng cán
bộ, công chức theo quy định của pháp luật.
Điều 5. Nhiệm vụ, quyền hạn của các địa phương
1. Tổ chức tuyên truyền giáo dục quốc phòng toàn dân và thực hiện công
tác giáo dục quốc phòng toàn dân, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ
các cấp và giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên theo quy định của pháp
luật.
3. Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Kế hoạch và Đầu tư của các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương căn cứ đặc điểm, nhiệm vụ, yêu cầu công tác quốc
phòng bố trí cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm, hoặc sĩ quan quân đội biệt
phái làm công tác quốc phòng; các sở, ban, ngành khác bố trí cán bộ kiêm
nhiệm làm công tác quốc phòng”.
Qua hơn 5 năm (2001-2005) thực hiện Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 12
tháng 02 năm 2001 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác giáo dục quốc
phòng toàn dân trong tình hình mới và Nghị định số 15/2001/NĐ-CP ngày 01
tháng 5 năm 2001 của Chính phủ về giáo dục quốc phòng, cho thấy công tác
giáo dục quốc phòng đã được triển khai thống nhất, đồng bộ đến mọi cấp, mọi
ngành và toàn dân, từng bước đi vào nền nếp. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng
cho các đối tượng được các cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nghiêm túc, chặt chẽ, đúng nội dung chương trình; đối tượng được mở rộng; đạt 26
được một số kết quả nhất định. Giáo dục quốc phòng đối với học sinh, sinh viên
ở các loại hình đào tạo được triển khai thực hiện trong chương trình đào tạo
chính khóa. Thông qua giáo dục quốc phòng, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng,
an ninh đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân về nhận thức và trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Kết quả đạt được trong những năm qua đã
khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục quốc
phòng, an ninh.
Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện, công tác giáo dục quốc phòng, an ninh
còn bộc lộ một số yếu kém, như: Nhận thức và trách nhiệm đối với nhiệm vụ
giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới của một số cấp ủy, chính
quyền, bộ, ngành Trung ương và cơ sở, của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
trong đó có cả cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành chưa sâu sắc; chưa quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư đúng mức cho công tác này, cá biệt còn có cán bộ chủ
chốt ngại đi bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; việc tuyên truyền phổ
biến kiến thức quốc phòng, an ninh toàn dân trên các phương tiện thông tin đại
chúng ở một số địa phương chưa được coi trọng đúng mức, hiệu quả thấp. Đội
ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu cả về số
lượng và chất lượng; phương pháp tổ chức thực hiện ở nhiều cơ sở giáo dục -
đào tạo chậm đổi mới nên chất lượng giáo dục quốc phòng, an ninh cho học
sinh, sinh viên còn nhiều hạn chế…
Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trên, đưa công tác giáo dục
quốc phòng, an ninh đi vào chiều sâu, góp phần làm chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, ngày 03 tháng 5 năm 2007,
Bộ Chính trị (Khóa X) đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình
mới. Nội dung Chỉ thị đề cập tới vấn đề mới, đó là công tác giáo dục an ninh
quốc gia.
27
Nhằm cụ thể hóa Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị, ngày 10 tháng 7
năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2007/NĐ-CP về Giáo dục
quốc phòng - an ninh. Nghị định quy định về phạm vi điều chỉnh, vị trí, tính
chất, mục tiêu, yêu cầu, nguyên lý đến đối tượng, nội dung, chương trình, thời
gian, địa điểm và cơ chế, chính sách đối với công tác giáo dục quốc phòng - an
ninh.
Giáo dục quốc phòng và an ninh luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng,
điều đó được thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo của Đảng và được thể
chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng
giai đoạn. Hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục quốc phòng và an ninh từng
bước phát triển và được hoàn thiện thành văn bản luật chuyên biệt - Luật Giáo
dục quốc phòng và an ninh.
Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XIII) thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2013 tại kỳ
họp thứ 5 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014) là văn bản có
tính pháp lý cao nhất về công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, sẽ đáp ứng
yêu cầu tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, gắn quốc phòng, an ninh với
các hoạt động xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
28
Phần thứ hai
GIỚI THIỆU LUẬT GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQPAN), công
tác GDQPAN trên phạm vi cả nước đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; qua
đó, tạo ra sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, đảng viên các cấp, các ngành, học sinh, sinh viên và các
đối tượng khác đối với GDQPAN; nhiệm vụ GDQPAN đã được lãnh đạo, chỉ
đạo thống nhất và được triển khai thực hiện chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở.
Hội đồng GDQPAN các cấp thường xuyên được củng cố, kiện toàn, phát huy
được vai trò, chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp, người đứng
đầu cơ quan, tổ chức trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả, góp phần giữ
vững sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, qua tổng kết 10 năm thực hiện công tác GDQPAN trên phạm
vi toàn quốc cho thấy, công tác GDQPAN còn bộc lộ một số khuyết điểm, yếu
kém như: Việc quán triệt, triển khai thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước
về công tác GDQPAN có nơi chưa sâu, chưa đầy đủ, nhận thức của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ chủ chốt về công tác GDQPAN chưa
toàn diện; cá biệt một số Bộ, ngành Trung ương, doanh nghiệp còn xem nhẹ
công tác này, nên việc tổ chức thực hiện còn hạn chế, thiếu toàn diện, chất lượng
chưa cao. Công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh (KTQPAN) cho
các đối tượng thuộc các Bộ, ngành Trung ương chưa được quan tâm đúng mức.
Đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQPAN thiếu về số lượng, yếu về chất lượng;
cơ sở vật chất, trang, thiết bị bảo đảm cho việc dạy và học nội dung này còn
thiếu, dẫn đến chất lượng GDQPAN cho học sinh, sinh viên có nơi còn thấp.
29
Công tác tuyên truyền, phổ biến KTQPAN toàn dân chưa thường xuyên, chưa
rộng khắp. Một số cơ quan thông tấn, báo chí chưa đầu tư thích đáng cho công
tác tuyên truyền về quốc phòng và an ninh.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là, cấp ủy, chính quyền, người đứng
đầu một số cơ quan, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ về vị trí chiến lược của công
tác GDQPAN, nên thiếu quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Hệ
thống văn bản pháp luật về GDQPAN tuy đã được ban hành tương đối đầy đủ,
đồng bộ, nhưng tính pháp lý chưa cao, còn vướng mắc và bất cập trong tổ chức
thực hiện; văn bản pháp luật về GDQPAN chủ yếu mới được ban hành ở mức
nghị định của Chính phủ và thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành; một số nội
dung văn bản chưa tương thích với các quy định của Luật Giáo dục, Luật Quốc
phòng, Luật An ninh quốc gia, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, nên
trong quá trình tổ chức thực hiện gặp khó khăn. Mặt khác, pháp luật hiện hành
chưa quy định việc bồi dưỡng KTQPAN cho một số đối tượng, như: Người quản
lý ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, hợp tác
xã; chưa quy định rõ việc phổ biến KTQPAN cho các đối tượng đặc thù; chưa
xác định rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ này.
Để khắc phục những hạn chế, đồng thời tạo ra những bước phát triển vững
chắc trong GDQPAN, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới; làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, góp phần bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn
định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn
chặn làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch
đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, việc ban hành Luật GDQPAN là
cần thiết; là thực hiện đúng quy định của Điều 48 Hiến pháp năm 1992, Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng 30
đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý vững chắc, đồng bộ cho GDQPAN trong tình
hình mới.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
1. Bảo đảm Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với nhiệm
vụ tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN nói chung, GDQPAN nói riêng; thực hiện đúng quan điểm xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; thể chế hóa chủ trương, quan điểm đã
được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung,
phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về quốc
phòng, an ninh, giáo dục và đào tạo; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khoá IX) “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới”.
2. Bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với Hiến pháp, các luật có liên quan,
đặc biệt là các quy định của Luật Giáo dục, Luật Quốc phòng, Luật An ninh
Quốc gia, Luật Giáo dục đại học, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho
công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực GDQPAN.
3. Bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật về
GDQPAN hiện hành đã được thực tiễn kiểm nghiệm thấy phù hợp, đồng thời bổ
sung những quy định mới để giải quyết những vấn đề đặt ra trong GDQPAN.
4. Bảo đảm tính thực tiễn: Nghiên cứu những ưu điểm, khuyết điểm,
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, các nhóm giải pháp, kiến nghị, đề nghị được
rút ra từ Tổng kết thực tiễn 10 năm GDQPAN (2001-2010) để hoàn thiện dự án
Luật.
5. Bảo đảm tính công khai, dân chủ, minh bạch và dễ tiếp cận; tiếp thu
những ý kiến hợp lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, chuyên gia, nhà khoa
học trong quá trình soạn thảo.
31
6. Nghiên cứu có chọn lọc về tổ chức GDQP của các nước trên thế giới,
vận dụng phù hợp với điều kiện nước ta để đạt hiệu quả thiết thực.
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
1. Bố cục Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh
Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh gồm 8 chương, 47 điều.
Chương I. Những quy định chung
Chương này gồm 9 điều (từ Điều 1 đến Điều 9): quy định chung về: Phạm
vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; mục tiêu, nguyên tắc
GDQPAN; chính sách của Nhà nước, quyền và trách nhiệm của công dân,
Trung tâm GDQPAN và các hành vi bị nghiêm cấm khi thực hiện GDQPAN.
Chương II. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong nhà trường
Chương này gồm 4 điều (từ Điều 10 đến Điều 13): quy định về GDQPAN
trong các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân; từ bậc tiểu học, trung
học cơ sở, trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp
nghề, cao đẳng nghề đến các cơ sở giáo dục đại học; các trường của cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Chương III. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh
Chương này gồm 04 điều (từ Điều 14 đến Điều 18): quy định về bồi
dưỡng KTQPAN cho các đối tượng: cá nhân đang công tác tại các cơ quan, tổ
chức của Nhà nước, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội; người quản lý
doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập; cá
nhân tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư; đồng thời quy định về
thẩm quyền triệu tập, cơ sở bồi dưỡng (địa điểm tổ chức bồi dưỡng) và chế độ,
quyền lợi của người được triệu tập, tham gia và hoàn thành chương trình bồi
dưỡng KTQPAN.
Chương IV. Phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân
32
Chương này gồm 04 điều (từ Điều 19 đến Điều 22): quy định về nội dung,
hình thức phổ biến KTQPAN cho toàn dân nói chung, phổ biến KTQPAN cho
người dân ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa và trong
doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp nói riêng; đồng thời quy định cơ quan chỉ đạo,
cơ quan chủ trì và phối hợp trong tổ chức bồi dưỡng.
Chương V. Giáo viên, giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên giáo
dục quốc phòng an ninh
Chương này gồm 06 điều (từ Điều 23 đến Điều 28): quy định về giáo viên,
giảng viên; quy định về đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, tuyển dụng giáo viên,
giảng viên; trách nhiệm và quyền lợi của giáo viên, giảng viên; quy định về báo
cáo viên, tuyên truyền viên, trách nhiệm và quyền lợi của báo cáo viên, tuyên
truyền viên GDQPAN.
Chương VI. Kinh phí giáo dục quốc phòng và an ninh
Chương này gồm 03 điều (từ Điều 29 đến Điều 31): quy định về nguồn
kinh phí được huy động cho GDQPAN; quy định về nội dung chi; việc lập dự
toán; chấp hành và quyết toán kinh phí GDQPAN.
Chương VII. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức về giáo
dục quốc phòng và an ninh
Chương này gồm 14 điều (từ Điều 32 đến Điều 45): quy định về Nội dung
quản lý Nhà nước về GDQPAN; cơ quan quản lý Nhà nước về GDQPAN;
nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ
quan, tổ chức ở Trung ương; đồng thời nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ:
Quốc phòng, Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động,
Thương binh và xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông; nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND, UBND các cấp; trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên; các quy định về Hội đồng GDQPAN các cấp và trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với việc thực hiện pháp luật về
GDQPAN.
33
Chương VIII. Điều khoản thi hành
Chương này gồm 02 điều (Điều 46 và Điều 47): quy định về thời điểm
Luật bắt đầu có hiệu lực thi hành; trách nhiệm của Chính phủ, cơ quan có thẩm
quyền quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao, được xác
định trong Luật GDQPAN.
2. Nội dung cơ bản của Luật giáo dục quốc phòng và an ninh
2.1. Những quy định chung (Chương I)
Trên cơ sở đúc kết những kết quả và kinh nghiệm GDQPAN thời gian
qua, Luật GDQPAN được ban hành lần này xác định mục tiêu giáo dục cho
công dân về kiến thức quốc phòng và an ninh là để phát huy tinh thần yêu nước,
truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý
thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề được quy định trong chương này là những nội dung cơ bản,
cốt lõi nhất cần phải thống nhất nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình
thực hiện Luật. Nếu những vấn đề trên không được xác định thống nhất sẽ làm
cho quá trình triển khai thực hiện Luật gặp vướng mắc, hiệu quả thấp, không thể
đi vào cuộc sống, không đạt được mục đích yêu cầu đề ra; làm cản trở, ảnh
hưởng đến nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong
giai đoạn cách mạng mới.
2.1.1.Phạm vi điều chỉnh (Điều 1)
Điều này khẳng định phạm vi điều chỉnh của Luật này gồm: quy định
nguyên tắc, chính sách, nội dung cơ bản, hình thức GDQPAN; nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, quyền và trách nhiệm của công dân về GDQPAN. Các
nội dung điều chỉnh của Luật này nhằm bảo đảm cho việc triển khai thực hiện
Luật GDQPAN trên phạm vi toàn quốc được chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ, toàn
diện, nghiêm túc, đạt hiệu quả thiết thực.
2.1.2.Đối tượng áp dụng (Điều 2)
34
Điều này có 2 khoản (1 và 2) quy định cụ thể về đối tượng áp dụng. Theo
đó, các cơ quan, tổ chức, công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; các tổ chức, cá nhân của nước ngoài đang cư trú, hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam đều phải thực hiện Luật GDQPAN và các văn bản pháp luật có liên
quan về GDQPAN.
Đối tượng áp dụng của Luật GDQPAN phù hợp với Hiến pháp năm 1992,
thống nhất với Luật Quốc phòng và Luật An ninh Quốc gia, và các văn bản pháp
luật hiện hành về GDQPAN. Trong đó, Điều 44 Hiến pháp năm 1992 quy
định:“Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là
sự nghiệp của toàn dân”, “Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và
công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ QP và AN do pháp luật quy định”.
2.1.3.Giải thích hai cụm từ ngữ (Điều 3)
Nội dung điều này gồm hai khoản (1 và 2) để giải thích hai cụm từ “Kiến
thức quốc phòng và an ninh” được hiểu thống nhất là hệ thống quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng
và an ninh; truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc và kỹ năng quân sự.
Cụm từ “Kỹ năng quân sự” được hiểu là khả năng thực hành những nội dung cơ
bản cần thiết về kỹ thuật, chiến thuật quân sự. Để quá trình thực hiện Luật này
đạt hiệu quả cần phải có sự thống nhất nhận thức về nội hàm của 2 cụm từ này;
qua đó, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện.
2.1.4. Mục tiêu giáo dục quốc phòng và an ninh (Điều 4)
Nội dung điều này quy định mục tiêu cần đạt được của GDQPAN. Theo
đó, việc giáo dục cho công dân về KTQPAN, gồm: hệ thống quan điểm, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam
về quốc phòng, an ninh; truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự
tôn dân tộc; khả năng thực hành kỹ thuật, chiến thuật quân sự, nhằm nâng cao ý
thức, trách nhiệm công dân, làm cho mọi công dân tự nguyện, tự giác tham gia
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
35
2.1.5. Nguyên tắc giáo dục quốc phòng và an ninh (Điều 5)
Nội dung điều này gồm sáu khoản (từ khoản 1 đến khoản 6). Đây là
những nguyên tắc đòi hỏi phải tuân thủ trong quá trình triển khai thực hiện
GDQPAN, nhằm bảo đảm cho Luật được thực thi một cách toàn diện, hiệu quả,
có chất lượng. Trong đó, nguyên tắc GDQPAN phải tuân thủ theo Hiến pháp và
pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước là nguyên
tắc cơ bản nhất.
Giáo dục quốc phòng và an ninh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
và toàn dân, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Quá trình thực hiện phải kết
hợp GDQPAN với giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến, giáo dục pháp luật và
gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Giáo dục toàn diện, có trọng tâm,
trọng điểm bằng các hình thức phù hợp; kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa
lý thuyết và thực hành. Chương trình, nội dung GDQPAN hợp với từng đối
tượng, đáp ứng kịp thời tình hình thực tế. Bảo đảm bí mật nhà nước, tính kế
hoạch, kế thừa, phát triển, khoa học, hiện đại, dễ hiểu, thiết thực và hiệu quả.
2.1.6. Chính sách của Nhà nước về giáo dục quốc phòng và an ninh
(Điều 6)
Nội dung điều này gồm 3 khoản (khoản 1đến 3), nêu rõ những quy định
cụ thể về chính sách của Nhà nước về GDQPAN. Để bảo đảm các hoạt động
GDQPAN có hiệu quả, chất lượng cao, đòi hỏi phải có chính sách đồng bộ, phù
hợp nhằm động viên, khuyến khích mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân tích cực tham
gia. Theo đó, Nhà nước bảo đảm nguồn lực cho hoạt động GDQPAN trên toàn
quốc; đối với khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa Nhà nước
có chính sách ưu tiên. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho các
cơ quan, tổ chức và cá nhân đóng góp trí tuệ, công sức, tiền và tài sản cho
GDQPAN nhằm phát huy mọi tiềm lực cho hoạt động này. Những cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thành tích trong GDQPAN sẽ được khen thưởng theo quy định
của pháp luật. Những chính sách nêu trên của Nhà nước nhằm tạo điều kiện
36
thuận lợi để phát huy mọi tiềm lực của đất nước cho GDQPAN được thực hiện
ngày càng có hiệu quả.
2.1.7. Quyền và trách nhiệm của công dân về giáo dục quốc phòng và
an ninh (Điều 7)
Nội dung điều này chỉ rõ quyền và trách nhiệm của công dân về
GDQPAN; theo đó việc học tập, nghiên cứu để nắm vững KTQPAN vừa là
quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam. Khi tham gia và thực
hiện tốt quyền và trách nhiệm ấy, công dân sẽ được hưởng chế độ, chính sách
theo quy định của pháp luật. Điều này thể hiện tính ưu việt của chế độ Nhà nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
2.1.8. Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh (Điều 8)
Trung tâm GDQPAN được hiểu là cơ sở, nơi hay địa điểm tổ chức giáo
dục, bồi dưỡng KTQPAN và kỹ năng quân sự cần thiết cho các đối tượng được
triệu tập về đây. Theo đó, Trung tâm GDQPAN bao gồm các Trung tâm
GDQPAN thuộc nhà trường quân đội và các Trung tâm GDQPAN thuộc cơ sở
giáo dục đại học. Việc quy hoạch xây dựng hệ thống trung tâm GDQPAN phải
phù hợp với quy hoạch hệ thống nhà trường quân đội, mạng lưới cơ sở giáo dục
đại học, đồng thời phải đủ điều kiện tiêu chuẩn đáp ứng được yêu cầu và nhu
cầu GDQPAN cho các đối tượng.
Việc phê duyệt quy hoạch hệ thống trung tâm và quy định điều kiện thành
lập trung tâm GDQPAN do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Những quy định
này nhằm đảm bảo cho việc xây dựng các trung tâm GDQPAN không bị tràn
lan, tránh lãng phí, phải phù hợp với quy hoạch hệ thống nhà trường quân đội,
mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và đáp ứng yêu cầu GDQPAN cho các đối
tượng.
2.1.9. Các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 9)
Luật GDQPAN nghiêm cấm các hành vi: lợi dụng hoạt động GDQPAN để
tuyên truyền xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
37
của Nhà nước; tiết lộ bí mật Nhà nước; tuyên truyền chính sách thù địch, gây
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; cản trở việc thực hiện GDQPAN và
các hành vi khác theo quy định của pháp luật
Việc quy định về các hành vi bị nghiêm cấm nêu trên nhằm đảm bảo cho
các hoạt động GDQPAN đi đúng hướng, đạt được mục tiêu mà không bị kẻ xấu
lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, phá hoại; đồng thời, còn là cơ sở để các cơ
quan chức năng bảo vệ pháp luật xem xét, xử lý các vi phạm trong hoạt động
GDQPAN; đảm bảo công tác GDQPAN đúng chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
2.2. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong nhà trường (Chương II)
Giáo dục quốc phòng và an ninh là bộ phận của nền giáo dục quốc dân,
một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân. Học tập, bồi dưỡng KTQPAN là quyền lợi và nghĩa vụ của toàn dân, nhằm
góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện để có thể tham gia vào sự
nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, sẵn sàng
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. GDQPAN được tiến hành đồng bộ
bằng nhiều hình thức, nội dung phù hợp với từng đối tượng
Chương II quy định cụ thể về GDQPAN trong các trường tiểu học, trung
học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề,
trường cao đẳng nghề, cơ sở giáo dục đại học, trường của cơ quan Nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Mục tiêu của GDQPAN trong nhà
trường là để các đối tượng hiểu biết một số nội dung cơ bản về quốc phòng, an
ninh; truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, trách nhiệm và nghĩa
vụ của công dân về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội; có ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; có
kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng, an ninh và công tác quản lý nhà nước
về quốc phòng, an ninh; có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết.
38
2.2.1. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường tiểu học, trung
học cơ sở (Điều 10)
Điều 10 quy định cụ thể về GDQPAN trong trường tiểu học, trung học cơ
sở. Theo đó, đối tượng GDQPAN ở các trường này là học sinh bậc tiểu học và
trung học cơ sở là những công dân mới tham gia vào quá trình giáo dục đào tạo,
được dạy học những kiến thức phổ thông thường thức; độ tuổi còn nhỏ (từ 06
đến 15). Luật quy định GDQPAN được tiến hành bằng cách lồng ghép thông
qua nội dung các môn học đã có trong chương trình, kết hợp với hoạt động
ngoại khoá phù hợp với lứa tuổi để các em hình thành những cơ sở hiểu biết ban
đầu về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, lực lượng vũ trang
nhân dân; ý thức kỷ luật, tinh thần đoàn kết, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Luật
không quy định các em phải học môn học GDQPAN như các cấp học khác để
bảo đảm các em không bị quá tải trong học tập ở hai bậc học này.
2.2.2. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường trung học phổ
thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề (Điều 11)
Điều 11 quy định cụ thể về GDQPAN trong các trường trung học phổ
thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề. Đây là những công dân đang
ngồi trong ghế nhà trường, có độ tuổi từ 16 trở lên, đang tích lũy những kiến
thức cần thiết, chuẩn bị bước vào đời, thực hiện nghĩa vụ công dân đối với đất
nước. Theo đó, học sinh của các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên
nghiệp, trung cấp nghề được GDQPAN; GDQPAN là môn học chính khóa trong
chương trình đào tạo (môn học bắt buộc, bình đẳng như các môn học khác),
được tổ chức dạy và học tại trường theo phân phối chương trình; đồng thời, kết
hợp với việc tổ chức cho học sinh học tập ngoại khoá với nội dung và hình thức
thích hợp.
Về nội dung môn học cũng yêu cầu cao hơn, toàn diện hơn so với cấp tiểu
học và trung học cơ sở. Môn học GDQPAN trong hệ thống trường trung học
phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề có sách giáo khoa và giáo
viên chuyên trách. Mục tiêu của môn học này là nhằm giúp cho học sinh có
39
những hiểu biết ban đầu về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; về
truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, lực lượng vũ trang nhân dân và nghệ
thuật quân sự Việt Nam; có kiến thức cơ bản, cần thiết về phòng thủ dân sự và
kỹ năng quân sự cần thiết, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc.
2.2.3. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường cao đẳng nghề,
cơ sở giáo dục đại học (Điều 12)
Điều 12 quy định cụ thể về GDQPAN cho đối tượng thuộc nhóm xã hội
đang học tập trong các trường cao đẳng nghề và các cơ sở giáo dục đại học. Đây
là nhóm xã hội có mặt bằng trình độ nhận thức cao, nguồn cung cấp nhân lực
chất lượng cao cho xã hội. Theo đó, Luật quy định GDQPAN cho đối tượng này
được tổ chức thành môn học chính khóa (môn học bắt buộc, bình đẳng như
những môn học khác) trong chương trình đào tạo. Việc tổ chức dạy và học cho
đối tượng này được thực hiện tại các trung tâm GDQPAN hoặc trường cao đẳng
nghề, cơ sở giáo dục đại học nhằm làm cho sinh viên được học tập và rèn luyện
nếp sống quân sự hóa. Yêu cầu về nhận thức, ý thức quốc phòng, an ninh về
phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự cũng cao hơn các đối tượng khác, vì đối
tượng này đã đủ tuổi sẵn sàng nhập ngũ làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
2.2.4. Giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường của cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Điều 13)
Nội dung điều này quy định cụ thể về GDQPAN trong trường của cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó, GDQPAN trong
các trường này được xác định là môn học chính khóa (môn học bắt buộc, bình
đẳng với môn học khác); đồng thời, chỉ rõ mục tiêu môn học; căn cứ để từng
trường xây dựng và thực hiện nội dung GDQPAN cho phù hợp với học viên của
trường mình.
Các nhà trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội là nơi đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - những cán bộ này sau khi tốt
nghiệp ra trường có thể đảm đương giữ các trọng trách lãnh đạo, quản lý trong
các cơ quan nhà nước, cơ quan tổ chức chính trị, cơ quan tổ chức chính trị - xã
40
hội, có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực. Vì
vậy họ cần phải có kiến thức toàn diện, không chỉ có trình độ lý luận giỏi, mà
còn phải có kiến thức toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội, cũng như cả về quốc
phòng và an ninh. Có như vậy, với cương vị lãnh đạo, quản lý chỉ đạo của mình,
họ mới có thể thực hiện nhiệm vụ được giao có hiệu quả nhất.
2.3. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh (Chương III)
Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh (KTQPAN) cho các đối
tượng đang công tác trong cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội và các địa phương nhằm giúp cho nhóm xã hội này cập nhật
những thông tin, kiến thức mới, nâng cao KTQPAN, phù hợp với cương vị, chức
trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Qua đó, giúp họ lãnh đạo,
quản lý, chỉ đạo triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, hoặc tham mưu đề xuất
các nội dung, biện pháp triển khai thực hiện công tác quân sự, quốc phòng, an
ninh của địa phương, cơ quan, tổ chức, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với ý nghĩa trên, bồi dưỡng KTQPAN cho các đối tượng trong cơ quan, tổ
chức nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các địa phương là
nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay. Đó vừa là nhiệm vụ cấp bách trước
mắt, vừa là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, vì hiện nay các thế lực thù địch và bọn
phản động quốc tế vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến
hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân
dân ta. Hơn lúc nào hết chúng ta phải thường xuyên cập nhật tình hình, nhận rõ
âm mưu và thủ đoạn thâm độc của địch, từ đó đề cao tinh thần cảnh giác, tỉnh
táo đề phòng, không để bị bất ngờ, sẵn sàng làm thất bại mọi mưu đồ đen tối của
các thế lực thù địch, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống.
41
2.3.1. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng trong
cơ quan, tổ chức của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
(Điều 14)
Điều 14 quy định cụ thể, thống nhất thực hiện GDQPAN trong phạm cả
nước cho các đối tượng cán bộ, đảng viên đang làm việc, công tác trong cơ
quan, tổ chức của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trên
lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, đối tượng được bồi dưỡng KTQPAN bao gồm: Cán
bộ, công chức; viên chức quản lý; đại biểu dân cử; người quản lý trong các
doanh nghiệp nhà nước; những người hoạt động không chuyên trách ở xã,
phường, thị trấn; trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố; trưởng
các đoàn thể ở thôn và những người là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Việc tổ chức bồi dưỡng KTQPAN cho các đối tượng này được tiến hành
theo phân cấp nhóm đối tượng và theo địa bàn hành chính (từ Trung ương đến
địa phương) nhằm cập nhật những thông tin cần thiết và nâng cao KTQPAN,
qua đó giúp cho họ nắm bắt được tình hình quốc phòng, an ninh trên thế giới,
khu vực và trong nước một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất; làm cơ sở để giúp họ
tham mưu, đề xuất với cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị đề ra chủ trương
lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ quốc phòng, an ninh một cách có
hiệu quả nhất. Việc xác định các nhóm đối tượng trong điều này nhằm đảm bảo
mọi công dân đang làm việc, công tác trong cơ quan, tổ chức của Nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trên lãnh thổ Việt Nam đều được bồi
dưỡng KTQPAN.
Việc bồi dưỡng cho các đối tượng này không chỉ nhằm mục tiêu
GDQPAN nói chung, mà còn góp phần nâng cao năng lực tổ chức thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng và an ninh theo vị trí, lĩnh vực được phân công phụ trách.
Từ thực tiễn kiểm nghiệm, Luật quy định bồi dưỡng KTQPAN là yêu cầu bắt
buộc đối với cán bộ, công chức, viên chức quản lý, được thực hiện thống nhất
trong phạm vi cả nước. Chương trình, nội dung, hình thức, thời gian bồi dưỡng
KTQPAN được xây dựng phù hợp với tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo,
42
quản lý và yêu cầu nhiệm vụ.
2.3.2. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng là
người quản lý doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, đơn vị sự nghiệp
ngoài công lập (Điều 15)
Điều 15 quy định cụ thể về bồi dưỡng KTQPAN cho đối tượng là người
quản lý doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.
Đây là nhóm xã hội quan trọng trong nền kinh tế thị trường, có vị trí quan trọng
của nền kinh tế xã hội, là yếu tố góp phần chuyển dịch các cơ cấu của nền kinh
tế quốc dân, góp phần cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Việc bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng và an ninh cho người quản lý các doanh nghiệp, đơn vị này là
cần thiết.
Luật quy định người quản lý doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (bao
gồm: người quản lý doanh nghiệp có quy mô vừa trở lên; người quản lý doanh
nghiệp hoạt động phục vụ quốc phòng và an ninh; người quản lý doanh nghiệp
hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) và người quản lý đơn vị sự
nghiệp ngoài công lập đều phải tham gia bồi dưỡng KTQPAN. Tuy nhiên, với
đối tượng này, nội dung bồi dưỡng chỉ tập trung vào chính sách, pháp luật của
Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa về quốc phòng, an ninh; nhằm giúp đối
tượng này hiểu và thực hiện tốt.
Đối tượng là người quản lý doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, đơn vị
sự nghiệp ngoài công lập, vì hiện nay nước ta có khoảng 300.000 doanh nghiệp
ngoài nhà nước và nhiều đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, thu hút từ 8 đến 9
triệu lao động, trong đó gần 8.000 doanh nghiệp có quy mô và vốn điều lệ lớn.
Đây là lực lượng không chỉ quyết định kế hoạch tổng thể, dài hạn, các giải pháp
nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh và các vấn đề quan trọng của doanh
nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, mà còn ảnh hưởng trực
tiếp đến tinh thần, thái độ, trách nhiệm của người lao động trong các doanh
nghiệp, đơn vị sự nghiệp đó. Được bồi dưỡng KTQPAN, họ mới có nhận thức
đúng đắn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ
43
Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; từ
đó họ mới có ý thức, trách nhiệm tạo điều kiện cho người lao động thuộc quyền
được tham gia vào các hoạt động quốc phòng và an ninh, góp phần xây dựng
tiềm lực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh.
2.3.3. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng là cá
nhân tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư (Điều 16)
Người có uy tín trong cộng đồng dân cư có vị trí hết sức quan trọng. Họ
chính là những chức sắc, chức việc tôn giáo, già làng, trưởng họ tộc, nhà hoạt
động văn hóa, xã hội, khoa học, nghệ thuật được cộng đồng dân cư, tín đồ các
tôn giáo tin tưởng và kính trọng; có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống trong cộng
đồng dân cư và những người có đạo. Điều 16 quy định các cá nhân tiêu biểu,
người có uy tín trong cộng đồng dân cư thuộc diện được bồi dưỡng KTQPAN;
trách nhiệm chủ trì, phối hợp trong việc xây dựng nội dung chương trình và tổ
chức bồi dưỡng KTQPAN cho các nhóm đối tượng này.
Nều được bồi dưỡng KTQPAN họ sẽ nắm chắc và hiểu rõ chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an
ninh, chính sách dân tộc, tôn giáo...; từ đó, có điều kiện tuyên truyền các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tới toàn thể người dân và các tín đồ
trong cộng đồng dân cư. Vì vậy, việc bồi dưỡng KTQPAN cho cá nhân tiêu
biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư là hết sức cần thiết đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung,
chương trình bồi dưỡng KTQPAN cho đối tượng này do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh xây dựng và thực hiện sao cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
2.3.4. Thẩm quyền triệu tập, cơ sở bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và
an ninh (Điều 17)
Điều 17 quy định thẩm quyền triệu tập và cơ sở (nơi, địa điểm) bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng và an ninh cho các nhóm đối tượng. Thẩm quyền triệu tập
được xác định theo lát cắt dọc, từ cấp nhà nước (Trung ương) đến cấp cơ sở (xã,
phường, thị trấn). Chính phủ sẽ quy định thẩm quyền triệu tập các đối tượng và
44
cơ sở (nơi, địa điểm) tổ chức bồi dưỡng KTQPAN cho đối tượng tương ứng.
Chính phủ sẽ ban hành các văn bản dưới Luật (nghị định) quy định về thẩm
quyền triệu tập và cơ sở bồi dưỡng KTQPAN cho các đối tượng được quy định
tại các Điều 14, 15 và 16 của Luật này nhằm thực hiện đồng bộ, thống nhất trên
cả nước.
2.3.5. Chế độ, quyền lợi của đối tượng bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng và an ninh (Điều 18)
Điều 18 quy định cụ thể chế độ, quyền lợi của người tham gia bồi dưỡng
KTQPAN. Theo đó, cá nhân thuộc các nhóm đối tượng: Cán bộ, công chức;
viên chức quản lý; đại biểu dân cử; người quản lý trong các doanh nghiệp nhà
nước; những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; trưởng
thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố; trưởng các đoàn thể ở thôn và
các thành viên của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời gian tham gia bồi dưỡng
KTQPAN sẽ được hưởng nguyên lương, phụ cấp (như đang làm việc); những
người mà nơi cư trú của họ cách xa địa điểm tổ chức bồi dưỡng thì được bố trí
nơi nghỉ, hỗ trợ phương tiện hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi, về và được
hỗ trợ tiền ăn do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Cá nhân thuộc các nhóm đối tượng: người quản lý doanh nghiệp có quy
mô vừa trở lên; người quản lý doanh nghiệp hoạt động phục vụ quốc phòng và
an ninh; và người quản lý doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo) và người quản lý đơn vị sự nghiệp ngoài công lập trong thời gian
tham gia bồi dưỡng KTQPAN sẽ được hưởng nguyên lương, phụ cấp, hỗ trợ
phương tiện hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi, về và hỗ trợ tiền ăn do
doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập bảo
đảm; chi phí bồi dưỡng KTQPAN, nơi nghỉ cho các đối tượng xa nơi cư trú do
ngân sách nhà nước bảo đảm.
Riêng nhóm đối tượng: Cá nhân thuộc doanh nghiệp hoạt động ở vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; chức sắc, chức việc tôn giáo, già làng, trưởng
họ tộc, nhà hoạt động văn hóa, xã hội, khoa học, nghệ thuật trong thời gian tham
45
gia bồi dưỡng KTQPAN nếu địa điểm tổ chức bồi dưỡng xa nơi cư trú sẽ được
bố trí nơi nghỉ, hỗ trợ phương tiện hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi, về và
hỗ trợ tiền ăn do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Những quy định trong điều này nhằm bảo đảm quyền lợi cho cá nhân khi
tham gia bồi dưỡng, đồng thời quy định trách nhiệm, nguồn kinh phí để đảm bảo
quyền lợi, tạo điều kiện thuận cho các đối tượng trên yên tâm tham gia bồi
dưỡng KTQPAN. Các quy định về chế độ, quyền lợi của người tham gia bồi
dưỡng KTQPAN thể hiện tính ưu việt của chế độ, cũng như sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước đối với GDQPAN.
2.4. Phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân (Chương
IV)
Phổ biến KTQPAN cho toàn dân là một hoạt động rất quan trọng. Với
quan điểm “sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, trong lịch sử
đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quần chúng nhân dân luôn luôn có vai trò vô cùng to
lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi tầng lớp nhân dân được tổ chức thành một
khối thống nhất có sức mạnh dời non lấp biển, cùng với lực lượng vũ trang nhân
dân làm nòng cốt đã đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho
Tổ quốc. Trong hòa bình, quần chúng nhân dân là những người chủ thực hiện
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo con đường mà nhân dân ta đã lựa
chọn.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đòi hỏi mọi công dân đang sinh sống, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực cần phải
nâng cao hơn nhận thức về độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc; âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch;
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong từng thời kỳ; từ đó nêu cao hơn nữa trách
nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Vì vậy, việc tổ chức phổ biến KTQPAN cho
toàn dân là một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, các
46
cấp, các ngành phải chung tay thực hiện. Mọi công dân phải có trách nhiệm và
nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.
2.4.1. Nội dung phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh (Điều
19)
Nội dung phổ biến KTQPAN bao gồm những hiểu biết cần thiết về độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; âm mưu, thủ đoạn
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; nhiệm vụ quốc phòng và an ninh
trong từng thời kỳ; phòng thủ dân sự; trách nhiệm của công dân đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là những
kiến thức rất cơ bản về quốc phòng và an ninh mà mọi người dân cần phải hiểu,
để từ đó thực hiện tốt nghĩa vụ công dân của mình đối với Tổ quốc, mà trước hết
là đối với địa phương, nơi sinh sống.
Thực tế hiện nay, do đặc điểm vùng, miền, tôn giáo, dân tộc, trình độ dân
trí không đồng đều; nên nhận thức về quốc phòng và an ninh của người dân
cũng có sự chênh lệch nhất định, từ đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhiệm vụ
quốc phòng và an ninh của từng địa phương và trên cả nước. Quy định này
nhằm từng bước tạo được mặt bằng nhận thức của người dân trên các vùng,
miền, các dân tộc, tôn giáo về quốc phòng, an ninh, giúp cho việc triển khai thực
hiện công tác quân sự, quốc phòng và an ninh tại các địa phương, cơ sở đạt hiệu
quả ngày càng thiết thực.
2.4.2. Hình thức phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh (Điều 20)
Điều 20 quy định cụ thể hình thức phổ biến KTQPAN cho toàn dân thông
qua hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên và các phương tiện thông tin
đại chúng; trong các buổi sinh hoạt cộng đồng dân cư, hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tổ chức đoàn thể, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể
thao, hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở và các hình thức sinh hoạt văn
hóa truyền thống; lồng ghép vào các đợt gọi công dân nhập ngũ, ngày kỷ niệm,
ngày truyền thống; thông qua hoạt động của cơ quan, tổ chức quản lý di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể, khu bảo tồn thiên nhiên, khu tưởng niệm, đài kỷ niệm,
47
nghĩa trang liệt sỹ, nhà truyền thống, nhà bảo tàng, cung văn hóa, thể thao thanh
niên, thiếu niên, câu lạc bộ thể thao quốc phòng và an ninh. Đây là những hình
thức cơ bản nhất.
Ngoài ra, KTQPAN còn được phổ biến bằng các hình thức khác phù hợp
với tình hình thực tế của từng địa phương và cộng đồng dân cư, nhằm đảm bảo
cho mọi người dân thuận lợi, dễ dàng tiếp xúc và tiếp nhận thông tin kịp thời.
Luật quy định hình thức phổ biến KTQPAN vừa tạo sự thống nhất, vừa nêu lên
trách nhiệm của cá nhân, tổ chức có liên quan nhằm đa dạng hóa các hình thức
phổ biến KTQPAN, bám sát và phù hợp với mọi hoạt động của đời sống xã hội
ở từng địa phương, vùng, miền. Tuy nhiên, từng địa phương có thể vận dụng
sáng tạo để phổ biến KTQPAN cho phù hợp.
2.4.3. Phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho người dân ở khu
vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa (Điều 21)
Việc phổ biến KTQPAN cho người dân ở khu vực biên giới, hải đảo, miền
núi, vùng sâu, vùng xa ngoài việc tuân thủ theo quy định tại Điều 19 và Điều 20
của Luật này, còn phải gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ,
giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị,
đấu tranh phòng, chống tội phạm ở khu vực biên giới, hải đảo. Đồng thời, căn cứ
vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, tổ chức phổ biến KTQPAN cho người
có vai trò và ảnh hưởng tích cực trong đồng bào dân tộc thiểu số, chủ tàu,
thuyền hoạt động dài ngày trên biển và chủ hộ gia đình, người lao động ở khu
vực biên giới, hải đảo. Nhằm tăng cường phổ biến KTQPAN cho người dân
thuộc các khu vực này, Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân
tình nguyện, đồng thời chỉ rõ trách nhiệm chỉ đạo phổ biến KTQPAN là của Ủy
ban nhân dân các cấp, cơ quan quân sự cùng cấp chủ trì, phối hợp với Bộ đội
biên phòng, Hải quân, Cảnh sát biển, Công an địa phương để tổ chức thực hiện.
Người dân ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa,
không có điều kiện thường xuyên tiếp xúc để hiểu biết sâu về các vấn đề có liên
quan đến quốc phòng, an ninh; nên nhận thức của họ về quốc phòng, an ninh
48
cũng còn nhiều hạn chế. Để nâng cao nhận thức về quốc phòng và an ninh cho
người dân ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa, ngoài việc
quy định nội dung phổ biến KTQPAN, Luật còn quy định một số yêu cầu đối
với cơ quan Nhà nước, các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn, các tổ chức,
cá nhân có trách nhiệm tham gia tuyên truyền và phổ biến KTQPAN cho người
dân ở khu vực này đạt kết quả cao nhất góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của
Tổ quốc.
2.4.4. Phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh trong doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp (Điều 22)
Người quản lý doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước không thuộc diện
bồi dưỡng KTQPAN, người lao động trong doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp là
công dân Việt Nam, nên phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đóng góp vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để họ có thể hoàn thành nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình đối với Tổ quốc, họ cần phải có nhận thức và những hiểu biết
nhất định về quốc phòng và an ninh, được quy định tại Điều 19 và Điều 20 của
Luật này. Để việc phổ biến KTQPAN trong doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp
được thuận lợi.
Luật quy định người quản lý doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức công đoàn tổ
chức phổ biến KTQPAN cho người lao động. Để phổ biến KTQPAN trong
doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, Luật quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ
đạo cơ quan quân sự, công an, Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật cùng cấp
phối hợp tổ chức thực hiện.
2.5. Giáo viên, giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên giáo dục
quốc phòng và an ninh (Chương V)
Chương này quy định về giáo viên, giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền
viên GDQPAN. Để tổ chức thực hiện GDQPAN cho các đối tượng; đội ngũ giáo
viên, giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên giữ một vai trò quan trọng.
Đây là những người trực tiếp truyền đạt nội dung KTQPAN đến đối tượng. Vì
49
vậy, Luật quy định rất cụ thể, hoặc giao Chính phủ quy định những tiêu chí cần
thiết về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm để bảo đảm cho mỗi giáo viên, giảng
viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên GDQPAN có thể hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Đồng thời Luật cũng quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi để đội ngũ
giáo viên, giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên GDQPAN thực hiện có
điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2.5.1. Giáo viên, giảng viên (Điều 23)
Điều 23 quy định cụ thể về giáo viên, giảng viên. Theo đó, đội ngũ giáo
viên, giảng viên GDQPAN bao gồm: giáo viên, giảng viên chuyên trách giảng
dạy môn GDQPAN trong các nhà trường (như giáo viên, giảng viên giảng dạy
các môn học khác); người được thỉnh giảng (mời giảng) và cán bộ quân đội,
công an biệt phái làm nhiệm vụ GDQPAN. Luật yêu cầu giáo viên, giảng viên
GDQPAN phải có trình độ cử nhân GDQPAN trở lên; đối với người đã có trình
độ cử nhân trở lên ở chuyên ngành khác thì phải có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm và chứng chỉ đào tạo giáo viên, giảng viên GDQPAN. Giáo viên,
giảng viên GDQPAN phải có trình độ tương ứng, phù hợp với từng đối tượng
được GDQPAN (bậc phổ thông, bậc cao đẳng, đại học...)
Luật giao cho Chính phủ quy định cụ thể trình độ chuẩn giáo viên, giảng
viên GDQPAN phù hợp với từng đối tượng GDQPAN; theo đó có đề án đào tạo
giáo viên, giảng viên GDQPAN cho từng giai đoạn. Những quy định cụ thể về
giáo viên, giảng viên mà Luật nêu ra nhằm tuyển chọn và định hướng cho công
tác đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQPAN, qua đó thiết thực góp phần
nâng cao chất lượng GDQPAN.
2.5.2. Đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, tuyển dụng giáo viên, giảng viên
(Điều 24)
Điều 24 quy định về đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, tuyển dụng giáo viên,
giảng viên GDQPAN. Việc đào tạo giáo viên, giảng viên GDQPAN có 3 loại
hình: Đào tạo cử nhân chuyên ngành GDQPAN, hình thức đào tạo chính quy
(tập trung), thời gian 04 năm, đối tượng tuyển sinh là những người có bằng tốt
50
nghiệp trung học phổ thông; đào tạo cử nhân văn bằng 2, hình thức tập trung,
thời gian 02 năm, đối tượng tuyển sinh là những người đã có bằng tốt nghiệp đại
học chuyên ngành khác; đào tạo văn bằng 2, hình thức tập trung, thời gian 18
tháng, đối tượng tuyển sinh là giáo viên, giảng viên hiện đang giảng dạy tại
trường trung học phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học
và đã có chứng chỉ đào tạo GDQPAN (chứng chỉ đã qua đào tạo không dưới 06
tháng). Quy định này nhằm chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQPAN.
Nhiệm vụ đào tạo giáo viên GDQPAN được giao cho các cơ sở giáo dục
đại học, trường của lực lượng vũ trang nhân dân. Chỉ có cơ sở giáo dục đại học,
trường của lực lượng vũ trang nhân dân có đủ điều kiện và được Chính phủ giao
mới được đào tạo giáo viên, giảng viên GDQPAN; theo đó, Bộ Giáo dục và Đào
tạo quyết định cơ sở giáo dục đại học, trường của lực lượng vũ trang nhân dân
được đào tạo giáo viên, giảng viên GDQPAN.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ, cơ quan ngang bộ liên quan, UBND cấp tỉnh
chỉ đạo các cơ sở giáo dục trực thuộc xây dựng kế hoạch tuyển sinh, đào tạo,
tuyển dụng đội ngũ giáo viên, giảng viên ở các cơ sở giáo dục từ THPT đến đại
học.
Luật cũng quy định đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQPAN được bồi
dưỡng, tập huấn định kỳ tại trường của lực lượng vũ trang nhân dân, trung tâm
GDQPAN để cập nhật thông tin, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Quy định về đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, tuyển dụng giáo viên, giảng
viên GDQPAN giúp cho công tác quản lý nhà nước về đội ngũ giáo viên đảm
bảo thống nhất, tránh tình trạng đào tạo, bồi dưỡng tuyển dụng giáo viên, giảng
viên GDQPAN tràn lan, chất lượng, hiệu quả thấp. Thực tế trong những năm
qua, việc đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, tuyển dụng đội ngũ giáo viên, giảng viên
GDQPAN được thực hiện thông qua nhiều kênh, nhiều biện pháp ở các mức độ
khác nhau để kịp thời đáp ứng yêu cầu cấp thiết của GDQPAN cho các đối
tượng. Vì vậy, hiện nay đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQPAN chưa đồng đều,
chưa đạt chuẩn; do đó trong Luật này quy định một số hình thức đào tạo tùy theo
51
trình độ học viên đầu vào để đạt mục đích khi ra trường mọi giáo viên, giảng
viên có trình độ chuẩn theo quy định.
Để triển khai thực hiện Điều 24 của Luật GDQPAN, Chính phủ sẽ ban
hành Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật GDQPAN tạo điều kiện
cho các địa phương, các cấp, các ngành và cá nhân thực hiện thống nhất, đồng
bộ trên toàn quốc.
2.5.3. Trách nhiệm và quyền lợi của giáo viên, giảng viên (Điều 25)
Điều 25 quy định về trách nhiệm của giáo viên, giảng viên là phải giảng
dạy đúng nội dung, chương trình GDQPAN quy định cho từng đối tượng (trong
từng lớp học, giờ học, buổi học); theo giáo án, bài giảng đã được phê chuẩn và
chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả học tập của học viên. Quyền lợi của
giáo viên, giảng viên GDQPAN (gồm giáo viên, giảng viên chuyên trách, thỉnh
giảng và cán bộ quân đội, công an biệt phái) đều được bảo đảm chế độ trang
phục và được hưởng chế độ khác (như giáo viên các môn học khác) theo quy
định của pháp luật, (riêng cán bộ quân đội, công an biệt phái làm nhiệm vụ
GDQPAN không được đảm bảo trang phục vì đã được cấp phát quân trang theo
chế độ).
Việc quy định trách nhiệm và quyền lợi của giáo viên, giảng viên trong
Luật thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác GDQPAN
nói chung và với đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQPAN nói riêng. Những nội
dung được quy định trong Điều 25 giúp giáo viên, giảng viên GDQPAN nhận
thức đúng trách nhiệm của mình trong quá trình giảng dạy; đồng thời đảm bảo
tính thống nhất về trang phục của đội ngũ giáo viên làm nhiệm vụ GDQPAN.
Luật quy định một số chế độ đãi ngộ theo quy định của pháp luật nhằm tạo điều
kiện thuận lợi nhất để đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQPAN hoàn thành tốt
nhất nhiệm vụ được giao.
2.5.4. Báo cáo viên (Điều 26)
Điều 26 quy định về báo cáo viên, đó là những người được cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền mời tham gia bồi dưỡng KTQPAN, gồm: Lãnh đạo bộ, ban, 52
ngành trung ương; lãnh đạo tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng và
tương đương của Bộ Quốc phòng; tổng cục, cục, vụ, viện và tương đương của
Bộ Công an, bộ, ban, ngành liên quan; lãnh đạo cấp tỉnh; lãnh đạo huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh; lãnh đạo cấp xã; lãnh đạo sở, ban, ngành cấp tỉnh;
phòng thuộc sở, ban, ngành cấp tỉnh và phòng, ban huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh; chuyên gia, nhà khoa học.
Trong quá trình bồi dưỡng KTQPAN ở từng lớp học (theo phân cấp) với
từng đối tượng cụ thể, có nhiều chuyên đề đòi hỏi người truyền đạt phải có hiểu
biết rộng, có trình độ chuyên môn sâu, nắm chắc kiến thức ở từng lĩnh vực chính
trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội và đối ngoại tương ứng với nhu cầu đối
tượng được bồi dưỡng. Vì vậy, để truyền đạt những chuyên đề này có hiệu quả
đòi hỏi phải lựa chọn và mời người giới thiệu (báo cáo viên) phù hợp. Do đó,
Luật có quy định rõ người được mời làm báo cáo viên cho các lớp bồi dưỡng
KTQPAN (theo phân cấp), tùy đối tượng bồi dưỡng KTQPAN cụ thể mà các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền được mời báo cáo viên tham gia bồi dưỡng
KTQPAN cho phù hợp.
2.5.5. Tuyên truyền viên (Điều 27)
Điều 27 quy định tiêu chuẩn, thẩm quyền xem xét, quyết định công nhận
tuyên truyền viên GDQPAN. Tuyên truyền viên là những người được Chủ tịch
Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã căn cứ tiêu chuẩn do Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng quy định để xem xét, quyết định công nhận. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sẽ
ban hành Quy định tiêu chuẩn của người được công nhận là tuyên truyền viên
GDQPAN. Đây là cơ sở để Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết định công
nhận tuyên truyền viên GDQPAN của cấp mình.
2.5.6. Trách nhiệm và quyền lợi của báo cáo viên, tuyên truyền viên
(Điều 28)
Điều 28 quy định báo cáo viên, tuyên truyền viên có trách nhiệm phải
truyền đạt đúng nội dung GDQPAN quy định (đã được cấp có thẩm quyền thông
qua và phê duyệt) ở từng lớp học với từng đối tượng cụ thể; đồng thời phải tham
53
gia bồi dưỡng, tập huấn để có được những thông tin mới, nâng cao kiến thức, kỹ
năng tuyên truyền và tiếp nhận tài liệu cần thiết có liên quan đến nhiệm vụ. Báo
cáo viên, tuyên truyền viên được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của
pháp luật. Những quy định trên nhằm bảo đảm cho báo cáo viên, tuyên truyền
viên GDQPAN hoạt động đạt hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả GDQPAN cho các đối tượng và toàn dân.
2.6. Kinh phí giáo dục quốc phòng và an ninh (Chương VI)
Để đảm bảo cho các mặt hoạt động GDQPAN có hiệu quả, kinh phí phải
được bảo đảm kịp thời, đầy đủ theo từng khối công việc cụ thể. Kinh phí bảo
đảm cho GDQPAN được thực hiện theo hướng một phần do nhà nước bảo đảm,
phần còn lại do doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các khoản thu hợp pháp khác
bảo đảm. Luật có 3 điều (29, 30 và 31), quy định cụ thể về nguồn kinh phí, nội
dung chi và lập dự toán, chấp hành và quyết toán.
Việc bảo đảm kinh phí cho giáo dục quốc phòng và an ninh theo đúng
pháp luật, đầy đủ, kịp thời sẽ góp phần tạo điều kiện để các mặt công tác
GDQPAN được triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, nhanh chóng, có chất
lượng. Hằng năm, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan
khác ở Trung ương, UBND các cấp có trách nhiệm lập dự toán, chấp hành và
quyết toán ngân sách cho nhiệm vụ GDQPAN theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp có kế hoạch bảo đảm kinh phí thực hiện nhiệm
vụ GDQPAN.
2.6.1. Nguồn kinh phí (Điều 29)
Điều 29 quy định nguồn kinh phí đảm bảo cho GDQPAN gồm ngân sách
do nhà nước bảo đảm, từ các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các khoản thu
hợp pháp khác. Nhiều hoạt động GDQPAN có tính chất xã hội hóa. Để đảm bảo
kinh phí cho GDQPAN đòi hỏi phải xã hội hóa nguồn kinh phí để hoạt động. Do
vậy, Đảng, Nhà nước chủ trương xã hội hóa nguồn kinh phí, nhằm huy động
mọi nguồn lực đảm bảo cho GDQPAN, gồm: kinh phí từ ngân sách nhà nước;
kinh phí do các doanh nghiệp, đơn vị hành chính giữ lại từ thuế; kinh phí được
54
thu từ các khoản khác mà các cá nhân, tổ chức đóng góp do Chính phủ quy định.
Để triển khai thực hiện Điều 29 của Luật GDQPAN, Chính phủ sẽ quy định cụ
thể tại nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật GDQPAN.
2.6.2. Nội dung chi (Điều 30)
Điều 30 quy định kinh phí chi cho GDQPAN gồm chi thường xuyên; chi
đầu tư phát triển và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. GDQPAN
là hoạt động xã hội có tính khoa học; với đối tượng khác nhau sẽ được giáo dục,
bồi dưỡng những kiến thức tương ứng. Trước sự biến đổi của xã hội và yêu cầu
nhiệm vụ QP,AN đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu và phát triển cho phù
hợp. Do đó, để thực hiện GDQPAN có hiệu quả, đòi hỏi việc đảm bảo kinh phí
phải bám sát các nội dung hoạt động GDQPAN, bao gồm: Kinh phí chi cho hoạt
động GDQPAN thường xuyên; chi cho việc đầu tư xây dựng cơ bản và nghiên
cứu, phát triển; chi cho các khoản khác được Chính phủ quy định. Để triển khai
thực hiện Điều 30 của Luật GDQPAN, Chính phủ sẽ quy định cụ thể tại nghị
định và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
2.6.3. Lập dự toán, chấp hành và quyết toán (Điều 31)
Để bảo đảm kịp thời kinh phí cho GDQPAN, hàng năm, các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, UBND các cấp
(từ cấp tỉnh đến cấp xã) có trách nhiệm lập dự toán, chấp hành và quyết toán
ngân sách cho nhiệm vụ GDQPAN theo quy định của pháp luật; các doanh
nghiệp, đơn vị sự nghiệp có kế hoạch bảo đảm kinh phí thực hiện nhiệm vụ
GDQPAN hàng năm.
Cũng như các mặt hoạt động khác, việc lập dự toán, chấp hành và quyết
toán kinh phí đảm bảo cho GDQPAN là thể hiện sự chấp hành nguyên tắc tài
chính, là sự tuân thủ Luật Ngân sách nhà nước. Việc lập dự toán, chấp hành và
quyết toán vừa thể hiện tính khoa học về kế hoạch, vừa tạo điều kiện thuận lợi
để tiến trình GDQPAN ở cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành được chủ động đạt
hiệu quả, chất lượng; đồng thời thể hiện tính minh bạch về nguồn thu và chi tiêu
cho hoạt động này. Luật quy định điều này nhằm mục đích cụ thể hóa Luật
55
Ngân sách nhà nước và Nghị định số 60/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước để các cơ quan, tổ chức
trung ương và địa phương thực hiện.
2.7. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức về giáo dục quốc
phòng và an ninh (Chương VII)
Trong Chương VII, gồm có 14 điều, từ Điều 32 đến Điều 45; bao gồm
các quy định về nội dung quản lý nhà nước về GDQPAN; cơ quan quản lý nhà
nước về GDQPAN; nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ: Quốc phòng, Giáo dục
và Đào tạo, Nội vụ, Lao động, Thương binh và Xã hội, Thông tin và Truyền
thông và của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan, tổ chức
ở Trung ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Hội đồng GDQPAN các cấp; trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Đây là những nội dung rất quan trọng được Luật quy định, vì nó liên
quan đến kết quả triển khai Luật. Việc triển khai thực hiện Luật có liên quan
đến nhiều cơ quan, tổ chức của Nhà nước. Mỗi cơ quan, tổ chức được giao một
số nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong triển khai những nội dung GDQPAN
cụ thể mà Luật đã quy định làm cho Luật được thực hiện một cách nghiêm
chỉnh, đồng bộ, toàn diện, có chất lượng cao nhất.
2.7.1. Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng và an ninh
(Điều 32)
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về
GDQPAN. Tuyên truyền, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật về GDQPAN.
Quy định chương trình, nội dung; biên soạn, xuất bản, in, phát hành giáo trình,
sách giáo khoa, tài liệu; tiêu chuẩn giáo viên, giảng viên, tuyên truyền viên;
tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị dạy học GDQPAN và cấp chứng nhận bồi
dưỡng KTQPAN. Quản lý nguồn lực phát triển GDQPAN. Tổ chức, chỉ đạo
việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý giáo viên, giảng viên, tuyên truyền viên
GDQPAN. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực
56
GDQPAN. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực GDQPAN. Thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; sơ kết, tổng kết, khen thưởng, xử lý vi phạm việc chấp
hành pháp luật về GDQPAN.
Nội dung quản lý nhà nước về GDQPAN được quy định trong Luật rất
toàn diện, từ hành lang pháp lý, nội dung chương trình, cơ sở vật chất, nhân
lực, tổ chức, chỉ đạo đến sơ, tổng kết. Những nội dung này có quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó việc ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật về GDQPAN là quan trọng nhất. Đây là những nội dung công tác mà
các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về GDQPAN phải
quán triệt và thực hiện nghiêm túc.
2.7.2. Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng và an ninh
(Điều 33)
Để bảo đảm quản lý công tác GDQPAN thống nhất, đồng bộ và hiệu quả,
Luật GDQPAN quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về GDQPAN
trong phạm vi cả nước. Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ
Giáo dục và Đào tạo giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về GDQPAN.
Bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước
về GDQPAN theo thẩm quyền. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về GDQPAN tại địa
phương.
Để giúp Chính phủ quản lý nhà nước về GDQPAN, có Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an và Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong đó Bộ Quốc phòng giữ vai trò
chủ trì, phối hợp với 2 Bộ này; đồng thời, các bộ, cơ quan ngang bộ phải phối
hợp với Bộ Quốc phòng để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
GDQPAN theo thẩm quyền của mình. Ở cấp tỉnh, huyện, xã cơ quan quản lý
nhà nước về GDQPAN do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã chịu trách
nhiệm thực hiện trên địa bàn hành chính của mình.
2.7.3.Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng (Điều 34)
57
Để hoàn thành chức năng là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về GDQPAN, Luật quy định Bộ Quốc phòng là cơ
quan chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, ngành
liên quan triển khai những công việc cần thiết có liên quan để việc thực hiện
GDQPAN theo Luật; như:
Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật GDQPAN. Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào
tạo, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan lập quy hoạch hệ thống trung tâm
GDQPAN trên phạm vi cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định; quyết định thành lập trung tâm GDQPAN thuộc nhà trường quân đội.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan, tổ chức ở trung ương có liên quan: Quy định chương trình khung
GDQPAN cho người học trong trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội; chương trình khung bồi dưỡng KTQPAN cho cá
nhân tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư; chương trình, nội dung
bồi dưỡng KTQPAN cho đối tượng trong cơ quan, tổ chức của Nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp ngoài khu vực nhà
nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập; quy định tiêu chuẩn tuyên truyền viên
GDQPAN; biên soạn giáo trình, tài liệu phổ biến KTQPAN phù hợp với tình
hình, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong từng thời kỳ. Chủ trì, phối
hợp với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở
trung ương có liên quan thực hiện bồi dưỡng KTQPAN cho các đối tượng theo
quy định của pháp luật; quy định nhiệm vụ, quyền hạn cho cơ quan, đơn vị
thuộc quyền, ban chỉ huy quân sự bộ, ngành về GDQPAN. Phối hợp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan đào tạo, bồi dưỡng,
tập huấn giáo viên, giảng viên, tuyên truyền viên, cán bộ quản lý, cán bộ kiêm
nhiệm GDQPAN; cử cán bộ biệt phái cho trung tâm GDQPAN, cơ sở giáo dục
đại học, cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ
thuật, thiết bị dạy học quân dụng chuyên dùng phục vụ dạy và học môn
GDQPAN cho cơ sở giáo dục trong phạm vi cả nước; bảo đảm phương tiện, vật
58
chất về GDQPAN cho cơ quan, đơn vị, nhà trường quân đội được giao nhiệm
vụ GDQPAN; hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, thực hiện khen
thưởng; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về GDQPAN theo
thẩm quyền; thực hiện hợp tác quốc tế về GDQPAN.
Đồng thời, với tư cách là chủ quản của Cơ quan Thường trực Hội đồng
GDQPAN Trung ương, Bộ Quốc phòng phải thực hiện các nhiệm vụ theo
quyền được giao; trong đó, việc quan trọng hàng đầu là soạn thảo và ban hành
văn bản theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành quy phạm
pháp luật về GDQPAN (quyết định, thông tư, nghị định...) nhằm quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GDQPAN. Những văn bản trên
sẽ bảo đảm cho việc thực hiện Luật GDQPAN đạt hiệu quả cao.
2.7.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an (Điều 35)
Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về GDQPAN; Phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ
chức ở trung ương có liên quan thực hiện GDQPAN theo quy định của Luật
này; biên soạn giáo trình, tài liệu giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến KTQPAN; cử
cán bộ biệt phái cho trung tâm GDQPAN, cơ sở giáo dục đại học, cơ quan quản
lý nhà nước về giáo dục; bảo đảm phương tiện, vật chất cho cơ quan, đơn vị,
nhà trường công an được giao nhiệm vụ GDQPAN.
Theo đó, Bộ Công an ngoài việc chịu trách nhiệm ban hành theo thẩm
quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
GDQPAN còn phải phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo và
một số cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở trung
ương có liên quan để thực hiện GDQPAN theo luật định; đồng thời phối hợp 2
bộ trên để biên soạn giáo trình, tài liệu giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến
KTQPAN và tham gia đảm bảo về con người, cơ sở vật chất phục vụ cho
GDQPAN theo nhiệm vụ được giao.
2.7.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Điều 36)
59
Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về GDQPAN; chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an hướng dẫn GDQPAN trong trường tiểu học, trung học cơ sở; quy
định chương trình, nội dung, tổ chức thực hiện chương trình GDQPAN cho
người học từ trung học phổ thông đến đại học, trừ cơ sở dạy nghề; chủ trì, phối
hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ
chức ở trung ương có liên quan thực hiện GDQPAN ở cơ sở giáo dục thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân; chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội quy định định mức giáo viên, giảng viên
GDQPAN trong trường trung học phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục đại học; trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và trung
tâm GDQPAN; chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, bộ, cơ quan
ngang bộ có liên quan quy định chế độ, chính sách cho cán bộ quản lý, giáo
viên, giảng viên GDQPAN; bảo đảm phương tiện, vật chất về GDQPAN cho
cơ quan, đơn vị, cơ sở giáo dục thuộc quyền; quyết định thành lập trung tâm
GDQPAN thuộc cơ sở giáo dục đại học.
Để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về GDQPAN, trong từng
nhiệm vụ đòi hỏi Bộ Giáo dục và Đào tạo phải phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở trung ương có
liên quan, nhất là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
2.7.6. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Nội vụ (Điều 37)
Phối hợp với Bộ Quốc phòng, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và cơ quan, tổ chức có liên quan hướng dẫn thực hiện bồi dưỡng
KTQPAN cho cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư; bảo
đảm phương tiện, vật chất GDQPAN cho cơ quan, đơn vị, cơ sở giáo dục thuộc
quyền. Theo đó, Bộ Nội vụ phải phối hợp chặt chẽ với: Bộ Quốc phòng, Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chức có liên
60
quan để hướng dẫn thực hiện bồi dưỡng KTQPAN cho cá nhân tiêu biểu, người
có uy tín trong cộng đồng dân cư; đồng thời, bảo đảm phương tiện, vật chất
GDQPAN cho cơ quan, đơn vị, cơ sở giáo dục thuộc quyền.
2.7.7. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội (Điều 38)
Chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào
tạo quy định chương trình, nội dung; tổ chức thực hiện chương trình GDQPAN
cho người học trong cơ sở dạy nghề; bảo đảm phương tiện, vật chất GDQPAN
cho cơ quan, đơn vị, cơ sở dạy nghề thuộc quyền. Theo đó, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm toàn diện về GDQPAN cho người học
(học sinh, sinh viên) trong cơ sở dạy nghề thuộc quyền quản lý. Để thực hiện
tốt chức năng quản lý nhà nước về GDQPAN, đòi hỏi Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức có liên quan,
nhất là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2.7.8. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Thông tin và Truyền thông (Điều
39)
Chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở trung ương có liên quan
hướng dẫn các cơ quan thông tin đại chúng xây dựng chương trình, nội dung
phổ biến KTQPAN cho toàn dân. Theo đó, Bộ Thông tin và Truyền thông có
trách nhiệm hướng dẫn các cơ quan thông tin đại chúng (thuộc quyền) xây
dựng chương trình, nội dung phổ biến KTQPAN cho toàn dân. Việc tuyên
truyền, phổ biến KTQPAN cho toàn dân là một việc làm hết sức quan trọng và
cấp thiết, nhằm làm cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; từ đó
tạo sự đồng thuận trong toàn dân, trong các cấp, các ngành và toàn xã hội đối
với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trên cơ sở quán triệt
sâu sắc các chủ trương của trên, chuyển biến cả về nhận thức và hành động
trong mọi tầng lớp nhân dân sẽ tạo được nguồn lực vô cùng to lớn để việc thực
61
hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đạt hiệu quả. Để thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ được giao, đòi hỏi Bộ Thông tin và Truyền thông phải phối hợp chặt
chẽ với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ
chức ở trung ương có liên quan, nhất là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.
2.7.9. Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở trung ương (Điều 40)
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở trung ương có liên quan thực hiện quản
lý về GDQPAN; ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản để
thực hiện GDQPAN theo quy định của pháp luật; chỉ đạo, tổ chức thực hiện
GDQPAN gắn với thực hiện các nhiệm vụ của mình; bảo đảm phương tiện, vật
chất GDQPAN cho cơ quan, đơn vị, cơ sở giáo dục thuộc quyền; thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khác về GDQPAN theo quy định của pháp luật. Theo đó,
từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở
trung ương phải chịu trách nhiệm quản lý về GDQPAN ở bộ, cơ quan mình;
ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản để thực hiện
GDQPAN theo quy định của pháp luật; chỉ đạo, tổ chức thực hiện GDQPAN
gắn với thực hiện các nhiệm vụ của mình; bảo đảm phương tiện, vật chất
GDQPAN cho cơ quan, đơn vị, cơ sở giáo dục thuộc quyền; thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn khác về GDQPAN theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, từng bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở Trung ương phải phối hợp
chặt chẽ với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, tổ chức ở Trung ương có
liên quan.
2.7.10. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp (Điều
41)
62
Quyết định ngân sách bảo đảm cho GDQPAN ở địa phương theo quy
định của pháp luật; giám sát Uỷ ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan nhà
nước ở địa phương trong thực hiện pháp luật về GDQPAN. Hội đồng nhân dân
ở cấp nào thì chịu trách nhiệm quyết định về ngân sách bảo đảm cho GDQPAN
ở cấp ấy, đồng thời giám sát Ủy ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan của
Nhà nước đứng chân trên địa bàn địa phương mình quản lý trong thực hiện
pháp luật về GDQPAN.
Ngân sách chi cho GDQPAN đã được quy định tại Điều 29 của Luật này;
tuy nhiên, Hội đồng nhân dân các cấp căn cứ vào hướng dẫn cụ thể của các văn
bản dưới Luật để quyết định và giám sát việc thực hiện nội dung chi cho
GDQPAN tại địa phương mình quản lý.
2.7.11. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 42)
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch, đề án về
GDQPAN theo thẩm quyền; chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện GDQPAN
tại địa phương; bồi dưỡng, tập huấn, quản lý đội ngũ tuyên truyền viên, giáo
viên, giảng viên GDQPAN trên địa bàn theo quy định của pháp luật; phối hợp
với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các tổ chức thành viên của
Mặt trận trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình về GDQPAN; tạo
điều kiện để tổ chức, cá nhân thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ GDQPAN ở địa
phương; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; sơ kết, tổng kết, khen
thưởng việc chấp hành pháp luật về GDQPAN. Theo đó, Ủy ban nhân dân ở
cấp nào thì sẽ chịu trách nhiệm mọi mặt về GDQPAN trên địa bàn hành chính
của cấp ấy; từ quán triệt đến triển khai thực hiện đưa Luật GDQPAN vào cuộc
sống, thành hiện thực. Ủy ban nhân dân ở cấp nào cũng phải thực hiện tốt 5 nội
dung quy định trên; có như vậy mới thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước
về GDQPAN trên địa bàn địa phương mình quản lý.
2.7.12. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên (Điều 43)
63
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 quy định Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên có nhiệm vụ tập hợp khối đại đoàn kết toàn
dân; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thi hành chính
sách, pháp luật; hoạt động giám sát. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên có vai trò quan trọng trong việc quán triệt và triển khai GDQPAN
cho đoàn viên, hội viên của tổ chức mình và tuyên truyền, vận động các tầng lớp
nhân dân thường xuyên học tập nâng cao KTQPAN; bồi dưỡng KTQPAN cho
cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư theo quy định của
pháp luật; đồng thời giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về GDQPAN.
Điều 43 của Luật GDQPAN quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên có trách nhiệm: Tổ chức phổ biến KTQPAN cho đoàn viên,
hội viên của tổ chức mình; Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan tuyên
truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thường xuyên học tập nâng cao
KTQPAN; bồi dưỡng KTQPAN cho cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong
cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật; Giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật về GDQPAN; Vận động tổ chức, cá nhân tham gia, hỗ trợ hoạt
động GDQPAN. Các mặt hoạt động trên của Mặt trận Tổ quốc Việu Nam nhằm
nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong thực hiện
GDQPAN tại các cơ quan, tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên.
2.7.13. Hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh các cấp (Điều 44)
Hội đồng GDQPAN các cấp được thành lập ở trung ương, quân khu, cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp xã; là tổ chức phối hợp liên ngành các cơ quan nhà nước,
làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, có chức năng làm tham mưu, tư vấn cho
Đảng, nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư lệnh các quân khu,
chính quyền địa phương các cấp phương hướng, giải pháp thực hiện GDQPAN;
giúp Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư lệnh các quân khu, chính quyền địa phương
các cấp chỉ đạo, đôn đốc, điều hòa, phối hợp giữa các ngành ở Trung ương và
địa phương trong việc giải quyết những vấn đề về GDQPAN.
64
Cơ quan thường trực Hội đồng GDQPAN ở trung ương là cơ quan Bộ
Quốc phòng, ở quân khu là cơ quan quân khu, ở cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan
quân sự cùng cấp, ở cấp xã là Ban chỉ huy quân sự cấp xã. Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập Hội đồng GDQPAN trung ương, Hội đồng GDQPAN quân
khu, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng GDQPAN các cấp.
Ủy ban nhân dân các cấp quyết định thành lập Hội đồng GDQPAN ở cấp mình.
2.7.14. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức (Điều 45)
Điều 45 quy định người đứng đầu các cơ quan, tổ chức có vai trò quan
trọng trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra cơ quan,
tổ chức thuộc quyền thực hiện quy định của pháp luật về GDQPAN; đồng thời,
chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác GDQPAN của Ủy ban nhân dân các
cấp nơi cơ quan, tổ chức có trụ sở đứng chân. Để thực hiện được nhiệm vụ này,
đội ngũ những người đứng đầu cơ quan, tổ chức cần phải có trình độ, năng lực
nhất định về quốc phòng, an ninh để chỉ đạo triển khai thực hiện GDQPAN
trong cơ quan, tổ chức mình đạt hiệu quả cao nhất.
2.8. Điều khoản thi hành (Chương VIII)
Bao gồm các quy định về hiệu lực thi hành, quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật GDQPAN. Theo đó, Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2014. Để triển khai thi hành Luật có hiệu quả, đưa Luật vào cuộc
sống, Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền sẽ ban hành văn bản để cụ thể hóa
và hướng dẫn thi hành các điều, khoản trong Luật. Các văn bản này sẽ được
ban hành trước ngày 1 tháng 1 năm 2014 và dần hoàn thiện trong quá trình
thực hiện Luật. (Điều 46, 47)
65
Phần thứ ba
THAM KHẢO VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CỦA MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Giáo dục quốc phòng và an ninh cho công dân có vị trí quan trọng trong
chiến lược quốc phòng, an ninh của mỗi quốc gia; mục tiêu cơ bản xuyên suốt
của GDQP của các quốc gia trên thế giới đều nhằm giáo dục trách nhiệm của
công dân đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh và bồi dưỡng kiến thức,
kỹ năng quốc phòng, an ninh cần thiết, để mỗi công dân có thể thực hiện tốt nhất
quyền và nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Đến nay, nhiều nước trên thế giới
đã ban hành Luật GDQP. Sau đây xin giới thiệu một số nội dung cơ bản về quan
điểm GDQP và Luật GDQP của một số nước trên thế giới.
I. TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG Ở MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
1. Quan niệm về giáo dục quốc phòng
Nhìn suốt lịch sử phát triển của thế giới, không có quốc gia nào không coi
trọng GDQP, các nước đều đặt GDQP vào vị trí quan trọng trong xây dựng quốc
phòng, coi là một hoạt động của công dân, đưa vào phạm trù hệ thống động viên
quốc phòng; GDQP cho công dân có vị trí quan trọng trong chiến lược quốc
phòng của mỗi quốc gia; mục tiêu cơ bản xuyên suốt GDQP của các nước trên
thế giới đều nhằm giáo dục tinh thần yêu nước, sẵn sàng tâm lý - tinh thần để
bảo vệ Tổ quốc.
Cốt lõi của GDQP của các quốc gia là chuẩn bị tiềm lực chính trị tinh thần
cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, mặc dù đất nước chưa có nguy cơ chiến tranh,
song họ đã quan tâm, chăm lo giáo dục cho nhân dân về ý thức và trách nhiệm
đối với bảo vệ tổ quốc. Mỹ, Liên Xô trước đây, Liên bang Nga, Cộng hòa Ấn
Độ là những cường quốc có tiềm lực cả về kinh tế, quốc phòng nhưng họ rất
quan tâm đến GDQP và công tác GDQP được quy định bằng cả một đạo luật, từ
66
năm 1958 nước Mỹ đã ban hành Luật GDQP. Đến nay, nhiều nước Cu Ba, Hàn
Quốc, Singapo, Trung Quốc .... đều có Luật GDQP. Như vậy, mặc dù chế độ
chính trị, chính sách quốc phòng mỗi nước có khác nhau, nhưng các nước trên
thế giới đều quan tâm đến GDQP và coi GDQP là một trong những biện pháp
quan trọng, cần thiết để bảo vệ đất nước.
2. Vai trò của giáo dục quốc phòng ở một số nước
Đối với nhiệm vụ phòng thủ đất nước, vai trò của GDQP được các nước
rất quan tâm:
Trung Quốc xác định vai trò của GDQP là cơ sở để xây dựng và củng cố
quốc phòng, là biện pháp quan trọng để tăng cường sức mạnh dân tộc, nâng cao
ý thức, trình độ quốc phòng toàn dân.
Ở nước Mỹ, GDQP là nội dung cốt lõi của giáo dục chủ nghĩa yêu nước.
Chỗ khác biệt của nước Mỹ trong việc bồi dưỡng tư tưởng yêu nước cho công
dân, không tập trung chú ý vào khu vực cư trú và quốc dân, mà thiên về hệ
thống tư tưởng có liên quan mật thiết với đời sống xã hội. Vì vậy, khái niệm mà
họ sử dụng không phải là “Tổ quốc”, “cố hương”, mà là “nước Mỹ”, “lối sống
Mỹ”. Từ năm 1958, Quốc hội Mỹ đã thông qua “Luật GDQP”, tuyên truyền
trong công dân tư tưởng "lợi ích quốc gia trên hết”, đưa GDQP vào trong các
loại giáo dục, rất nhiều khóa của trường học đều kết hợp với GDQP. Ngày nay
trước tình hình mới, đối mặt với tình hình đa cực hóa thế giới, toàn cầu hóa kinh
tế, mạng hóa thông tin, Mỹ càng coi trọng phổ cập tư tưởng GDQP mang màu
sắc riêng của Mỹ.
Nước cộng hòa Cu Ba xác định: “Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần
quốc tế được coi là một phần của công tác huấn luyện công dân cho quốc phòng
và các hoạt động này được thực hiện từ thời bình...” (Điều 84 Bộ luật Quốc
phòng).
Ủy ban liên nghị viện các nước cộng hòa Belarus, cộng hòa Kazakhstan,
cộng hòa Kyrgyzstan và Liên bang Nga quy định: “Lĩnh vực giáo dục quân sự là
67
một trong những lĩnh vực giáo dục được ưu tiên” (Điều 1 Luật mẫu về giáo dục
quân sự)
Pháp xác định: Việc giảng dạy quốc phòng nhằm mục đích để chuẩn bị
những người trẻ xem xét nghiêm túc việc phòng thủ và an ninh của nước Pháp.
3. Một số nước có văn bản pháp luật về giáo dục quốc phòng
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay nhiều nước trên thế giới đã ban hành
luật GDQP hoặc luật quốc phòng có nội dung GDQP.
Châu Á - Thái Bình Dương: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc;
Châu Âu: Liên bang Nga, một số nước cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ),
Pháp;
Châu Mỹ: Mỹ, Cộng hòa Cu Ba.
II. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
1. Về văn bản giáo dục quốc phòng trong các trường học
a) Trung Quốc:
Luật GDQP của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xác định vị trí của
GDQP tại trường học từ tiểu học đến đại học và cơ chế, chính sách để thực hiện
công tác này:
“Điều 13. GDQP trong trường học là nền tảng của GDQP toàn dân, là nội
dung quan trọng của giáo dục nâng cao trình độ toàn dân toàn diện.
Các cơ quan hành chính giáo dục cần đưa nội dung GDQP vào kế hoạch
công tác của mình; đồng thời phải thường xuyên làm tốt công tác tổ chức, chỉ
đạo và giám sát thực hiện; định kỳ tiến hành kiểm tra, sát hạch đối với hoạt động
GDQP trong các nhà trường.
Điều 14. Các trường tiểu học, trung học sơ cấp và tương đương cần đưa
nội dung GDQP vào chương trình giảng dạy trong nhà trường, kết hợp các
68
chương trình, nội dung giảng dạy và học tập trên lớp với các hoạt động dã ngoại
để tiến hành GDQP cho học sinh.
Các trường tiểu học, trung học sơ cấp có thể tổ chức cho học sinh tham gia
các hoạt động của Nhà trường quân sự thiếu niên, trong đó lấy GDQP làm chủ
đề chính.
Các cơ quan hành chính giáo dục, các tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản
chủ nghĩa và các cơ quan, ban, ngành hữu quan cần quan tâm, tạo điều kiện,
thường xuyên tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý chặt chẽ đối với
mọi hoạt động của Nhà trường quân sự thiếu niên.
Các trường tiểu học, trung học sơ cấp căn cứ vào nhu cầu thực tế có thể áp
dụng nhiều hình thức giáo dục khác nhau, như mời người phụ trách thiếu nhi ở
ngoài nhà trường hỗ trợ, giúp đỡ nhà trường tổ chức triển khai các hoạt động
GDQP.
Điều 15. Các trường đại học, cao đẳng, cao đẳng trung học và tương
đương cao đẳng trung học cần kết hợp các chương trình, nội dung giảng dạy và
học tập trên lớp với huấn luyện quân sự dã ngoại để tiến hành GDQP cho học
sinh, sinh viên.
Các trường đại học, cao đẳng cần bố trí nội dung, chương trình GDQP
thích hợp; Các trường cao đẳng trung học và tương đương cao đẳng trung học
cần bố trí nội dung GDQP thành một bộ môn riêng trong chương trình giảng dạy
và học tập của nhà trường; đồng thời có thể triển khai các hoạt động GDQP cho
học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau.
Việc huấn luyện quân sự cho học sinh, sinh viên trong các trường đại học,
cao đẳng, cao đẳng trung học và tương đương cao đẳng trung học do bộ môn
huấn luyện quân sự của nhà trường phụ trách hoặc do giáo viên quân sự tổ chức
thực hiện theo quy định của Nhà nước. Cơ quan quân sự các cấp có trách nhiệm
hỗ trợ, giúp đỡ các nhà trường tổ chức huấn luyện quân sự cho học sinh, sinh
viên.
69
Điều 16. Các nhà trường cần đưa nội dung GDQP vào kế hoạch công tác
và trong chương trình giảng dạy, học tập trong nhà trường; đồng thời áp dụng
các biện pháp hữu hiệu, bảo đảm công tác GDQP đạt chất lượng, hiệu quả.
Việc tổ chức huấn luyện quân sự cho học sinh, sinh viên trong các nhà
trường cần phải áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn.
Điều 17. Nhân viên làm công tác bồi dưỡng, tập huấn và huấn luyện
chuyên trách thuộc các loại hình giáo dục đào tạo cần đưa nội dung GDQP vào
kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn và huấn luyện thường xuyên; đồng thời phải xây
dựng tài liệu, giáo trình GDQP phù hợp.
Nhà nước căn cứ vào yêu cầu tuyển chọn nhân viên phụ trách công tác
GDQP chuyên trách tại các địa phương và các bộ, ngành để cử đi học tập, đào
tạo, bồi dưỡng để bổ sung, hoàn thiện và nâng cao trình độ chuyên môn, kiến
thức quốc phòng tại các nhà trường quân sự”.
Theo báo Giáo dục Việt Nam điện tử: Ngày 04/9/2012 trường Tiểu học
Thực nghiệm ngoại ngữ Vũ Hán tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc đã triển khai hoạt
động huấn luyện quân sự cho các học sinh vừa bước vào lớp 1. Những cô bé,
cậu bé vừa rời ghế mẫu giáo đã phải tham gia vào khóa huấn luyện quân sự với
bài đội hình đội ngũ, hô khẩu lệnh, duyệt đội ngũ. Tuần đầu tiên của tháng 9 là
thời gian các trường học ở Trung Quốc bắt đầu khai giảng, nhiều tỉnh thành
nước này đã triển khai hoạt động giáo dục, huấn luyện quân sự cho học sinh các
cấp, ngay cả các cháu vừa bước vào lớp 1 cũng phải tham gia chương trình này.
b) Các nước Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan, Cộng hòa
Kyrgyzstan và Liên bang Nga
Luật mẫu số 7-13 “Về giáo dục quân sự” của quy định:
“Điều 1. Những quy định chung: “Giáo dục quân sự được hiểu là một quá
trình đào tạo và huấn luyện có mục đích rõ ràng trong nền giáo dục đã có, nó
được thực hiện vì các lợi ích của công dân, xã hội, quốc gia, các lực lượng vũ
trang và các tổ chức quân sự, bán quân sự khác của quốc gia, trong đó nghĩa vụ
70
quân sự đã được dự kiến để đưa các công dân tham gia (những người tham gia
nghĩa vụ quân sự) về cấp độ giáo dục tương ứng đã được chứng thực bằng tài
liệu giáo dục quân sự…”
Điều 2. Các nguyên tắc của chính sách nhà nước về lĩnh vực giáo dục
quân sự: “Phổ cập giáo dục quân sự và sự thích ứng của nó với cấp độ và các
đặc thù huấn luyện thanh niên trong các cơ sở giáo dục phổ thông của nhà
nước”.
Điều 7. Hệ thống giáo dục quân sự: “Hệ thống giáo dục quân sự được hình
thành bởi toàn bộ các chương trình giáo dục nghiệp vụ, các tiêu chuẩn giáo dục
quốc gia và các yêu cầu về trình độ đào tạo đối với cán bộ quân sự ở các cấp học
và ngành học khác nhau, đã được đưa vào trong các trường huấn luyện quân sự
dưới các kiểu và hình thức khác nhau và cần có việc thành lập các tổ chức điều
hành tương ứng”.”
Quyết định của Chính phủ Liên bang Nga ngày 06 tháng 3 năm 2008:
“Đào tạo công dân theo chương trình GDQP tại trung tâm đào tạo quân sự
được thực hiện trong quá trình đào tạo tại trường đại học theo chương trình cơ
bản của trường”.
Khi còn là Liên bang Xô viết, Chính phủ Liên Xô thường xuyên coi trọng
GDQP cho toàn dân, trong đó chú trọng đối tượng là thanh, thiếu niên. Tổ chức
để GDQP có tên là DOSAAT. Nội dung GDQP tập trung là lòng yêu nước, yêu
chế độ và các kỹ năng quân sự cần thiết sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống tổ
chức DOSAAT được tổ chức từ Trung ương đến địa phương và giao cho quân
đội quản lý có Hội đồng quốc gia. Hoạt động của tổ chức DOSAAT đã đem lại
kết quả quan trọng, góp phần xây dựng Liên Xô là thành trì của hệ thống xã hội
chủ nghĩa. Ngày nay, Liên bang Nga nhận thấy vai trò quan trọng của tổ chức
DOSAAT nên đã kế thừa tổ chức DOSAAT của Liên Xô (cũ), theo một cách gọi
khác là an ninh cuộc sống với tên của tổ chức là ROSTO. Tổng thống Nga V.
Putin đã ra chỉ thị đầu tư phát triển hệ thống ROSTO có chất lượng thực sự, để
giáo dục công dân, nhất là thiếu niên, thanh niên trong đó chú trọng vào những
71
người trong độ tuổi làm nghĩa vụ quân sự, sẵn sàng phục vụ lực lượng vũ trang,
giáo dục cho thanh thiếu niên lòng yêu nước, phát triển kỹ năng thể thao quân
sự. Bộ Quốc phòng Liên bang Nga thuyết phục Bộ Giáo dục Nga đưa GDQP
vào trong trường học và trở thành môn học bắt buộc. Hệ thống tổ chức ROSTO
được tổ chức ở tất cả các nước cộng hòa, 6 vùng lãnh thổ, 59 tỉnh thành và
ngang tỉnh thành, 1.684 các tổ chức thành phố do 1.770 Hội đồng ROSTO lãnh
đạo. Ngoài ra, ROSTO còn hợp tác với 9 tổ chức quốc phòng thuộc các nước
khối SNG để đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho lực lượng vũ trang Liên bang
Nga. ROSTO còn đào tạo hơn 119 chuyên ngành kỹ thuật phát triển nông
nghiệp đất nước. Tổ chức ROSTO còn có 1.200 câu lạc bộ kỹ năng thể thao
quân sự ứng dụng, hàng năm đào tạo khoảng 400.000 vận động viên.
Chương trình đào tạo có đăng ký mã ngành với Bộ Giáo dục và được Bộ
Quốc phòng phê duyệt, kinh phí đào tạo do Tổ chức ROSTO dự toán hàng năm
và được Quốc hội phê duyệt và chuyển giao Bộ Quốc phòng; Bộ Quốc phòng
giao cho Tổ chức ROSTO quản lý theo pháp luật.
c) Mỹ
Những nỗ lực trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước và GDQP của Mỹ đã
vượt xa Trung Quốc. Các nhà quân sự Mỹ đã cử các sĩ quan tại ngũ thường trú
tại các trường trung học (mỗi trường một người), chuyên trách thực hiện kế
hoạch GDQP, vị sĩ quan này là thầy giáo môn GDQP, mọi thiết bị cần thiết (trừ
nhà cửa) đều do Bộ Quốc phòng cung cấp, tiền lương và phúc lợi đều do Bộ
Quốc phòng cấp phát, công việc của người sĩ quan này do nhà trường và phía
quân đội cùng quản lý.
Trọng điểm giáo dục quốc phòng Mỹ là: yêu đất nước, biết phục tùng,
trọng đoàn thể, chịu cống hiến. Ở Mỹ rất nhiều người chỉ nói tự do, không lo
phục tùng. Trong GDQP, nhiệm vụ của người sĩ quan Mỹ là phải nói cho học
sinh biết, một người không biết phục tùng không phải là một người hoàn chỉnh.
Phục tùng cấp trên, phục tùng đoàn thể, phục tùng quốc gia là tố chất cơ bản cần
có của một con người hoàn chỉnh, một con người không biết phục tùng, làm sao
72
biết cống hiến. GDQP ở Mỹ nắm từ học sinh tiểu học, triển khai bồi dưỡng huấn
luyện ngoài quân đội. Để làm tốt công việc này, nước Mỹ đặt ra một loạt tổ chức
và bộ máy tương ứng, trong các trường tiểu học, trung học, đại học, xoay quanh
vấn đề tâm lý đạo đức, mở các khóa trình “lợi ích nước Mỹ trên hết”, khiến cho
học sinh có bộ mặt tâm lý đạo đức cần có, và bồi dưỡng tâm lý đạo đức cho cả
lính mới và lính cũ của lực lượng vũ trang Mỹ.
Việc bồi dưỡng huấn luyện ngoài quân đội chia làm 2 lớp: lớp thứ nhất
nhằm vào thanh thiếu niên đang học trung, tiểu học, lớp thứ hai nhằm vào sinh
viên các trường đại học cao đẳng. Lớp thứ nhất có đặc điểm không tiến hành
theo đại cương dạy học của trường, mà tổ chức theo thiếu sinh quân truyền
thống, con trai có nam thiếu sinh quân, con gái có nữ thiếu sinh quân. Tổ chức
này đã có từ năm 1910, hiện nay tại các bang nước Mỹ đều có các phân bộ, thu
hút hàng triệu thanh thiếu niên từ 8 đến 18 tuổi tham gia. Theo thống kê chính
thức, ở Mỹ số nam thiếu sinh quân là hơn 4 triệu, nữ thiếu sinh quân gần 3 triệu.
Tất cả các tổ chức thiếu sinh quân đều theo nguyên tắc tự nguyện gia
nhập, cùng tổ chức thành Hội liên hiệp thiếu sinh quân Mỹ. Bộ máy lãnh đạo là
Hội đồng toàn quốc Mỹ, các thành viên bao gồm các giới doanh nghiệp, tôn
giáo, quân đội, các nhân sĩ từ thiện. Tổng thống Mỹ là Chủ tịch danh dự của
Hội. Tổ chức của thiếu sinh quân có chia rõ đẳng cấp, gồm câu lạc bộ, chi đội,
phân đội, vọng gác và tiểu đoàn đặc chủng. Mỗi bộ phận đều có tiêu chí riêng,
vật tượng trưng riêng và trang phục của đội. Căn cứ vào tuổi tác và kết quả đua
tranh cá nhân, có thể được "thăng cấp theo thứ tự”. Tổ chức thiếu sinh quân rất
coi trọng giáo dục đạo đức và tuân thủ kỷ luật, nên điều kiện sinh hoạt cũng
giống như trong trại lính, điều này có lợi cho sau này khi làm lính tình nguyện,
có thể nhanh thích ứng với cuộc sống quân ngũ gian khổ.
Đối tượng bồi dưỡng ngoài quân đội lớp thứ hai là sinh viên các học viện
nhà trường đại học. Lớp này được tiến hành theo hình thức lớp bồi dưỡng ngoài
quân đội sĩ quan ngạch dự bị, được gọi là Trung đoàn huấn luyện sĩ quan ngạch
dự bị. Các chuyên gia Mỹ cho rằng Trung đoàn huấn luyện này là nguồn chủ
73
yếu bổ sung sĩ quan cho lực lượng vũ trang, đặc biệt là trong thời chiến. Theo tài
liệu báo chí Mỹ công bố, năm 1999 có đến 75% số sĩ quan trung úy lục quân Mỹ
từng được bồi dưỡng huấn luyện tại Trung đoàn huấn luyện, 50% đến 60% sĩ
quan không quân có bằng tốt nghiệp của Trung đoàn. Ở Mỹ có hơn 300 đại học,
học viện có mở khóa trình Trung đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị lục quân
chương trình 2 năm và 4 năm, hơn 600 trường đại học có Trung đoàn huấn
luyện sĩ quan dự bị không quân, Trung đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị hải quân
cũng mở lớp ở 60 nhà trường, học viện. Mọi kinh phí đều do nhà nước cấp với
khoản tiền lớn. Các nhà phân tích Mỹ dự tính, Trung đoàn huấn luyện sĩ quan dự
bị, cứ bồi dưỡng một sĩ quan không quân cấp úy phải chi khoảng 80.000USD.
Quân chủng Hải quân và Hải quân đánh bộ đã từng đầu tư 1,2 triệu USD,
hợp tác quay một bộ phim để tôn tạo hình tượng quân chủng, đây là bộ phim
tuyên truyền cho quân đội đầu tiên được chiếu ở các rạp chiếu bóng kể từ đại
chiến thế giới lần thứ hai đến nay. Lục quân cũng đầu tư hơn 6 triệu USD, xây
dựng trang Web, thu hút 1,3 triệu người truy cập tham gia trò chơi game online
Lục quân Mỹ. Như vậy, lục quân có thể tiềm nhập vào máy tính của các đối
tượng sẽ được trưng binh sau này, những người chơi game có thể liên hệ trực
tiếp với các nhân viên tuyển mộ lính của lục quân.
Các trường học ở Mỹ, khi loa phóng thanh vang lên bài quốc ca Mỹ, toàn
thể người Mỹ đều đứng nghiêm, đó là lúc nhà trường làm lễ chào cờ. Nhà
trường khi có các hoạt động lớn đều tổ chức lễ chào cờ. Cách làm này bắt đầu
ngay từ tiểu học, tuần nào cũng tiến hành, để cho quan niệm trung thành với
quốc gia thấm sâu vào tâm hồn lũ trẻ, suốt đời không quên. Trên đường phố đâu
đâu cũng thấy các quốc kỳ Mỹ lớn nhỏ tung bay trước gió, có người nói quốc kỳ
Mỹ rẻ rúng quá, treo lung tung khắp nơi không có quy tắc gì cả, thực ra đó chính
là biện pháp có hiệu quả của chính quyền Mỹ giáo dục ý thức quốc gia cho nhân
dân, điều đó nói với mọi người: quốc gia có ở khắp nơi, mọi người đều phải yêu
nước.
d) Nhật Bản
74
Theo báo chí nước ngoài Nhật Bản đã thành lập các Trung tâm GDQP tại
các quân khu, địa phương để giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên, lực
lượng bán quân sự. Trung tâm cũng là nơi nghiên cứu về các vấn đề quân sự,
quốc phòng, hợp tác quốc tế về quân sự và chính sách giáo dục. Để nâng cao
chất lượng GDQP, ngoài việc tăng cường trang thiết bị, hiện đại hóa cơ sở hạ
tầng, các trung tâm tập trung xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch giáo
dục phù hợp; tổ chức huấn luyện thực hành theo phương châm “khó hóa”, tức là
nâng cao các tiêu chuẩn về môi trường quân sự; tăng cường sát hạch, kiểm tra;
tổ chức huấn luyện và tập bài tác chiến hiệp đồng sát với điều kiện khắc nghiệt
của chiến tranh hiện đại.
đ) Hàn Quốc
Theo báo điện tử Dân trí ở Hàn Quốc, những phụ huynh phát hiện con cái
mình bỏ học, nghiện chơi game hoặc không thể rời mắt khỏi màn hình tivi,
thường gửi chúng vào các trại huấn luyện quân sự để rèn luyện thể lực và ý
thức.
Tại những trại này, các em được huấn luyện - theo kiểu nhà binh - dưới
điều kiện thời tiết dưới âm độ: phải trườn trên mặt đất phủ dày tuyết, thực hiện
những bài tập mỗi ngày.
Những phương pháp huấn luyện trong trại nhằm tăng cường ý chí bọn trẻ,
làm cho chúng mạnh mẽ hơn. Trong thời gian rèn luyện, các em cũng không
nhận được sự giúp đỡ hay tiền bạc gì từ người thân.
Mỗi ngày ngoài việc bò trên tuyết lạnh với ít quần áo mặc trên người, các
“học viên” này còn phải thực hiện các bài đẩy tạ, chèo thuyền và các loại hình
rèn luyện thể lực khác. Ngay khi bọn trẻ chuẩn bị nghỉ giải lao và ăn trưa, người
ta lại yêu cầu chúng dọn dẹp những khối tuyết. Đây quả là công việc khá nặng
nhọc cho những thanh thiếu niên mà gia đình gửi chúng đến đây.
Một trong những người huấn luyện tại trại, anh Park Tea-joon cho biết:
“Học sinh thời nay thường sống chỉ biết bản thân mình và thiếu tính tự lập.
Chúng dễ dàng bỏ cuộc khi gặp chuyện khó khăn. Vì thế các bậc phụ huynh gửi 75
bọn trẻ đến đây với mong muốn chúng có thể khắc phục những yếu điểm này và
trở thành người tốt hơn”.
Theo tài liệu nghiên cứu của Hội đồng GDQP-AN Trung ương tháng 12
năm 2009 tại Hàn Quốc cho biết: Mục tiêu GDQP cho học sinh, sinh viên nhằm
đào tạo tinh thần học sinh hiến thân cho tổ quốc; đào tạo tinh thần một đất nước
tự do; đào tạo tri thức quốc phòng; đào tạo nghị lực tinh thần dũng cảm; khát
vọng thống nhất tổ quốc.
Ở Hàn Quốc, giáo dục luôn được đặt lên hàng đầu. Đây là nước đứng thứ
hai trên thế giới trong các kỳ thi của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) kiểm tra các trình độ toán, đọc hiểu... của học sinh trong độ tuổi 15. Vì
vậy, không có gì lạ khi học sinh phổ thông ở nước này lúc nào cũng bị áp lực
phải học đến 18 giờ mỗi ngày để thi đỗ đại học.
e) Úc
Theo tài liệu nghiên cứu GDQP năm 2009 tại Úc của Hội đồng GDQP-
AN Trung ương: Chương trình GDQP cho học sinh chủ yếu về giữ gìn an ninh,
giữ vững hòa bình, về vai trò quân đội Úc, đối với nhiệm vụ bảo vệ đất nước.
Tạo cho học sinh, sinh viên một cách nhìn có tính nền tảng từ khi còn trẻ đối với
nghĩa vụ công dân với đất nước. Ngoài ra, học sinh còn được trang bị một số
kiến thức quốc phòng cơ bản, xem thực tế một số đơn vị quân đội, xem các loại
vũ khí của quân độ và biết thao tác một số vũ khí thông thường (bộ binh).
g) Ấn Độ
Ở Ấn Độ, GDQP cho thanh, thiếu niên được tổ chức thành trung tâm Học
viên quốc gia Bộ Quốc phòng; đối tượng tập trung là thanh, thiếu niên và những
người trong độ tuổi chuẩn bị làm nghĩa vụ quân sự.
2. Văn bản về bồi dưỡng, phổ biến kiến thức quốc phòng
a) Trung Quốc
Về bồi dưỡng, phổ biến kiến thức quốc phòng, Luật GDQP Trung Quốc
quy định:
76
“Điều 18. Các cơ quan Nhà nước cần căn cứ vào tình hình thực tế để lựa
chọn các hình thức tiến hành GDQP cho công nhân viên chức phù hợp với đặc
điểm và tính chất công việc của mình.
Nhân viên làm việc trong các cơ quan của Nhà nước cần tích cực học tập,
nắm vững kiến thức quốc phòng cơ bản. Đối với nhân viên công tác trong các cơ
quan Nhà nước về lĩnh vực kiến thiết quốc phòng phải học tập đầy đủ và nắm
vững những kiến thức quốc phòng cơ bản theo chức trách của mình.
Cán bộ lãnh đạo các địa phương, các bộ, ngành căn cứ chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và phạm vi trách nhiệm của mình, có kế hoạch tổ chức, lãnh đạo,
chỉ đạo địa phương mình, bộ ngành mình triển khai kế hoạch, nội dung GDQP.
Điều 19. Các nhà máy, xí nghiệp, các đơn vị sự nghiệp cần đưa nội dung
GDQP vào kế hoạch giáo dục công chức; đồng thời thông qua các hoạt động kết
hợp giáo dục chính trị, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ với các hoạt động văn
hoá, văn nghệ, thể dục thể thao để tiến hành GDQP cho công chức.
Các nhà máy, xí nghiệp sự nghiệp, các đơn vị đảm nhiệm các nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học, sản xuất quốc phòng; xây dựng, kiến thiết quốc phòng;
bảo đảm giao thông phục vụ quốc phòng cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ
của mình để xây dựng nội dung, kế hoạch GDQP phù hợp, trong đó cần tập
trung vào GDQP cho công chức.
Các tổ chức đoàn thể xã hội cần triển khai các hình thức, nội dung GDQP
cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh vực hoạt động.
Điều 20. Quân khu, quân khu tỉnh (quân khu bảo vệ thủ đô22, quân khu
cảnh vệ23), phân khu quân khu24 (quân khu cảnh vệ) và lực lượng vũ trang của
các huyện, huyện tự trị, thị xã, các hạt trực thuộc căn cứ vào các quy định của
Nhà nước và quân đội, kết hợp lồng ghép các hoạt động giáo dục chính trị và
kiện toàn tổ chức, huấn luyện quân sự, thực hiện nghĩa vụ, công tác gọi công
22 Tổ chức quân đội làm nhiệm vụ bảo vệ thủ đô vừa thuộc quân khu, vừa là cơ quan quân sự của thành uỷ.23 Tổ chức quân đội ở thành phố thuộc tỉnh vừa thuộc quân khu tỉnh, vừa là cơ quan quân sự của thành uỷ, một số ít trực thuộc quân khu.24 Tổ chức quân đội ở địa phương trực thuộc quân khu tỉnh.
77
dân nhập ngũ với các hoạt động nhân các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn để tiến hành
GDQP cho dân binh, lực lượng dự bị.
Việc GDQP cho dân binh, lực lượng dự bị phải tập trung trọng điểm
hướng vào đội ngũ dân binh, lực lượng dự bị nắm giữ các vị trí lãnh đạo, lực
lượng dân binh nòng cốt, lực lượng dự bị loại I; đồng thời chủ động xây dựng và
hoàn thiện chế độ chính sách, bảo đảm cho mọi nhân viên đều phải được học tập
và tiếp thu GDQP với đầy đủ nội dung và thời gian học tập.
Điều 21. Uỷ ban nhân dân khối phố, thôn bản cần đưa GDQP thành một
nội dung của xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa ở từng khối phố,
thôn bản; kết hợp công tác gọi công dân nhập ngũ, ủng hộ quân đội ưu đãi gia
đình quân nhân với các hoạt động nhân các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn để tiến
hành GDQP cho mọi công dân.
Uỷ ban nhân dân khối phố, thôn bản có thể mời các cựu quân nhân đã
nghỉ hưu hỗ trợ, giúp đỡ triển khai các hoạt động GDQP.
Điều 22. Các bộ, ngành và các đơn vị làm công tác văn hoá, thông tin,
xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh cần căn cứ tình hình và yêu cầu
nhiệm vụ của bộ, ngành mình và đơn vị mình để triển khai các hình thức GDQP.
Các cơ quan báo chí, các đài phát thanh, truyền hình trung ương, tỉnh,
thành phố, khu tự trị, thành phố, thị xã, trị trấn cần mở các chuyên mục, các
chương trình GDQP để thực hiện phổ cập GDQP toàn dân.
Điều 23. Các khu di tích lịch sử cách mạng, khu tưởng niệm liệt sỹ và
những nơi có chức năng GDQP như nhà bảo tàng; nhà tưởng niệm; nhà trưng
bày thành tựu khoa học, kỹ thuật; cung thanh, thiếu niên cần tạo điều kiện thuận
lợi để mọi công dân được tiếp nhận GDQP; cần có chế độ ưu đãi hoặc miễn phí
hoàn toàn đối với các hoạt động GDQP tập thể; đồng thời mở cửa miễn phí cho
học sinh trung, tiểu học thuộc các cơ sở GDQP, như quy định tại Điều 28 của
Luật này tổ chức thăm quan, học tập tập thể và mở cửa thăm quan miễn phí nhân
ngày GDQP toàn dân”.
78
b) Cu Ba
Bộ Luật Quốc phòng Cu Ba quy định huấn luyện công dân cho quốc
phòng:
“Điều 81. Các cơ quan tổ chức nhà nước, các doanh nghiệp và tổ chức xã
hội có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện công tác huấn luyện công dân cho quốc
phòng. Những người lãnh đạo cao nhất của các tổ chức, đơn vị này phải chịu
trách nhiệm bảo đảm cho người lao động thuộc cơ quan đơn vị mình không bị
ảnh hưởng đến tiền lương và phụ cấp thu nhập nhằm động viên sản xuất và phục
vụ trong suốt thời gian huấn luyện quân sự.
Điều 82. Công tác huấn luyện công dân cho quốc phòng được thực hiện
một cách có hệ thống và theo chuyên ngành theo các quy định của Bộ các lực
lượng vũ trang cách mạng.
Điều 83. Công tác huấn luyện công dân cho quốc phòng chính là việc
chuẩn bị con người và bao gồm:
Huấn luyện cán bộ bao gồm: Sỹ quan thường trực và dự bị, sĩ quan dân
quân bộ đội lãnh thổ, các nhà lãnh đạo và viên chức của các cơ quan, tổ chức
nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.
Huấn luyện cơ quan chỉ huy và lãnh đạo bao gồm: các cơ quan chỉ huy bộ
đội chính quy, Dân quân bộ đội lãnh thổ và các cơ quan tham mưu, các nhóm
công tác ở từng cấp, các cơ quan chỉ huy, lãnh đạo được thành lập cho các trạng
thái đặc biệt.
Huấn luyện bộ đội bao gồm: chuẩn uý, hạ sĩ quan, chiến sĩ, quân thường
trực và dự bị, huấn luyện dân quân hay chiến sĩ thuộc các đội sản xuất và phòng
thủ.
Huấn luyện các công dân khác gồm những người, vì lý do tuổi tác, sức
khoẻ hay các nguyên nhân khác không thể tham gia vào các nhóm trên.
Điều 84. Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần quốc tế được coi là một
phần của công tác huấn luyện công dân cho quốc phòng và các hoạt động này
79
được thực hiện từ thời bình. Những nguyên tắc thực hiện chung được các cơ
quan lãnh đạo chức năng quy định, và các cơ quan, tổ chức nhà nước, các doanh
nghiệp, tổ chức xã hội và công dân tham gia thực hiện công tác này”.
c) Ủy ban liên nghị viện các nước cộng hòa Belarus, cộng hòa Kazakhstan, cộng hòa Kyrgyzstan và Liên bang Nga
Điều 4 Luật mẫu về giáo dục quân sự của Ủy ban liên nghị viện các nước
cộng hòa Belarus, cộng hòa Kazakhstan, cộng hòa Kyrgyzstan và Liên bang
Nga, quy định:
“Công dân trên lãnh thổ của mình được đảm bảo khả năng tham gia khóa
giáo dục quân sự mà không phụ thuộc vào quốc tịch, vị trí xã hội, tài sản, chức
vụ, tình trạng xã hội, nơi cư trú và quan hệ tôn giáo.
Quyền của công dân tham gia vào giáo dục quân sự được bảo đảm bằng
chính sách nhà nước là tạo ra một hệ thống cơ sở giáo dục quân sự và các điều
kiện kinh tế xã hội tương ứng với việc tham gia khóa giáo dục đã chọn.
Nhà nước cung cấp, hỗ trợ cho công dân (quân nhân) tham gia vào khóa
giáo dục quân sự trong các trường huấn luyện quân sự ở trong nước và nước
ngoài.
d) Mỹ
Từ xưa đến nay, chính quyền Mỹ hết sức coi trọng sử dụng phương tiện
truyền thông tin tức để tiến hành giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Trong thời kỳ
chiến tranh Việt Nam, giới truyền thông Mỹ lúc đó đã từng đóng vai trò như thế.
Nhưng do tình hình chiến sự phát triển không ngừng, sự thực là có rất nhiều
thương bệnh binh đã không thể che giấu được nữa, giới truyền thông Mỹ mới
quay sang đưa nhiều tin xấu của cuộc chiến tranh Việt Nam, nên nếu nói đó là
sự phát hiện của lương tâm giới truyền thông, chẳng bằng nói đó là sự thực đã tự
nói.
80
Đối với giới truyền thông, tin tức là quan điểm. Tin tức càng gần quần
chúng, quan điểm của giới truyền thông càng chủ quan. Cho nên trong chiến
tranh I-rắc, đại bộ phận tin tức đưa tin về I-rắc đều từ phía chính quyền Mỹ, đa
số là tin giả, vì giới truyền thông Mỹ bị hạn chế rất lớn. Giới truyền thông Mỹ
phải sắm vai trò người yêu nước, sử dụng vai trò và vũ khí đặc biệt của giới
truyền thông, chi viện đắc lực cho hành động của Mỹ.
Những tin tức chiến sự I-rắc được biết đến ở bờ bên kia Đại Tây Dương,
rất dễ trở thành phương tiện mang tải diễn đạt chủ nghĩa yêu nước của giới
truyền thông Mỹ. Vì giới truyền thông Mỹ không thể tách rời khỏi sự ủng hộ
của chính quyền, đi ngược lại phương hướng chính trị đã định, giới truyền thông
sẽ mất chỗ dựa để tồn tại. Có thể nói, nếu giới truyền thông không làm theo ý
nguyện của chính quyền, sẽ không thể nào có được cái gọi là tin tức. Ví dụ:
muốn cho các phóng viên mặt trận nói theo chính quyền Mỹ, Bộ Quốc phòng
Mỹ đã có quyết định, đối với các phóng viên viết bài có lợi cho chính sách của
Mỹ, sẽ được chính quyền Mỹ trả một khoản nhuận bút không tồi.
Trong cuộc chiến tranh công nghệ cao, tuy giới truyền thông có một đội
ngũ lấy tin hùng hậu, nhưng chủ yếu là tin tức của chính quyền đưa ra. Nếu
không được phép và sự phối hợp tích cực của chính quyền, giới truyền thông
không thể nào có được tin tức chiến trường. Từ những lần hành động quân sự
của chính quyền Mỹ, mọi người nhận ra một quy luật, dân chúng Mỹ rất sợ
thương vong chiến tranh. Đặc biệt là trong chiến tranh Việt Nam, bị thương
vong nặng nề, làn sóng chống chiến tranh trong nước lại dâng cao. Muốn giảm
sức ép của quốc tế và trong nước, từ cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, quân đội Mỹ
bắt đầu nêu rất cao lý thuyết chiến tranh không thương vong, quan điểm cơ bản
của họ là dựa vào ưu thế trang bị và khoa học công nghệ cao, để giảm thương
vong cho con người.
Hầu như Chiến tranh Vùng Vịnh là không có thương vong, cuộc chiến
tranh Cô-xô-vô cũng thế. Nên muốn thực hiện chính trị cường quyền, tiến hành
GDQP, quân đội Mỹ đã giương cao lá bài chiến tranh không thương vong, cho
81
rằng quân đội Mỹ có các thủ đoạn trinh sát khoa học công nghệ cao và vũ khí
công kích tầm xa, trên chiến trường quân Mỹ nhìn thấy quân địch mà không bị
quân địch phát hiện, đánh được địch mà địch không đánh được mình.
đ) Hàn Quốc
Theo tài liệu nghiên cứu của Hội đồng GDQP-AN về bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng tại một số nước:
- Đối tượng bồi dưỡng là công chức nhà nước, lãnh đạo các tập đoàn kinh
tế.
- Địa điểm bồi dưỡng là trường của Bộ Quốc phòng.
- Hàn Quốc coi bồi dưỡng kiến thức quốc phòng là bắt buộc đối với quan
chức nhà nước và các tập đoàn kinh tế, công chức của địa phương, các cục, vụ,
viện, tổng cục của các bộ.
- Quan chức hàng tỉnh muốn trở thành thứ, bộ trưởng phải đi học tại Học
viện Quốc phòng 1 năm và chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 cho những người
thuộc diện dự nguồn, giai đoạn 2 những người trở thành quan chức cao cấp.
e) Liên bang Nga
Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng thực hiện theo diện rộng, tùy theo đối
tượng để tổ chức nhưng tập trung vào cán bộ cấp tỉnh trở lên. Riêng tỉnh trưởng
bắt buộc phải học, không có chứng chỉ bồi dưỡng kiến quốc phòng khó bổ
nhiệm chức vụ cao hơn. Thời gian học của đối tượng quan chức cấp tỉnh là 4
tháng, địa điểm tại Học viện Bộ Tổng Tham mưu các lực lượng vũ trang Liên
bang Nga.
g) Úc
Đối tượng đào tạo ở Học viện Quốc phòng gồm sĩ quan, quan chức dân
sự, cảnh sát liên bang, kiến thức tập trung vào: Nhận thức về quốc phòng; kiến
thức, kỹ năng quân, binh chủng; kiến thức an ninh khu vực và thế giới; chiến
lược quốc phòng.
82
3. Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động giáo dục quốc phòng ở một số
quốc gia
a) Trung Quốc
Luật GDQP Trung Quốc quy định rất cụ thể trách nhiệm bảo đảm cho
hoạt động GDQP của chính quyền các cấp, các cơ quan Nhà nước, các đơn vị
hành chính, sự nghiệp, các tổ chức đoàn thể xã hội.
“Điều 24. Chính quyền nhân dân các cấp cần đưa nội dung công tác
GDQP vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương; đồng thời
căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ GDQP, xây dựng kế hoạch bảo đảm tài
chính cho hoạt động GDQP trong dự toán ngân sách của địa phương.
Điều 25. Các cơ quan Nhà nước, các đơn vị hành chính, sự nghiệp, các tổ
chức đoàn thể xã hội phải xây dựng kế hoạch bảo đảm tài chính cần thiết cho
GDQP trong dự toán ngân sách của cơ quan mình, đơn vị mình; các nhà máy, xí
nghiệp xây dựng kế hoạch bảo đảm tài chính cho công tác GDQP trong kinh phí
giáo dục công chức của đơn vị mình.
Kinh phí bảo đảm huấn luyện quân sự cho học sinh, sinh viên của các nhà
trường được thực hiện theo quy định hiện hành của nhà nước.
Điều 26. Nhà nước khuyến khích các tổ chức xã hội và các cá nhân hiến
tặng tài sản, vật chất và tài trợ cho hoạt động GDQP.
Tài sản, vật chất của các cá nhân, các tổ chức xã hội tài trợ cho công tác
GDQP do quỹ GDQP hoặc quỹ của các tổ chức xã hội, quỹ phúc lợi xã hội được
thành lập theo quy định của pháp luật quản lý và sử dụng theo quy định của
pháp luật.
Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức xã hội và các cá nhân cung cấp và
hiến tặng hiện vật đang cất giữ có giá trị đối với GDQP. Các đơn vị tiếp nhận,
khai thác và sử dụng hiện vật phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản; sử dụng
xong phải kịp thời hoàn trả lại.
83
Điều 27. Kinh phí bảo đảm cho GDQP và tài sản mà các cá nhân, tổ chức
xã hội tài trợ cho GDQP phải được sử dụng vào sự nghiệp GDQP. Nghiêm cấm
mọi đơn vị, cá nhân cắt xén hoặc sử dụng vào mục đích khác.
Điều 28. Những nơi quy định tại Điều 23 của Luật này có đủ các điều kiện
dưới đây, đã được chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc
phê chuẩn, được gọi là cơ sở GDQP:
1. Có chủ đề nội dung GDQP rõ ràng;
2. Có chế độ quy tắc và cơ cấu quản lý kiện toàn;
3. Có cơ cấu GDQP tương ứng;
4. Có kính phí bảo đảm cần thiết;
5. Có hiệu quả giáo dục xã hội nổi bật.
Các cơ sở GDQP cần tăng cường xây dựng, không ngừng bổ sung, hoàn
thiện và phát huy đầy đủ chức năng GDQP. Chỉ những nơi có đầy đủ các điều
kiện theo quy định như trên và chỉ sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt
mới được gọi là cơ sở GDQP.
Điều 29. Chính quyền nhân dân các cấp cần tăng cường công tác quy
hoạch, xây dựng và quản lý đối với các cơ sở GDQP; đồng thời cần bảo đảm các
điều kiện cần thiết để phát huy đầy đủ tác dụng, hiệu quả của các cơ sở GDQP.
Chính quyền nhân dân các cấp cần tăng cường công tác thu thập, tôn tạo
và bảo vệ hiện vật có giá trị đối với GDQP.
Điều 30. GDQP toàn dân sử dụng thống nhất Đại cương GDQP. Đại
cương GDQP do cơ quan GDQP Nhà nước ban hành.
Tài liệu, giáo trình GDQP phải bảo đảm phù hợp với từng khu vực, từng
đối tượng. Tài liệu, giáo trình GDQP của các địa phương, các bộ, ngành phải
được biên soạn dựa trên cơ sở của Đại cương GDQP kết hợp với đặc điểm của
từng địa phương, từng bộ, ngành.
84
Điều 31. Cơ quan GDQP các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan,
các bộ, ngành hữu quan để tổ chức và làm tốt công tác tuyển chọn, bồi dưỡng,
huấn luyện và quản lý đội ngũ nhân viên làm công tác GDQP, không ngừng tăng
cường đội ngũ giáo viên cho sự nghiệp GDQP.
Điều 32. Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc và bộ đội cảnh sát vũ
trang nhân dân Trung Quốc cần căn cứ vào nhu cầu, khả năng để lựa chọn và cử
giáo viên quân sự hỗ trợ, giúp đỡ địa phương nơi đóng quân tổ chức các hoạt
động GDQP, tạo điều kiện về sân bãi, thao trường, các công trình và các điều
kiện khác phục vụ cho huấn luyện quân sự.
Trong các ngày quốc khánh, ngày thành lập Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc và ngày GDQP toàn dân, các đơn vị quân đội sau khi được cấp có
thẩm quyền phê chuẩn có thể mở cửa đón khách. Việc mở cửa tự do tại các đơn
vị quân đội do Uỷ ban Quân sự Trung ương quy định cụ thể”.
b) Cu Ba
Bộ Luật Quốc phòng Cu Ba quy định:
“Điều 81. Các cơ quan tổ chức nhà nước, các doanh nghiệp và tổ chức xã
hội có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện công tác huấn luyện công dân cho quốc
phòng. Những người lãnh đạo cao nhất của các tổ chức, đơn vị này phải chịu
trách nhiệm bảo đảm cho người lao động thuộc cơ quan đơn vị mình không bị
ảnh hưởng đến tiền lương và phụ cấp thu nhập nhằm động viên sản xuất và phục
vụ trong suốt thời gian huấn luyện quân sự.
Điều 82. Công tác huấn luyện công dân cho quốc phòng được thực hiện
một cách có hệ thống và theo chuyên ngành theo các quy định của Bộ các lực
lượng vũ trang cách mạng”.
c) Ủy ban liên nghị viện các nước cộng hòa Belarus, cộng hòa
Kazakhstan, cộng hòa Kyrgyzstan và Liên bang Nga:
85
Điều 20 Luật mẫu về giáo dục quân sự của Ủy ban liên nghị viện các nước
cộng hòa Belarus, cộng hòa Kazakhstan, cộng hòa Kyrgyzstan và Liên bang Nga
quy định:
“…Thành lập các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương cũng như các cơ
quan nhà nước và bổ nhiệm lãnh đạo cho các cơ quan này để điều hành việc
giáo dục quân sự.
Tổ chức và hợp tác để đảm bảo vật tư - kỹ thuật cho việc phát triển giáo
dục quân sự trong phạm vi chương trình quốc gia với mục đích phát triển giáo
dục quân sự.
Xây dựng các chính sách ưu đãi về thuế dùng để kích thích sự phát triển
giáo dục quân sự và quy chế tài chính của các trường huấn luyện quân sự, chính
sách ưu đãi và định mức liên quan đến việc bảo đảm vật chất cho các hạng học
viên khác nhau trong các trường cũng như cho những người giảng dạy là nhân
viên dân sự”.
d) Liên Xô (cũ)
Ngày 04 tháng 10 năm 1957, Liên Xô đã phóng thành công Sputnik 1 - vệ
tinh nhân tạo đầu tiên vào quỹ đạo Trái Đất. Vì các tiềm năng quân sự và kinh
tế, Sputnik đã gây nên hoảng sợ và các tranh luận về chính trị ở Mỹ, làm cho
chính quyền Eisenhower đưa ra một số chương trình, trong đó có cả việc thành
lập NASA. Cùng lúc đó, sự kiện Sputnik được nhìn nhận tại Liên Xô như một
dấu hiệu quan trọng về khả năng khoa học kỹ thuật của quốc gia.
Ở Liên Xô, vụ phóng Sputnik và chương trình thám hiểm vũ trụ kế tiếp đã
thu hút được sự ủng hộ của công chúng. Đối với một đất nước chỉ vừa hồi phục
sau chiến tranh đó là một điều quan trọng và đầy khích lệ để thấy được sức
mạnh khoa học kĩ thuật trong thời đại mới.
Trước sự kiện Sputnik, người Mỹ tin rằng Mỹ luôn là quốc gia có thể vượt
trội trong mọi lĩnh vực kĩ thuật. Để đáp lại Sputnik, Mỹ đã bắt đầu một cố gắng
vượt bậc để lấy lại thế thượng phong về khoa học kĩ thuật, kể cả việc cải cách
86
chương trình giáo dục. Các thành công của Liên Xô trong việc đưa lên không
gian một vệ tinh viễn thông nặng 184pound và ngay một tháng sau, một tên lửa
nặng nửa tấn mang theo chó Laika lên vũ trụ đã buộc Mỹ phải hành động ở tầm
cỡ quốc gia. Chỉ trong một năm, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật GDQP
(National Defense Education Act), một chương trình giáo dục liên bang có tầm
ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử của quốc gia này. Đạo luật này đã cho
phép chi ra hơn một tỷ đô la cho các cải cách giáo dục khác nhau, bao gồm việc
xây dựng thêm nhiều trường mới, các học bổng và các khoản tiền cho mượn để
các học sinh giỏi có thể học lên cao hơn, những cố gắng mới trong giáo dục
ngành nghề để đáp ứng những nhu cầu về nhân lực của ngành công nghiệp quốc
phòng, và nhiều chương trình khác. Phản ứng này ngày nay được biết đến với
tên gọi khủng hoảng Sputnik./.
87
Phụ lục
MỘT SỐ VĂN BẢN LUẬT VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
I. LUẬT GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG CỦA NƯỚC CỘNG HOÀ
NHÂN DÂN TRUNG HOA
Phân loại cấp 1: Văn bản quy phạm pháp luật quân sự
Phân loại cấp 2: Luật Giáo dục quốc phòng
Cơ quan ban hành: Hội nghị lần thứ 21, Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại
biểu nhân dân toàn quốc, khoá IX
Ngày công bố: 28.4.2001 - Ngày có hiệu lực: 28.4.2001
Nội dung Luật:
Chương I: Nguyên tắc chung
Chương II: GDQP trong trường học
Chương III: GDQP trong xã hội
Chương IV: Công tác bảo đảm cho GDQP
Chương V: Phạm vi trách nhiệm
Chương VI: Hiệu lực thi hành
Nội dung cụ thể của Luật GDQP nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
CHƯƠNG I: Nguyên tắc chung
Điều 1. Luật GDQP là sự cụ thể hoá của Luật Quốc phòng và Luật Giáo
dục, nhằm mục đích phổ cập và tăng cường công tác GDQP toàn dân, phát huy
tinh thần của chủ nghĩa yêu nước, đẩy mạnh công cuộc xây dựng quốc phòng và
xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Điều 2. Luật GDQP là cơ sở để xây dựng và củng cố quốc phòng, là biện
pháp quan trọng để tăng cường sức mạnh dân tộc, nâng cao ý thức, trình độ quốc
phòng toàn dân.88
Điều 3. Nhà nước thông qua việc triển khai và mở rộng GDQP nhằm làm
cho mọi công dân quán triệt sâu sắc quan niệm quốc phòng, nắm vững kiến thức
quốc phòng cơ bản, học tập kỹ năng quân sự tất yếu, khơi dậy tinh thần yêu
nước, tính tự giác chấp hành nghĩa vụ quốc phòng.
Điều 4. GDQP cần quán triệt phương châm toàn dân tham gia, kiên trì lâu
dài, hiệu quả thực tế; đồng thời cần phải tuân thủ theo nguyên tắc kết hợp giáo
dục thường xuyên với giáo dục tập trung, kết hợp giáo dục phổ cập với giáo dục
trọng điểm, kết hợp giáo dục lý luận với giáo dục thực tiễn. Căn cứ vào các đối
tượng khác nhau để xác định nội dung giáo dục và hình thức tổ chức giáo dục
phù hợp.
Điều 5. Mọi công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đều có quyền
và nghĩa vụ tiếp thu GDQP. GDQP phổ cập và GDQP tăng cường là trách nhiệm
chung của toàn xã hội.
Mọi cơ quan thuộc Nhà nước và các lực lượng vũ trang, các chính Đảng
và các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức nghề nghiệp và các tổ chức quần
chúng đều phải căn cứ vào tình hình thực tế để triển khai, mở rộng GDQP tại
khu vực, bộ ngành, đơn vị, tổ chức mình quản lý.
Điều 6. Quốc vụ viện lãnh đạo, chỉ đạo công tác GDQP toàn quốc. Uỷ ban
Quân sự Trung ương phối hợp với Quốc vụ viện triển khai, mở rộng các hoạt
động GDQP trong toàn dân.
Chính quyền nhân dân địa phương các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ
đạo công tác GDQP trong khu vực hành chính thuộc phạm vị trách nhiệm ở địa
phương. Cơ quan quân sự địa phương có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ và hỗ
trợ chính quyền nhân dân địa phương triển khai các hoạt động GDQP tại các địa
phương.
Điều 7. Các cơ quan chuyên trách về công tác GDQP thuộc hệ thống
GDQP nhà nước chịu trách nhiệm quy hoạch, kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và phối
hợp thực hiện công tác GDQP trong phạm vị cả nước;
89
Các cơ quan phụ trách công tác GDQP địa phương từ cấp huyện trở lên
chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, phối hợp thực hiện và giám sát việc thực hiện
công tác GDQP trong khu vực hành chính thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Điều 8. Các ngành giáo dục, dân chính, văn hoá, tuyên truyền chịu trách
nhiệm về công tác GDQP trong phạm vi mình phụ trách.
Các ngành chủ quản về công tác trưng binh25, nghiên cứu và sản xuất quốc
phòng, động viên kinh tế quốc dân, phòng không nhân dân, bảo đảm giao thông
phục vụ quốc phòng, bảo vệ các công trình quân sự cần căn cứ vào quy định của
của Luật này và các quy định của pháp luật, văn bản pháp quy có liên quan, chịu
trách nhiệm triển khai công tác GDQP.
Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản chủ nghĩa, Hội liên hiệp phụ nữ và
các tổ chức đoàn thể xã hội phối hợp với chính quyền nhân dân các cấp triển
khai các hoạt động GDQP.
Điều 9. Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, bộ đội cảnh sát vũ trang
nhân dân Trung Quốc căn cứ vào các quy định có liên quan của Uỷ ban Quân sự
Trung ương để triển khai công tác GDQP.
Điều 10. Nhà nước ủng hộ và khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân triển
khai các hoạt động mang lại lợi ích và hiệu quả cho GDQP.
Điều 11. Nhà nước và xã hội sẽ có các hình thức biểu dương, khen thưởng
xứng đáng nhằm tôn vinh những tập thể và cá nhân có đóng góp xuất sắc cho sự
nghiệp GDQP.
Điều 12. Nhà nước thống nhất ngày GDQP toàn dân.
CHƯƠNG II: Giáo dục quốc phòng trong trường học
Điều 13. GDQP trong trường học là nền tảng của GDQP toàn dân, là nội
dung quan trọng của giáo dục nâng cao trình độ toàn dân toàn diện.
Các cơ quan hành chính giáo dục cần đưa nội dung GDQP vào kế hoạch
công tác của mình; đồng thời phải thường xuyên làm tốt công tác tổ chức, chỉ 25 Gọi công dân làm nghĩa vụ quân sự
90
đạo và giám sát thực hiện; định kỳ tiến hành kiểm tra, sát hạch đối với hoạt động
GDQP trong các nhà trường.
Điều 14. Các trường tiểu học, trung học sơ cấp và tương đương cần đưa
nội dung GDQP vào chương trình giảng dạy trong nhà trường, kết hợp các
chương trình, nội dung giảng dạy và học tập trên lớp với các hoạt động dã ngoại
để tiến hành GDQP cho học sinh.
Các trường tiểu học, trung học sơ cấp có thể tổ chức cho học sinh tham gia
các hoạt động của Nhà trường quân sự thiếu niên, trong đó lấy GDQP làm chủ
đề chính.
Các cơ quan hành chính giáo dục, các tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản
chủ nghĩa và các cơ quan, ban, ngành hữu quan cần quan tâm, tạo điều kiện,
thường xuyên tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý chặt chẽ đối với
mọi hoạt động của Nhà trường quân sự thiếu niên.
Các trường tiểu học, trung học sơ cấp căn cứ vào nhu cầu thực tế có thể áp
dụng nhiều hình thức giáo dục khác nhau, như mời người phụ trách thiếu nhi ở
ngoài nhà trường hỗ trợ, giúp đỡ nhà trường tổ chức triển khai các hoạt động
GDQP.
Điều 15. Các trường đại học, cao đẳng, cao đẳng trung học và tương
đương cao đẳng trung học cần kết hợp các chương trình, nội dung giảng dạy và
học tập trên lớp với huấn luyện quân sự dã ngoại để tiến hành GDQP cho học
sinh, sinh viên.
Các trường đại học, cao đẳng cần bố trí nội dung, chương trình GDQP
thích hợp; Các trường cao đẳng trung học và tương đương cao đẳng trung học
cần bố trí nội dung GDQP thành một bộ môn riêng trong chương trình giảng dạy
và học tập của nhà trường; đồng thời có thể triển khai các hoạt động GDQP cho
học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau.
Việc huấn luyện quân sự cho học sinh, sinh viên trong các trường đại học,
cao đẳng, cao đẳng trung học và tương đương cao đẳng trung học do bộ môn
91
huấn luyện quân sự của nhà trường phụ trách hoặc do giáo viên quân sự tổ chức
thực hiện theo quy định của Nhà nước. Cơ quan quân sự các cấp có trách nhiệm
hỗ trợ, giúp đỡ các nhà trường tổ chức huấn luyện quân sự cho học sinh, sinh
viên.
Điều 16. Các nhà trường cần đưa nội dung GDQP vào kế hoạch công tác
và trong chương trình giảng dạy, học tập trong nhà trường; đồng thời áp dụng
các biện pháp hữu hiệu, bảo đảm công tác GDQP đạt chất lượng, hiệu quả.
Việc tổ chức huấn luyện quân sự cho học sinh, sinh viên trong các nhà
trường cần phải áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn.
Điều 17. Nhân viên làm công tác bồi dưỡng, tập huấn và huấn luyện
chuyên trách thuộc các loại hình giáo dục đào tạo cần đưa nội dung GDQP vào
kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn và huấn luyện thường xuyên; đồng thời phải xây
dựng tài liệu, giáo trình GDQP phù hợp.
Nhà nước căn cứ vào yêu cầu tuyển chọn nhân viên phụ trách công tác
GDQP chuyên trách tại các địa phương và các bộ, ngành để cử đi học tập, đào
tạo, bồi dưỡng để bổ sung, hoàn thiện và nâng cao trình độ chuyên môn, kiến
thức quốc phòng tại các nhà trường quân sự.
CHƯƠNG III: Giáo dục quốc phòng trong xã hội
Điều 18. Các cơ quan Nhà nước cần căn cứ vào tình hình thực tế để lựa
chọn các hình thức tiến hành GDQP cho công nhân viên chức phù hợp với đặc
điểm và tính chất công việc của mình.
Nhân viên làm việc trong các cơ quan của Nhà nước cần tích cực học tập,
nắm vững kiến thức quốc phòng cơ bản. Đối với nhân viên công tác trong các cơ
quan Nhà nước về lĩnh vực kiến thiết quốc phòng phải học tập đầy đủ và nắm
vững những kiến thức quốc phòng cơ bản theo chức trách của mình.
Cán bộ lãnh đạo các địa phương, các bộ, ngành căn cứ chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và phạm vi trách nhiệm của mình, có kế hoạch tổ chức, lãnh đạo,
chỉ đạo địa phương mình, bộ ngành mình triển khai kế hoạch, nội dung GDQP.
92
Điều 19. Các nhà máy, xí nghiệp, các đơn vị sự nghiệp cần đưa nội dung
GDQP vào kế hoạch giáo dục công chức; đồng thời thông qua các hoạt động kết
hợp giáo dục chính trị, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ với các hoạt động văn
hoá, văn nghệ, thể dục thể thao để tiến hành GDQP cho công chức.
Các nhà máy, xí nghiệp sự nghiệp, các đơn vị đảm nhiệm các nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học, sản xuất quốc phòng; xây dựng, kiến thiết quốc phòng;
bảo đảm giao thông phục vụ quốc phòng cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ
của mình để xây dựng nội dung, kế hoạch GDQP phù hợp, trong đó cần tập
trung vào GDQP cho công chức.
Các tổ chức đoàn thể xã hội cần triển khai các hình thức, nội dung giáo
dục quốc phòng cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh vực hoạt động.
Điều 20. Quân khu, quân khu tỉnh (quân khu bảo vệ thủ đô26, quân khu
cảnh vệ27), phân khu quân khu28 (quân khu cảnh vệ) và lực lượng vũ trang của
các huyện, huyện tự trị, thị xã, các hạt trực thuộc căn cứ vào các quy định của
Nhà nước và quân đội, kết hợp lồng ghép các hoạt động giáo dục chính trị và
kiện toàn tổ chức, huấn luyện quân sự, thực hiện nghĩa vụ, công tác gọi công
dân nhập ngũ với các hoạt động nhân các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn để tiến hành
GDQP cho dân binh, lực lượng dự bị.
Việc GDQP cho dân binh, lực lượng dự bị phải tập trung trọng điểm
hướng vào đội ngũ dân binh, lực lượng dự bị nắm giữ các vị trí lãnh đạo, lực
lượng dân binh nòng cốt, lực lượng dự bị loại I; đồng thời chủ động xây dựng và
hoàn thiện chế độ chính sách, bảo đảm cho mọi nhân viên đều phải được học tập
và tiếp thu GDQP với đầy đủ nội dung và thời gian học tập.
Điều 21. Uỷ ban nhân dân khối phố, thôn bản cần đưa GDQP thành một
nội dung của xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa ở từng khối phố,
thôn bản; kết hợp công tác gọi công dân nhập ngũ, ủng hộ quân đội ưu đãi gia
26 Tổ chức quân đội làm nhiệm vụ bảo vệ thủ đô vừa thuộc quân khu, vừa là cơ quan quân sự của thành uỷ.27 Tổ chức quân đội ở thành phố thuộc tỉnh vừa thuộc quân khu tỉnh, vừa là cơ quan quân sự của thành uỷ, một số ít trực thuộc quân khu.28 Tổ chức quân đội ở địa phương trực thuộc quân khu tỉnh.
93
đình quân nhân với các hoạt động nhân các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn để tiến
hành GDQP cho mọi công dân.
Uỷ ban nhân dân khối phố, thôn bản có thể mời các cựu quân nhân đã
nghỉ hưu hỗ trợ, giúp đỡ triển khai các hoạt động GDQP.
Điều 22. Các bộ, ngành và các đơn vị làm công tác văn hoá, thông tin,
xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh cần căn cứ tình hình và yêu cầu
nhiệm vụ của bộ, ngành mình và đơn vị mình để triển khai các hình thức GDQP.
Các cơ quan báo chí, các đài phát thanh, truyền hình trung ương, tỉnh,
thành phố, khu tự trị, thành phố, thị xã, trị trấn cần mở các chuyên mục, các
chương trình GDQP để thực hiện phổ cập GDQP toàn dân.
Điều 23. Các khu di tích lịch sử cách mạng, khu tưởng niệm liệt sỹ và
những nơi có chức năng GDQP như nhà bảo tàng; nhà tưởng niệm; nhà trưng
bày thành tựu khoa học, kỹ thuật; cung thanh, thiếu niên cần tạo điều kiện thuận
lợi để mọi công dân được tiếp nhận GDQP; cần có chế độ ưu đãi hoặc miễn phí
hoàn toàn đối với các hoạt động GDQP tập thể; đồng thời mở cửa miễn phí cho
học sinh trung, tiểu học thuộc các cơ sở GDQP như quy định tại Điều 28 của
Luật này tổ chức thăm quan, học tập tập thể; và mở cửa thăm quan miễn phí
nhân ngày GDQP toàn dân.
CHƯƠNG IV: Công tác bảo đảm cho giáo dục quốc phòng
Điều 24. Chính quyền nhân dân các cấp cần đưa nội dung công tác GDQP
vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương; đồng thời căn cứ
vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ GDQP, xây dựng kế hoạch bảo đảm tài chính
cho hoạt động GDQP trong dự toán ngân sách của địa phương.
Điều 25. Các cơ quan Nhà nước, các đơn vị hành chính, sự nghiệp, các tổ
chức đoàn thể xã hội phải xây dựng kế hoạch bảo đảm tài chính cần thiết cho
công tác GDQP trong dự toán ngân sách của cơ quan mình, đơn vị mình; các
nhà máy, xí nghiệp xây dựng kế hoạch bảo đảm tài chính cho công tác GDQP
trong kinh phí giáo dục công chức của đơn vị mình.
94
Kinh phí bảo đảm huấn luyện quân sự cho học sinh, sinh viên của các nhà
trường được thực hiện theo quy định hiện hành của nhà nước.
Điều 26. Nhà nước khuyến khích các tổ chức xã hội và các cá nhân hiến
tặng tài sản, vật chất và tài trợ cho hoạt động GDQP.
Tài sản, vật chất của các cá nhân, các tổ chức xã hội tài trợ cho công tác
GDQP do quỹ GDQP hoặc quỹ của các tổ chức xã hội, quỹ phúc lợi xã hội được
thành lập theo quy định của pháp luật quản lý và sử dụng theo quy định của
pháp luật.
Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức xã hội và các cá nhân cung cấp và
hiến tặng hiện vật đang cất giữ có giá trị đối với GDQP. Các đơn vị tiếp nhận,
khai thác và sử dụng hiện vật phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản; sử dụng
xong phải kịp thời hoàn trả lại.
Điều 27. Kinh phí bảo đảm cho GDQP và tài sản mà các cá nhân, tổ chức
xã hội tài trợ cho GDQP phải được sử dụng vào sự nghiệp GDQP. Nghiêm cấm
mọi đơn vị, cá nhân cắt xén hoặc sử dụng vào mục đích khác.
Điều 28. Những nội dung quy định tại Điều 23 của Luật này có đủ các
điều kiện dưới đây, đã được chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố
trực thuộc phê chuẩn, được gọi là cơ sở GDQP:
1. Có chủ đề nội dung GDQP rõ ràng;
2. Có chế độ quy tắc và cơ cấu quản lý kiện toàn;
3. Có cơ cấu GDQP tương ứng;
4. Có kính phí bảo đảm cần thiết;
5. Có hiệu quả giáo dục xã hội nổi bật.
Các cơ sở giáo dục quốc phòng cần tăng cường xây dựng, không ngừng bổ
sung, hoàn thiện và phát huy đầy đủ chức năng GDQP. Chỉ những nơi có đầy đủ
các điều kiện theo quy định như trên và chỉ sau khi được cấp có thẩm quyền phê
duyệt mới được gọi là cơ sở GDQP.
95
Điều 29. Chính quyền nhân dân các cấp cần tăng cường công tác quy
hoạch, xây dựng và quản lý đối với các cơ sở GDQP; đồng thời cần bảo đảm các
điều kiện cần thiết để phát huy đầy đủ tác dụng, hiệu quả của các cơ sở GDQP.
Chính quyền nhân dân các cấp cần tăng cường công tác thu thập, tôn tạo
và bảo vệ hiện vật có giá trị đối với GDQP.
Điều 30. GDQP toàn dân sử dụng thống nhất Đại cương GDQP. Đại
cương GDQP do cơ quan GDQP Nhà nước ban hành.
Tài liệu, giáo trình GDQP phải bảo đảm phù hợp với từng khu vực, từng
đối tượng. Tài liệu, giáo trình GDQP của các địa phương, các bộ, ngành phải
được biên soạn dựa trên cơ sở của Đại cương GDQP kết hợp với đặc điểm của
từng địa phương, từng bộ, ngành.
Điều 31. Cơ quan GDQP các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan,
các bộ, ngành hữu quan để tổ chức và làm tốt công tác tuyển chọn, bồi dưỡng,
huấn luyện và quản lý đội ngũ nhân viên làm công tác GDQP, không ngừng tăng
cường đội ngũ giáo viên cho sự nghiệp GDQP.
Điều 32. Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc và bộ đội cảnh sát vũ
trang nhân dân Trung Quốc cần căn cứ vào nhu cầu, khả năng để lựa chọn và cử
giáo viên quân sự hỗ trợ, giúp đỡ địa phương nơi đóng quân tổ chức các hoạt
động GDQP, tạo điều kiện về sân bãi, thao trường, các công trình và các điều
kiện khác phục vụ cho huấn luyện quân sự.
Trong các ngày quốc khánh, ngày thành lập Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc và ngày GDQP toàn dân, các đơn vị quân đội sau khi được cấp có
thẩm quyền phê chuẩn có thể mở cửa đón khách. Việc mở cửa tự do tại các đơn
vị quân đội do Uỷ ban Quân sự Trung ương quy định cụ thể.
CHƯƠNG V: Phạm vi trách nhiệm
Điều 33. Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội, các nhà
máy, xí nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp và các tổ chức, đoàn thể xã hội
nếu làm trái với các quy định của Luật này hoặc cố tình không triển khai các
96
hoạt động GDQP, đã được chính quyền nhân dân, các cơ quan bộ ngành hữu
quan hoặc cơ quan cấp trên phê bình, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm, đồng thời
xác định rõ thời gian bắt buộc phải triển khai thực hiện nội dung, kế hoạch
GDQP, mà cố tình không thực hiện, gây ảnh hưởng nghiêm trọng, thủ trưởng cơ
quan chủ quản, cơ quan quản lý trực tiếp có thể tiến hành xử lý hành chính theo
quy định của pháp luật.
Điều 34. Khi phát hiện kinh phí dành cho GDQP bị cắt xén hoặc sử dụng
vào việc khác, hoặc sử dụng trái với các quy định của Luật này, thủ trưởng các
cơ quan, bộ ngành chủ quản có liên quan có trách nhiệm yêu cầu và xác định
thời gian bồi thường, hoàn trả lại; đồng thời tiến hành xử lý hành chính đối với
nhân viên phụ trách thuộc cơ quan chủ quản và các các nhân viên trực tiếp phụ
trách; nếu cấu thành tội phạm, căn cứ mức độ vi phạm có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Điều 35. Các hành vi xâm hại, phá hoại các công trình, cơ sở hoặc làm tổn
hại hiện vật GDQP do các bộ, ngành chủ quản có liên quan phê bình, kiểm điểm
xác định rõ trách nhiệm và xác định thời gian khắc phục hậu quả. Căn cứ mức
độ ảnh hưởng, người phụ trách có liên quan phải chịu trách nhiệm dân sự theo
quy định của pháp luật.
Các hành vi nêu trên, nếu trái với các quy định quản lý trật tự trị an, do cơ
quan công an thụ lý, xử phạt theo quy định của pháp luật; nếu cấu thành tội
phạm, căn cứ mức độ vi phạm có thể truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 36. Các hình vi cố tình khiêu khích, tìm cớ gây sự, gây rối loạn trình
tự hoạt động và công tác GDQP, hoặc lợi dụng danh nghĩa GDQP để biển thủ tài
sản, tiền tài, do bộ ngành chủ quản có liên quan ra quyết định phê bình, giáo dục
và đình chỉ công tác; nếu trái với các quy định quản lý trật tự trị an, do cơ quan
công an thụ lý, xử phạt theo quy định của pháp luật; nếu cấu thành tội phạm, căn
cứ mức độ vi phạm có thể truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 37. Nhân viên Nhà nước làm công tác GDQP nếu xem nhẹ cương vị
công tác của mình, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc vì tư lợi mà làm trái với
97
các quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp
luật; nếu cấu thành tội phạm, căn cứ mức độ vi phạm có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự.
CHƯƠNG VI: Hiệu lực thi hành
Điều 38. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày công bố.
II. QUY ĐỊNH “VỀ ĐÀO TẠO CÔNG DÂN LIÊN BANG NGA THEO
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC QUÂN SỰ TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG QUỐC GIA CỦA BẬC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC” CỦA
CHÍNH PHỦ LIÊN BANG NGA
98
QUY ĐỊNH SỐ 152 CỦA CHÍNH PHỦ LIÊN BANG NGA
“VỀ ĐÀO TẠO CÔNG DÂN LIÊN BANG NGA THEO CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC QUÂN SỰ TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
QUỐC GIA CỦA BẬC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC”
Ngày 06 tháng 03 năm 2008
Theo Điều 6 của Luật Liên bang “về quốc phòng”, Điều 20 khoản 1 và
Điều 35 của Luật Liên bang “về nghĩa vụ quân sự và phục vụ quân đội” và mục
đích nâng cao hiệu quả sử dụng tiềm năng của các cơ sở GDQP quốc gia của
bậc đại học nhằm đảm bảo quốc phòng và an ninh cho đất nước, Chính phủ Liên
bang Nga quyết định:
1. Phê duyệt các quy chế:
Quy chế về các trung tâm đào tạo quân sự trực thuộc các cơ sở giáo dục
Liên bang của đào tạo đại học;
Quy chế về các khoa GDQP (bộ môn quân sự) trực thuộc các cơ sở giáo
dục Liên bang của đào tạo đại học.
2. Công nhận hết hiệu lực:
Quyết định của Hội đồng bộ trưởng - Chính phủ Liên bang Nga ngày 12
tháng 07 năm 1993 N562 “về việc thành lập các bộ môn quân sự và y khoa
trong các cơ sở đào tạo đại học y khoa quốc gia”
(Các văn bản của Tổng thống Liên bang Nga, 1993, N 29, trang 2713);
Quyết định của Chính phủ Liên bang Nga ngày 29 tháng 07 năm 1995
N770 “về hoàn thiện hệ thống đào tạo cán bộ y tế và dược (Luật Liên bang,
1995, N32, trang 3.311);
Quyết định của Chính phủ Liên bang Nga ngày 14 tháng 11 năm 1999,
N1255 “Về đào tạo công dân Liên bang Nga theo chương trình sĩ quan dự bị ở
các bộ môn quân sự thuộc các cơ sở giáo dục đào tạo bậc đại học”
99
(Luật Liên bang Nga, 1999, N47, trang 5.713);
Quyết định của Chính phủ Liên bang Nga ngày 12 tháng 10 năm 2000,
N768 “về đào tạo công dân Liên bang Nga theo chương trình đào tạo sĩ quan dự
bị tại các bộ môn quân sự thuộc các cơ sở đào tạo bậc đại học”
(Luật Liên bang Nga, 2000, N43, trang 4.238);
Quyết định của Chính phủ Liên bang Nga ngày 08 tháng 05 năm 2002,
N296 “về việc đưa vào thay đổi và bổ sung vào quyết định của Chính phủ Liên
bang Nga ngày 12 tháng 10 năm 2000, N768”.
(Luật Liên bang Nga, 2002, N20, trang 1.856).
Thủ tướng LB Nga: V. Zubkov
QUY ĐỊNH VỀ CÁC TRUNG TÂM ĐÀO TẠO QUÂN SỰ THUỘC CÁC
CƠ SỞ GIÁO DỤC NHÀ NƯỚC LIÊN BANG CỦA BẬC ĐẠI HỌC
(được Phê chuẩn bởi Quyết định của Chính phủ Liên bang Nga ngày 6/3/2008,
N152)
1. Tổng quan
1.1. Trung tâm đào tạo quân sự được tạo ra trực thuộc cơ sở giáo dục nhà
nước liên bang của bậc đại học (tiếp theo tương ứng là trung tâm đào tạo quân
sự, trường đại học) nhằm mục đích đào tạo theo chương trình GDQP cho công
dân Liên bang Nga đang học tại cơ sở giáo dục theo hệ đào tạo chính qui (tiếp
theo- công dân), sau khi đã tốt nghiệp cơ sở đào tạo này nhằm gia nhập phục vụ
quân đội theo diện hợp đồng trong lực lượng vũ trang Liên bang Nga và các
quân binh chủng khác, các cơ sở và các cơ quan quân sự khác.
1.2. Các nhiệm vụ cơ bản của trung tâm đào tạo quân sự là:
Thực thi hóa chương trình GDQP cho công dân;
100
Tham gia vào việc tiến hành công tác giáo dục giữa các công dân và công
tác định hướng nghề nghiệp - quân sự cho thế hệ trẻ.
1.3. Đào tạo công dân theo chương trình GDQP tại trung tâm đào tạo quân
sự (tiếp theo - GDQP) được thực hiện trong quá trình đào tạo tại trường đại học
theo chương trình giáo dục cơ bản của trường (tiếp theo - chương trình giáo dục
cơ bản).
GDQP tại các trường đại học y khoa (dược) được thực hiện trong quá
trình giáo dục công dân theo chương trình giáo dục cơ bản và giáo dục liên tục
theo chương trình giáo dục công dân của đào tạo sau đại học tại cơ sở đào tạo y
sau đại học (nội trú) của trường đại học đó.
1.4. GDQP được thực hiện theo trình tự tự nguyện trên cơ sở thỏa thuận
theo mẫu theo phụ lục được ký kết giữa công dân và bộ quốc phòng Liên bang
Nga về đào tạo theo chương trình GDQP tại trung tâm đào tạo quân sự và về
việc gia nhập vào phục vụ quân đội tiếp theo theo diện hợp đồng trong lực lượng
vũ trang Liên bang Nga, các quân binh chủng khác, các cơ sở và cơ quan quân
sự sau khi đã tốt nghiệp trường đại học (tiếp theo - thỏa thuận).
1.5. GDQP là giáo dục có định hướng từ các công dân trong số các sinh
viên học theo ngân sách liên bang, trong phạm vi nhiệm vụ quốc gia về việc tiếp
nhận sinh viên theo các chương trình giáo dục cơ bản.
Số lượng công dân tiếp nhập vào GDQP được bộ giáo dục và khoa học
Liên bang Nga và cơ quan thực thi quyền lực liên bang qui định, được thực hiện
thông qua đại diện toàn quyền ở trường đại học trên cơ sở đặt hàng của bộ quốc
phòng Liên bang Nga.
1.6. Lịch học thông thường của trung tâm đào tạo quân sự được đưa ra bởi
trường đại học, có sự đồng ý của cơ quan thực thi quyền lực, đại diện toàn
quyền của trường đại học này và bộ quốc phòng Liên bang Nga và được hiệu
trưởng trường đại học phê duyệt.
1.7. Bộ Quốc phòng Liên bang Nga:
101
a) Xác định danh mục các chuyên nghành quân sự, theo đó thực hiện
GDQP có tính đến các chuyên nghành theo chương trình giáo dục cơ bản của
trường đại học;
b) Xác định nhu cầu hàng năm của công dân về GDQP và hướng họ đến
các cơ quan thực thi quyền lực liên bang, đại diện toàn quyền của các trường đại
học và các trường đại học mà ở đó có các trung tâm đào tạo quân sự đáp ứng
được các yêu cầu nhiệm vụ quốc gia về tiếp nhận học viên;
c) Đưa ra và thông qua các yêu cầu nghiệp vụ với các học viên ra trường
của trung tâm đào tạo quân sự;
d) Tham gia vào việc đề xuất chương trình GDQP trong các trung tâm đào
tạo quân sự;
e) Phối hợp với trường đại học để lập kế hoạch và tiến hành huấn luyện
(thực tập) chương trình GDQP;
f) Hướng dẫn các đại diện của mình để tiến hành nhận xét tổng kết về
những công dân đã qua GDQP;
g) Thực hiện kiểm tra việc tổ chức GDQP, hoạt động của các trung tâm
đào tạo quân sự và duy trì chế độ bảo mật;
h) Đảm bảo cho các trung tâm đào tạo quân sự về trang thiết bị, kỹ thuật
quân sự và các phương tiện vật chất khác cần thiết để đảm bảo quá trình đào tạo
(tiếp theo - kỹ thuật quân sự);
i) Khi cần thiết thì cấp cơ sở thao trường đào tạo;
j) Tổ chức và đảm bảo sửa chữa, vận chuyển, xếp (bốc dỡ), lắp ráp và hiệu
chỉnh kỹ thuật quân sự;
k) Tổ chức tiến hành các phương sách hoạt động kiểm tra sức khỏe công
dân có ý định muốn gia nhập vào trung tâm đào tạo quân sự và GDQP, với
những công dân đã qua đào tạo quân sự, hoàn tất đào tạo quân sự và tốt nghiệp
đại học và thậm chí là kế hoạch tuyển chọn tâm lý nghề nghiệp trong quá trình
đào tạo theo chương trình giáo dục cơ bản với công dân có ý định tham gia vào 102
đào tạo quân sự;
l) Cùng với bộ giáo dục đào tạo và khoa học Liên bang Nga và các cơ
quan thực thi quyền lực đại diện toàn quyền của các trường đại học, tổ chức và
thực hiện phối hợp việc học tập, bồi dưỡng và giảng dạy của các trung tâm đào
tạo quân sự.
1.8. Bộ quốc phòng Liên bang Nga thực hiện theo thỏa thuận với hiệu
trưởng các trường đại học tương ứng về việc lựa chọn và định hướng quân nhân
phục vụ quân ngũ theo diện hợp đồng vào các trường đại học (mà ở đó có các
trung tâm đào tạo quân sự) để giữ các chức vụ giáo viên của các trung tâm này.
1.9. Bộ giáo dục và khoa học Liên bang Nga và các cơ quan thực thi
quyền lực liên bang thực hiện đại diện toàn quyền của các trường đại học:
a) Xét đến đề nghị của bộ quốc phòng Liên bang Nga về GDQP với các
công dân khi hình thành các nhiệm vụ quốc gia về tiếp nhận học viên với vốn từ
quỹ liên bang về chương trình giáo dục cơ bản;
b) Tạo ra các điều kiện cần thiết để tổ chức GDQP và hình thành phương
pháp tiếp cận duy nhất tới nó;
c) Ngoài việc trang bị kỹ thuật quân sự, còn tham gia vào việc thành lập
cơ sở giáo dục - vật chất cần thiết của các trung tâm đào tạo quân sự;
d) Cùng với bộ quốc phòng Liên bang Nga tổ chức và thực hiện phối hợp
việc học tập, bồi dưỡng và giảng dạy của các trung tâm đào tạo quân sự.
1.10. Hiệu trưởng trường đại học nơi thành lập trung tâm đào tạo quân sự:
a) Tổ chức tiến hành giáo dục quân sự, thành lập và phát triển cơ sở đào
tạo - vật chất cần thiết cho trung tâm, đảm bảo nguyên vẹn cho kỹ thuật quân sự,
và thậm chí là bảo vệ tài liệu mật quốc gia;
b) Đệ trình các đơn lên bộ quốc phòng về việc đảm bảo kỹ thuật quân sự
cho trung tâm đào tạo quân sự;
c) Đảm bảo trung tâm đào tạo quân sự có các khu vực riêng biệt; các
103
phương tiện kỹ thuật tính toán - điện tử, liên lạc, tổ chức kỹ thuật, điều kiện tài
liệu tham khảo và tài liệu thông tin;
c) Tham gia vào việc phối hợp học tập, bồi dưỡng và giảng dạy của các
trung tâm đào tạo quân sự;
d) Tổ chức thảo luận thường xuyên về tình hình công việc trong môi
trường đào tạo quân sự tại các phiên họp của ban giám hiệu và hội đồng khoa
học của trường;
2. Đặc điểm tiếp nhận công dân vào các trung tâm đào tạo quân sự
2.1. Công dân chưa đến tuổi 24 trong quá trình học theo chương trình giáo
dục cơ bản mà có nhu cầu tham gia đào tạo quân sự sẽ phải tiến hành lựa chọn
sơ bộ.
Bộ Quốc phòng Liên bang Nga xác định trình tự tiến hành lựa chọn sơ bộ.
Lựa chọn sơ bộ được tiến hành nhằm mục đích xác định các yêu cầu của
công dân so với luật Liên bang Nga muốn gia nhập phục vụ quân đội theo diện
hợp đồng, để xác định khả năng sử dụng về tình hình sức khỏe phục vụ quân đội
và tiến hành lựa chọn tâm lý nghề nghiệp.
Lựa chọn sơ bộ các ứng viên được thực hiện bởi phòng dân vụ địa phương
nơi công dân cư trú hoặc nơi có trường học, việc lựa chọn được tiến hành theo
trình tự được qui định bởi Bộ Quốc phòng Liên bang Nga.
2.2. Trong số các ứng viên gia nhập đào tạo quân sự, xem xét các công
dân đã qua vòng chọn lọc sơ bộ.
Trình tự chọn các ứng viên trong số các công dân là nữ được xác định bởi
bộ quốc phòng Liên bang Nga với điều kiện rằng chương trình giáo dục quân sự
các công dân này theo chuyên nghành quân sự cụ thể.
2.3. Công dân được vào trường đại học theo quyết định của hiệu trưởng đã
qua tuyển chọn sơ bộ và ký hợp đồng gia nhập vào trung tâm đào tạo quân sự.
2.4. Trường đại học có thể tiến hành tuyển thêm công dân vào GDQP
104
trong số các sinh viên năm thứ 2, thứ 3 của trường này đang theo học hệ chính
qui và đã qua tuyển chọn sơ bộ, số lượng tuyển chọn này bằng số lượng đã bị
đuổi ra khỏi trung tâm đào tào quân sự và thậm chí lớn hơn số lượng mà các cơ
quan thực thi quyền lực quan tâm và đặt hàng.
Trình tự bổ sung thêm được xác định bởi bộ quốc phòng cùng với Bộ
Giáo dục đào tạo và khoa học Liên bang Nga.
3. Hoạt động giáo dục của các trung tâm đào tạo
3.1. Hoạt động giáo dục là dạng hoạt động cơ bản của trung tâm đào tạo
quân sự và bao gồm việc tổ chức và tiến hành việc học tập, bồi dưỡng và giảng
dạy.
3.2. GDQP được tiến hành theo các chuyên nghành quân sự cụ thể tương
ứng với chương trình GDQP.
Các yêu cầu chung của nội dung và tổ chức GDQP trong trung tâm đào
tạo quân sự được thiết lập bởi qui định, bởi văn bản của bộ quốc phòng Liên
bang Nga, Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga và thậm chí là các cơ quan
thực thi quyền lực, đại diện toàn quyền của các trường đại học và điều khoản
của các trường đại học.
Trình tự soạn thảo chương trình GDQP được xác định bởi Bộ Quốc phòng
Liên bang Nga và Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga.
3.3. Chương trình GDQP bao gồm:
a) Yêu cầu nghiệp vụ về chuyên nghành quân sự;
b) Tính toán tổng số giờ theo chương trình đào tạo và phân bổ thời gian
đào tạo;
c) Lịch học tập, chương trình môn học, thực tập, huấn luyện (thực tập) các
công dân và nhận xét tổng hợp về GDQP.
3.4. Thời gian đào tạo quân sự trong chương trình GDQP không nhỏ hơn
1500 giờ.
105
Các buổi học GDQP theo các chuyên ngành quân sự có thể được tiến hành
tại các đơn vị quân đội và các trường giáo dục quân sự của bậc đại học theo
trình tự được xác định bởi Bộ Quốc phòng Liên bang Nga và Bộ Giáo dục và
khoa học Liên bang Nga.
Huấn luyện (thực tập) các công dân tại các đơn vị quân sự nằm trong
chương trình GDQP.
4. Tổ chức và trình tự tiến hành huấn luyện (Luyện tập)
4.1. Huấn luyện (thực tập) là thành phần của GDQP, nhằm đào tạo thực tế
cho các công dân về vận hành, sửa chữa, sử dụng chiến đấu các trang thiết bị vũ
khí và kỹ thuật quân sự, hoàn thiện các kỹ năng chỉ hủy - hướng dẫn, đào tạo
chung và giáo dục thể chất, hoàn thành các bài tập, phương pháp và chuẩn mực
được xác định bởi các điều lệ, bởi chỉ dẫn và hướng dẫn thực hiện các nhiệm vụ
tập luyện chiến đấu và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trong khi thực hiện trách
nhiệm ở cương vị của mình và việc tập trung đào tạo này được thực hiện một lần
trong toàn bộ thời gian GDQP.
Thời lượng của huấn luyện với công dân là 14 ngày, thực tập là 30 ngày.
Với công dân đã qua đào tạo tại trung tâm đào tạo quân sự ở trường đại
học y khoa, thì thời gian của huấn luyện là 30 ngày tại các đơn vị quân đội sau
khi đã kết thúc năm học thứ 4, nhằm mục đích có được các kỹ năng thực tế khi
thực hiện các bài tập y khoa dã ngoại và trợ cứu y tế trong điều kiện dã ngoại.
Không tính thời gian theo dõi công dân khi huấn luyện (thực tập) và
ngược lại.
Bắt đầu huấn luyện được tính từ ngày công dân vào đơn vị quân đội mà ở
đó tiến hành huấn luyện (thực tập), và ngày kết thúc được tính khi công dân ra
khỏi đơn vị này.
4.2.. Bộ Quốc phòng Liên bang Nga:
a) Xác định vị trí và thời gian tiến hành huấn luyện (thực tập) theo thỏa
thuận với hiệu trưởng các trường đại học;
106
b) Thực hiện đảm bảo mọi mặt của việc huấn luyện (thực tập);
c) Thực hiện kiểm tra việc tiến hành huấn luyện (thực tập);
4.3. Trường đại học:
a) Tổ chức lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động tổ chức, học tập, bồi
dưỡng và các hoạt động khác trong thời gian chuẩn bị cho huấn luyện (thực tập);
b) Đưa danh sách công dân sẽ tham gia tập trung đào tạo cho phòng dân
vụ nơi trường đại học đóng và hồ sơ đăng ký quân sự;
c) Gửi các giáo viên chuyên môn của trung tâm đào tạo quân sự đến các
đơn vị quân đội và trả tiền cho họ vào việc tổ chức và tiến hành huấn luyện
(thực tập);
d) Thông báo cho công dân về việc chuyển họ đến huấn luyện (thực tập);
e) Khi cần thiết theo đúng luật Liên bang Nga thì tổ chức tiêm chủng đúng
qui trình trước khi chuyển công dân vào huấn luyện (thực tập);
4.4. Chuyển công dân đến huấn luyện (thực tập) được thực hiện bởi phòng
dân vụ nơi có trường đại học đóng trên cơ sở kế hoạch tiến hành huấn luyện
(thực tập);
4.5. Theo đệ trình của trường đại học, tại phòng dân vụ nơi có trường đại
học sẽ tiến hành tổ chức kiểm tra sức khỏe cho công dân sẽ chuyển đến huấn
luyện (thực tập);
Với những công dân mà chưa qua kiểm tra sức khỏe hoặc có kết quả kiểm
tra sức khỏe không đạt để gia nhập vào huấn luyện (thực tập) và thậm chí là
chưa trả bài thi theo chương trình GDQP thì sẽ không được gửi tới huấn luyện
(thực tập).
4.6. Thanh toán tàu xe cho công dân đến vị trí tiến hành huấn luyện (thực
tập) và chiều ngược lại sẽ được thực hiện bằng quĩ đã được Bộ Quốc phòng xem
xét phê duyệt vào việc giáo dục động viên, bồi dưỡng dự phòng, phương thức
đào tạo tập trung; giá vé tàu xe:
107
a) Đường sắt: toa có chỗ nằm với bất kỳ loại tàu nào;
b) Đường biển: với những vị trí của nhóm thứ 4 các khoang tàu;
c) Đường thủy nội bộ: những vị trí nhóm thứ 3 các khoang tàu (nếu trên
tàu có);
d) Phương tiện ô-tô: trong xe bus dạng chung và thậm chí trong xe bus
không có chỗ ngồi mềm;
e) Phương tiện hàng không: dạng vé phổ thông (economic) của máy bay.
4.7. Huấn luyện (thực tập) được tiến hành tại các đơn vị quân đội có điều
kiện tương ứng để sắp xếp các công dân, đơn vị này có cơ sở vật chất - học tập
cần thiết và có cán bộ có khả năng thực thiện đào tạo công dân theo chương
trình huấn luyện (thực tập).
4.8. Thời gian đào tạo tiến hành thực tập được phân bổ theo phương thức
sau:
- 01 ngày vào thiết bị và tổ chức công việc nội bộ khi đến đơn vị quân sự;
- 24 ngày vào huấn luyện quân sự và công tác giáo dục;
- 01 ngày vào việc bảo dưỡng và trả vũ khí trang bị, kỹ thuật và tài sản.
4.9. Công dân đã qua huấn luyện tại đơn vị quân sự sẽ được phân bổ theo
từng bộ phận, trên cơ sở đó hình thành các trung đội, đại đội (đội pháo).
4.10. Bố trí công dân vào tập trung đào tạo được thực hiện tại các địa điểm
đóng quân thường trú của đơn vị quân đội, trung tâm đào tạo và trại lính.
4.11. Trong toàn bộ thời gian tiến hành tập trung đào tạo, lệnh của chỉ huy
đơn vị quân đội được qui định và giao bởi cơ quan huấn luyện.
4.12. Để lãnh đạo và kiểm tra công dân thì bổ nhiệm một lãnh đạo trong
số các giáo viên chuyên môn.
4.13. Công dân tốt nghiệp huấn luyện (thực tập) báo cáo viết về hoàn
thành chương trình hoặc hoàn thành nhiệm vụ và tạo báo cáo trong đơn vị quân
đội. 108
Công dân không báo cáo viết hoặc không trả thi thì sẽ không cấp bản nhận
xét cuối cùng về huấn luyện quân sự.
4.14. Đảm bảo huấn luyện (thực tập) được tiến hành theo trình tự qui định
bởi Bộ Quốc phòng Liên bang Nga cho các công dân ở diện dự phòng và việc
đảm bảo này được thực hiện nhờ các biện pháp theo chỉ thị của bộ tương ứng
trong quỹ liên bang, nhờ việc hủy bỏ thanh toán toán học bổng cho các công dân
học theo chương trình huấn luyện quân sự và thậm chí là thanh toán các khoản
chi tiêu cho các giáo viên chuyên môn của các trung tâm đào tạo quân sự khi cử
họ đến công tác, liên quan đến việc tổ chức và tiến hành huấn luyện (thực tập).
4.15.. Phổ biến quyền và nghĩa vụ tập huấn với công dân Liên bang Nga
nằm trong diện dự phòng.
Động viên lôi kéo công dân hướng vào huấn luyện (thực tập), cấm thực
hiện các nhiệm vụ khác không liên quan đến việc huấn luyện (thực tập).
4.16.. Việc đuổi công dân ra khỏi huấn luyện (thực tập) được thực hiện
theo trình tự qui định bởi Bộ Quốc phòng Liên bang Nga.
Về nguyên nhân và thời gian đuổi công dân sẽ được thông báo bởi phòng
dân vụ, nơi đã gửi công dân đến huấn luyện (thực tập) và hiệu trưởng trường đại
học tương ứng.
4.17.. Cấm thực hiện gửi lại công dân đến huấn luyện (thực tập).
5. Công dân đã học tập tại trung tâm đào tạo quân sự
5.1. Công dân tốt nghiệp đại học, có bản nhận xét tổng kết về huấn luyện
quân sự, trong đó xác định mức độ huấn luyện lý thuyết và thực hành để thực
hiện các nhiệm vụ nghiệp vụ - quân sự và tính đúng đắn đào tạo các yêu cầu
nghiệp vụ với những học viên tốt nghiệp trung tâm đào tạo quân sự.
Trình tự tiến hành nhận xét tổng kết về huấn luyện quân sự được xác định
bởi bộ quốc phòng và bộ giáo dục và khoa học Liên bang Nga.
Các công dân đã có bản nhận xét tổng kết về GDQP, tốt nghiệp trường đại
học và ký kết hợp đồng về gia nhập phục vụ quân ngũ, sẽ được phong quân hàm 109
sĩ quan.
5.2. Các cơ sở đuổi công dân khỏi trung tâm đào tạo quân sự là:
a) Đuổi công dân khỏi trường đại học;
b) Không thực hiện các điều kiện thỏa thuận của bản hợp đồng;
c) Vô ý thức tổ chức kỷ luật, không theo học kịp hay không muốn học;
d) Vi phạm điều khoản, quy định của trường đại học hoặc nội quy của
trường;
e) Không đáp ứng được yêu cầu theo quy định của Luật Liên bang Nga về
chuyên ngành quân sự, trong đó về tình trạng sức khỏe (trên cơ sở kết luận của
hội đồng bác sỹ-quân y của phòng dân vụ);
f) Không thể tiếp tục huấn luyện quân sự do một số nguyên nhân khách
quan (theo mong muốn của công dân);
g) Đề xuất của bộ quốc phòng Liên bang Nga trong trường hợp công dân
không thể tiếp tục chương trình GDQP do một số nguyên nhân khách quan từ
Bộ Quốc phòng;
5.3. Công dân bị đuổi ra khỏi trung tâm đào tạo quân sự trên cơ sở các tiểu
mục “c” và “d” mục 37 của Quy định này, và thậm chí là những công dân đã từ
chối ký kết hợp đồng gia nhập phục vụ quân đội sẽ đền bù tiền giáo dục đào tạo.
5.4. Công dân hoàn thiện xong GDQP tại các trường đại học, theo trình tự
quy định sẽ ký kết hợp đồng về gia nhập phục vụ quân đội với Bộ Quốc phòng
Liên bang Nga hoặc với các cơ quan thực thi quyền lực Liên bang có trách
nhiệm xem xét việc phục vụ quân ngũ.
6. Nhân viên của Trung tâm đào tạo quân sự
6.1. Trong trung tâm đào tạo quân sự, xem xét chức vụ của giáo viên
nghiệp vụ, nhân viên kỹ sư - kỹ thuật, trợ lý đào tạo và nhân viên khác.
6.2. Các chức vụ liên quan đến giáo viên nghiệp vụ của trung tâm đào tạo
quân sự là: Giám đốc trung tâm đào tạo quân sự, phó giám đốc trung tâm,
110
trưởng phòng và phó phòng, tổ trưởng - giáo viên giàu kinh nghiệm, giáo sư,
phó giáo sư, giáo viên.
6.3. Trình tự thay thế các chức vụ của nhân viên trung tâm đào tạo quân sự
được thiết lập cùng với Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục đào tạo Liên bang Nga.
6.4. Thay thế chức vụ giáo viên nghiệp vụ của trung tâm đào tạo quân sự
được tiến hành theo lịch thông thường của giáo viên; với quân nhân gửi đến
trường đại học; với công dân nằm trong diện dự bị mà đã được phong quân hàm.
7. Nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên Trung tâm đào tạo quân sự
7.1. Việc nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên chuyên môn của các trung tâm
đào tạo quân sự được tiến hành tại các trường đại học quân sự (các trường
nghiệp vụ của Bộ Quốc phòng Liên bang Nga) hoặc theo thỏa thuận với hiệu
trưởng các trường đạo học nơi có trung tâm đào tạo quân sự.
Nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên của các trung tâm đào tạo quân sự được
thực hiện trong phạm vi cần thiết, nhưng không ít hơn 1 lần trong vòng 5 năm.
Các sĩ quan lần đầu tiên thay thế chức vụ giáo viên chuyên môn, sau một
năm sẽ gửi sang bồi dưỡng chuyên tu nghiệp vụ tại các trường nghiệp vụ của Bộ
Quốc phòng Liên bang Nga.
7.2. Thực tập của giáo viên chuyên môn của trung tâm đào tạo quân sự
được tiến hành tại các quân bình chủng và các trường đại học, trong số đó trực
thuộc Bộ Quốc phòng Liên bang Nga và thậm chí là tại các cuộc diễn tập và thử
nghiệm vũ khí và trang thiết bị kỹ thuật.
8. Điều hành hoạt động của Trung tâm đào tạo quân sự
8.1. Chỉ huy chung đào tạo quân sự được thực hiện bởi hiệu trưởng trường
đại học, đại diện toàn quyền của trường này được xác định bởi quy định hiện
thời và nội quy điều lệ của trường đại học.
8.2. Quản lý trực tiếp hoạt động của trung tâm đào tạo quân sự được thực
hiện bởi giám đốc trung tâm đào tào quân sự. Giám đốc trung tâm sẽ tổ chức
công việc học tập, hướng dẫn và giáo dục, đào tạo ngành nghề, nâng cao nghiệp 111
vụ cho các cán bộ của trung tâm đào tạo quân sự, phát triển và hoàn thiện cơ sở
vật chất - giáo dục của trung tâm đào tạo.
8.3. Giám đốc trung tâm đào tạo quân sự phải tuân thủ trực tiếp sự điều
hành của hiệu trưởng trường đại học về các vấn đề tuân thủ qui luật vận hành,
đảm bảo duy trì thiết bị kỹ thuật, tổ chức đào tạo cho công dân theo chương
trình GDQP, bản nhận xét cuối cùng, ký kết hợp đồng về gia nhập quân đội, xác
định bổ nhiệm chức vụ, nâng cao nghiệp vụ cho các nhân viên.
Quyền và nghĩa vụ của giám đốc trung tâm đào tạo quân sự được xác định
bởi Quy định về điều lệnh quân đội của lực lượng vũ trang Liên bang Nga và
điều lệ quy định của trường đại học.
Cấp cho giám đốc trung tâm đào tạo quân sự quyền ký các tài liệu công
việc trong giới hạn quyền cho phép.
8.4. Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga quy định
danh mục các tài liệu báo cáo, tài liệu được chuẩn bị và đưa ra tại trung tâm đào
tạo quân sự, tài liệu về lập kế hoạch và tổ chức tiến hành hoạt động giáo dục,
thống kê về việc đi học của công dân, thống kê bảo dưỡng trang thiết bị kỹ
thuật.
9. Kiểm tra hoạt động của Trung tâm đào tạo quân sự
Việc kiểm tra việc tổ chức hoạt động của trung tâm đào tạo quân sự và
tiến hành GDQP được thực hiện bởi các hội đồng của Bộ Quốc phòng Liên bang
Nga theo kế hoạch kiểm tra đã thỏa thuận với Bộ Giáo dục đào tạo và khoa học
Liên bang Nga và kế hoạch đã được Bộ Quốc phòng Liên bang Nga phê chuẩn
theo trình tự phối hợp giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục và khoa học Liên
bang Nga.
10. Cơ sở vật chất – học tập của Trung tâm đào tạo quân sự
10.1. Trong các trường đại học, mà ở đó có các trung tâm đào tạo quân sự
và khoa giáo dục quốc phòng (bộ môn quân sự) có thể tạo ra cơ sở vật chất - học
tập duy nhất cho GDQP.
112
10.2. Khi bố trí trung tâm đào tạo quân sự, phải đảm bảo trung tâm này
nằm cách biệt với các khu vực khác của trường đại học, có thể tổ chức và duy trì
nội quy theo các yêu cầu của điều lệnh quân đội của lực lượng vũ trang Liên
bang Nga.
11. Đảm bảo tài chính và vật chất – kỹ thuật đào tạo công dân tại
trung tâm đào tạo quân sự
11.1. Việc đảm bảo tài chính đào tạo công dân tại trung tâm đào tạo quân
sự, ngoài việc huấn luyện (thực tập) sẽ được thực hiện bởi các cơ quan thực thi
quyền lực liên bang, đại diện toàn quyền của các trường đại học trong phạm vi
mức độ đảm bảo đã được xem xét trong quĩ liên bang vào mục đích này.
11.2. Việc đảm bảo vật chất - kỹ thuật cho hoạt động của trung tâm đào
tạo quân sự được thực hiện bởi Bộ Quốc phòng Liên bang Nga trong phạm vi
mức độ đảm bảo đã được Bộ Quốc phòng xem xét trong quĩ liên bang vào mục
đích này./.
QUY ĐỊNH VỀ CÁC KHOA GIÁO DỤC QUÂN SỰ
(BỘ MÔN QUÂN SỰ) THUỘC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
(Theo Quyết định của Chính phủ Liên bang Nga ngày 6/3/2008 N152)
1. Tổng quan
113
1.1. Khoa giáo dục quân sự (bộ môn quân sự) được thành lập trực thuộc
trường đại học (tiếp theo trường đại học) với mục đích nhằm đào tạo theo
chương trình GDQP của các sĩ quan dự bị cho các công dân Liên bang Nga đang
học tập tại trường đại học đó theo diện chính qui về chương trình giáo dục cơ
bản của bậc đại học (tiếp theo tương ứng là công dân, các chương trình giáo dục
cơ bản).
Trong các trường đại học sẽ thành lập khoa giáo dục quân sự bao gồm một
số bộ môn quân sự theo qui định, nhằm mục đích thực hiện đào tạo sĩ quan dự bị
theo chuyên nghành quân sự với các dạng khác nhau.
1.2. Nhiệm vụ cơ bản của khoa giáo dục quân sự (bộ môn quân sự) (tiếp
theo bộ môn quân sự) là:
- Thực hiện chương trình GDQP sĩ quan dự bị tại các bộ môn quân sự theo
các chuyên nghành quân sự (tiếp theo - GDQP);
- Tham gia vào việc tiến hành công tác giáo dục và công tác định hướng
nghành nghề quân sự cho thế hệ trẻ.
1.3. Tại chi nhánh của trường đại học, cho phép thực hiện GDQP ở bộ
môn quân sự, nếu tại cơ sở của chi nhánh có bố trí một trong số các bộ môn
quân sự và có cơ sở vật chất - đào tạo riêng.
1.4. GDQP của công dân được thực hiện trong quá trình đào tạo tại trường
đại học theo chương trình giáo dục cơ bản trên cơ sở hợp đồng về phụ lục ký kết
giữa công dân và Bộ Quốc phòng Liên bang Nga về đào tạo theo chương trình
GDQP tại bộ môn quân sự (tiếp theo - hợp đồng).
Số lượng công dân tham gia GDQP được qui định bởi Bộ Giáo dục và
khoa học Liên bang Nga và cơ quan thực thi quyền lực Liên bang, đại diện toàn
quyền của trường đại học này, trên cơ sở đặt hàng của Bộ Quốc phòng Liên
bang Nga.
1.5. Lịch thông thường của bộ môn quân sự được đưa ra bởi trường đại
học, có sự đồng ý của cơ quan thực thi quyền lực liên bang, đại diện toàn quyền
114
của trường đại học này và Bộ Quốc phòng Liên bang Nga và được hiệu trưởng
phê duyệt.
1.6. Bộ Quốc phòng Liên bang Nga:
a) Xác định danh mục các chuyên nghành quân sự cần thực hiện GDQP có
tính đến các chuyên nghành theo chương trình giáo dục cơ bản của trường đại
học;
b) Hàng năm, xác định nhu cầu của công dân muốn tham gia GDQP và
gửi đến Bộ Giáo dục đào tạo và khoa học Liên bang Nga, đến các cơ quan thực
thi quyền lực liên bang, đại diện toàn quyền của các trường đại học và các
trường đại học được đề xuất;
c) Phối hợp với Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga và các cơ quan
thực thi quyền lực liên bang, đại diện toàn quyền của các trường đại học cùng
soạn thảo và thông qua chương trình GDQP theo các chuyên nghành quân sự;
d) Tổ chức tiến hành kết hoạch kiểm tra sức khỏe công dân muốn tham gia
GDQP, với công dân đã hoàn tất GDQP và đã tốt nghiệp các trường đại học và
thậm chí là kế hoạch tuyển chọn tâm lý nghề nghiệp những công dân muốn tham
gia GDQP;
e) Tổ chức tiến hành chọn lọc các công dân muốn tham gia GDQP, ký kết
hợp đồng với các công dân đã qua khâu tuyển chọn;
f) Theo thỏa thuận với hiệu trưởng các trường đại học tương ứng, tiến
hành lựa chọn và định hướng quân nhân phục vụ quân đội theo diện hợp đồng
và công dân trong diện dự bị, công dân không giữ chức vụ quân đội là giáo viên
các bộ môn quân sự trực thuộc các trường đại học;
g) Cùng với trường đại học, lập kế hoạch và tổ chức tiến hành tập huấn và
thực tập chương trình GDQP đã xem xét trước (tiếp theo - tập huấn), và thậm
chí tiến hành nhận xét tổng kết công dân GDQP;
115
h) Đảm bảo vũ khí trang bị, kỹ thuật quân sự, và các phương tiện vật chất
khác cho bộ môn quân sự để đảm bảo quá trình đào tạo (tiếp theo - kỹ thuật
quân sự);
k) Khi cần thiết, bố trí và cấp thao trường huấn luyện;
l) Tổ chức và đảm bảo sửa chữa, vận chuyển, xếp (dỡ), lắp ráp và hiệu
chỉnh kỹ thuật quân sự và trang thiết bị quân sự cho bộ môn quân sự;
m) Cùng với Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga và các cơ quan thực
thi quyền lực liên bang, đại diện toàn quyền của các trường đại học, tiến hành tổ
chức và thực hiện phối hợp các công việc đào tạo, hướng dẫn, giáo dục;
n) Thực hiện kiểm tra hoạt động của bộ môn quân sự theo qui định.
1.7. Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga và các cơ quan thực thi
quyền lực liên bang, đại diện toàn quyền các trường đại học:
a) Tạo các điều kiện cần thiết để tổ chức GDQP và hình thành các phương
thức tiếp cận duy nhất tới việc GDQP này;
b) Tham gia vào việc soạn thảo chương trình GDQP theo các chuyên
ngành quân sự;
c) Ngoài việc trang bị trang thiết bị kỹ thuật quân sự, tham gia vào việc
thành lập cơ sở vật chất - đào tạo cần thiết của các bộ môn quân sự;
d) Cùng với Bộ Quốc phòng Liên bang Nga, tổ chức và thực hiện phối
hợp hoạt động của các bộ môn quân sự.
1.8. Hiệu trưởng trường đại học nơi thành lập bộ môn quân sự:
a) Tổ chức tiến hành GDQP, thành lập và phát triển cơ sở vật chất - học
tập cần thiết cho bộ môn quân sự, đảm bảo giữ gìn kỹ thuật quân sự và thậm chí
là bảo vệ tài liệu mật quốc gia;
b) Đề nghị đơn lên bộ quốc phòng Liên bang Nga về việc đảm bảo kỹ
thuật quân sự cho bộ môn quân sự;
116
c) Đảm bảo cho bộ môn quân sự các khu vực riêng biệt, các phương tiện
kỹ thuật điện - tính toán, thông tin liên lạc, phương tiện kỹ thuật, và các tài liệu
hướng dẫn tài liệu thông tin;
d) Tham gia vào việc phối hợp công việc đào tạo, hướng dẫn và giáo dục
của bộ môn quân sự;
e) Tổ chức thảo luận thường xuyên tình hình công việc trong môi trường
GDQP ở các phiên họp ban giám đốc và hội đồng khoa học của trường đại học
đó.
2. Đặc điểm tuyển chọn công dân để tiến hành giáo dục quốc phòng
tài bộ môn quân sự
2.1. Công dân chưa đến 30 tuổi muốn tham gia GDQP trong quá trình học
tập theo chương trình cơ bản sẽ phải tiến hành lựa chọn trên cơ sở thi tuyển.
2.2. Bộ Quốc phòng Liên bang Nga cùng với Bộ Giáo dục và khoa học
Liên bang Nga và các cơ quan thực thi quyền lực, đại diện toàn quyền các
trường đại học sẽ xác định trình tự tiến hành thi tuyển công dân vào GDQP và
trình tự thành lập hội đồng thi tuyển.
2.3. Thi tuyển gồm tuyển chọn sơ bộ và tuyển chọn cơ bản.
Tuyển chọn sơ bộ bao gồm xác định yêu cầu tương ứng của công dân
trước các chuyên nghành quân sự cụ thể, hội đồng quân y sẽ tiến hành kiểm tra
sức khỏe để xác định khả năng dùng được sức khỏe phục vụ quân đội, tiến hành
tuyển chọn tâm lý nghề nghiệp.
Tuyển chọn cơ bản được tiến hành bởi hội đồng thi tuyển, hội đồng sẽ
chọn các công dân trong số đã qua tuyển chọn sơ bộ, trên cơ sở hướng dẫn của
Bộ Quốc phòng đã thống nhất với Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga và
thống nhất với các cơ quan thực thi quyền lực liên bang, đại diện toàn quyền của
các trường đại học.
2.4. Trình tự chọn lọc các ứng viên trong số công dân là nữ được xác định
bởi Bộ Quốc phòng LB Nga và với các cơ quan thực thi quyền lực liên bang có
117
trách nhiệm xem xét việc phục vụ quân đội, trong điều kiện việc đào tạo được
xem xét bởi chương trình GDQP theo chuyên nghành quân sự cụ thể.
2.5. Công dân đã qua tuyển chọn, trên cơ sở quyết định của hội đồng
tuyển chọn sẽ ký kết hợp đồng, theo chỉ thị của hiệu trưởng trường đại học sẽ
cho phép công dân tham gia GDQP.
3. Hoạt động giáo dục của bộ môn quân sự
3.1. Hoạt động giáo dục là dạng hoạt động cơ bản trong hoạt động của bộ
môn quân sự, hoạt động này bao gồm tổ chức và tiến hành công việc đào tạo,
hướng dẫn, giáo dục.
3.2. GDQP được tiến hành theo các chuyên nghành quân sự cụ thể tương
ứng với các chương trình GDQP.
Yêu cầu chung về nội dung và tổ chức GDQP theo Qui định hiện hành,
văn bản của bộ quốc phòng và bộ giáo dục và khoa học của Liên bang Nga, văn
bản của các cơ quan thực thi quyền lực đại diện toàn quyền của các trường đại
học và theo nội qui của trường đại học.
Trình tự soạn thảo chương trình GDQP được xác định bởi Bộ Quốc phòng
và Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga.
3.3. Chương trình GDQP bao gồm:
a) Yêu cầu nghiệp vụ theo chuyên nghành quân sự đã định;
b) Tính toán chung số giờ theo chương trình đào tạo và phân bổ thời gian
học;
c) Lịch học tập, chương trình các môn học, thực tập, huấn luyện, và nhận
xét tổng kết về GDQP.
3.4. Khi GDQP, có 450 giờ học trên lớp và 144 giờ học huấn luyện.
3.5. Huấn luyện được tiến hành theo qui định, khi kết thúc học kỳ cuối
cùng tại bộ môn quân sự ở các đơn vị quân sự phải vào mùa hè.
118
3.6. Các buổi học ở bộ môn quân sự được tiến hành một cách nguyên tắc
bằng phương pháp “ngày quân sự” với thời lượng là 9 giờ, trong đó có 6 giờ lên
lớp, 2 giờ tự ôn và 1 giờ vào công tác tổ chức và giáo dục, luyện tập.
3.7. Các công dân học tập các môn học theo chương trình GDQP và được
tiến hành trên cơ sơ kiến thức nhận được từ các chuyên ngành nhằm đạt được
trình độ nghiệp vụ “chuyên gia” hoặc trình độ nghiệp vụ “thạc sỹ”.
4. Tổ chức và trình tự tiến hành huấn luyện
4.1. Huấn luyện là phần cơ bản của GDQP, huấn luyện nhằm mục đích để
đào tạo thực tế công dân trong việc vận hành, sửa chữa, sử dụng vũ khí chiến
đấu và kỹ thuật quân sự, hoàn thiện kỹ năng chỉ huy - hướng dẫn và kỹ năng làm
việc hướng dẫn, giáo dục quân sự chung và giáo dục thể chất, thực hiện các bài
tập, tiếp nhận và chuẩn hóa theo các qui định qui tắc và hướng dẫn thực hiện các
nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu và đạt được kinh nghiệm trong việc thực hiện
nhiệm vụ trên cương vị được giao và huấn luyện chỉ được tiến hành 1 lần trong
toàn bộ thời gian học.
Thời lượng huấn luyện là 30 ngày
Thời gian theo dõi công dân trong huấn luyện và ngược lại đều không
được tính.
Bắt đầu huấn luyện được tính từ ngày đến đơn vị nơi diễn ra huấn luyện,
và kết thúc được tính từ ngày công dân rời khỏi đơn vị quân sự này.
4.2. Bộ Quốc phòng Liên bang Nga:
a) Theo thỏa thuận với hiệu trưởng các trường đại học, xác định vị trí và
thời gian tiến hành huấn luyện;
b) Thực hiện đảm bảo mọi mặt cho việc huấn luyện;
c) Thực hiện kiểm tra việc tiến hành huấn luyện.
4.3. Trường đại học:
119
a) Tổ chức lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động tổ chức, học tập, giáo
dục và các hoạt động khác trong thời gian chuẩn bị huấn luyện;
b) Đưa danh sách các công dân sẽ gửi đến huấn luyện quân sự và hồ sơ
đăng ký quân sự cho phòng dân vụ địa phương nơi có trường đại học đóng;
c) Gửi giáo viên chuyên môn của bộ môn quân sự đến các đơn vị quân đội
và trả tiền công tác cho họ, các chi phí có liên quan đến tổ chức và tiến hành
huấn luyện;
d) Thông báo cho công dân biết về gửi họ đi huấn luyện;
e) Khi cần thiết, tổ chức tiêm chủng cho công dân trước khi gửi họ đi huấn
luyện.
4.4. Gửi công dân đi huấn luyện được tiến hành bởi phòng dân vụ nơi có
trường đại học đóng trên cơ sở các kế hoạch tiến hành huấn luyện.
4.5. Theo đề xuất của trường đại học, ở phòng dân vụ nơi có trường đại
học đóng sẽ tiến hành tổ chức kiểm tra sức khỏe cho những công dân sẽ gửi đi
huấn luyện.
Công dân không qua kiểm tra sức khỏe hoặc có kết quả kiểm tra sức khỏe
không đạt hoặc không trả các bài thi theo chương trình GDQP sẽ không được
gửi đi huấn luyện.
4.6. Việc thanh toán tàu xe cho công dân đến vị trí tiến hành huấn luyện
và theo chiều ngược lại được tiến hành nhờ vào quĩ đảm bảo đã được Bộ Quốc
phòng Liên bang Nga xem xét vào việc huấn luyện động viên, bồi dưỡng dự bị
và các hoạt động huấn luyện - đào tạo, tiền tàu xe:
a) Giao thông đường sắt - trong toa có chỗ nằm bất kỳ loại tàu nào;
b) Giao thông đường biển - ghế nhóm IV khoang tàu của các tuyến đường;
c) Phương tiện đường thủy nội bộ - ghế nhóm III khoang tàu của các lộ
trình (nếu có trên tàu);
120
d) Phương tiện ô-tô trong xe bus (dạng chung), nếu không có thì trong xe
bus có ngồi mềm;
e) Phương tiện hàng không - ghế hạng economic của máy bay.
4.7. Huấn luyện được tiến hành tại các đơn vị quân đội có đủ điều kiện bố
trí cho công dân, có cơ sở vật chất - học tập cần thiết và cán bộ có khả năng đào
tạo công dân theo chương trình huấn luyện.
4.8. Thời gian học tập (thời lượng học) khi huấn luyện được xác định theo
phương thức sau:
01 ngày vào trang thiết bị và tổ chức công việc nội bộ khi đến đơn vị quân
sự;
24 ngày cho GDQP và công việc giáo dục;
01 ngày cho việc bảo dưỡng bảo trì và trả vũ khí, kỹ thuật và tài sản.
4.9. Các công dân đến để huấn luyện tại đơn vị quân đội được bố trí theo
các chi nhánh (theo tính toán, theo ê-kip), trên cơ sở đó hình thành các trung đội,
đại đội (đội pháo).
4.10. Việc bố trí công dân vào huấn luyện được thực hiện tại các địa điểm
đóng quân thường trú của đơn vị quân đội, của các trung tâm đào tạo hay của
các trại lính.
4.11. Cơ quan quân chính của huấn luyện qui định mệnh lệnh của người
chỉ huy đơn vị quân đội trong toàn bộ thời gian tiến hành huấn luyện.
4.12. Các công dân tốt nghiệp trường đại học, kết thúc huấn luyện sẽ có
bản nhận xét tổng kết về GDQP tại đơn vị quân đội, trong đó xác định mức độ
đào tạo lý thuyết và thực hành để thực hiện nhiệm vụ nghiệp vụ quân sự và các
yêu cầu nghiệp vụ với học viên tốt nghiệp bộ môn quân sự.
Bản nhận xét tổng kết có thể được thực hiện tại trường đại học.
Khi tiến hành nhận xét tổng kết phải bỏ ra ít nhất là 4 ngày (2 đến 3 ngày
để chuẩn bị, từ 1 đến 2 ngày để trả thi).
121
Không được tính thời gian cho việc tiến hành nhận xét tổng kết vào thời
gian học huấn luyện.
4.13. Trong các trường hợp xem xét chương trình GDQP, việc thực tập
của công dân tại các đơn vị quân đội được tiến hành theo qui định của Bộ Quốc
phòng Liên bang Nga.
Để chỉ đạo và kiểm tra việc thực tập của công dân, thì bộ môn quân sự sẽ
bổ nhiệm chỉ huy thực tập trong số các thành viên giáo viên nghiệp vụ.
4.14. Công dân kết thúc thực tập sẽ báo cáo bằng văn bản về thực hiện
chương trình và nhiệm vụ cá nhân và trả thi tại đơn vị quân đội nơi tiến hành
thực tập.
Công dân không trả thi hoặc không báo cáo bằng văn bản thì sẽ không cho
nhận xét tổng kết về GDQP.
4.15. Việc đảm bảo huấn luyện được tiến hành theo qui định của Bộ Quốc
phòng cho việc huấn luyện công dân Liên bang Nga trong diện dự bị và việc
đảm bảo này được thực hiện bằng quỹ đã được Bộ Quốc phòng xem xét trước
đó vào mục đích này, ngoài việc trả học bổng cho công dân còn trả tiền cho giáo
viên nghiệp vụ của bộ môn quân sự khi gửi họ đi công tác.
4.16. Mở rộng quyền và nghĩa vụ với công dân gửi đi huấn luyện mà nằm
trong diện dự bị.
Khuyến khích công dân vào việc huấn luyện, còn cấm thực hiện những
nhiệm vụ khác không liên quan đến huấn luyện.
4.17. Việc đuổi công dân ra khỏi huấn luyện được thực hiện theo qui định
của Bộ Quốc phòng Liên bang Nga.
Phòng quân vụ nơi gửi công dân đến huấn luyện, hiệu trưởng trường đại
học tương ứng sẽ thông báo về nguyên nhân và thời gian đuổi công dân.
4.18. Không được gửi lại công dân ra huấn luyện.
5. Công dân đào tạo tại bộ môn quân sự
122
5.1. Quyền và nghĩa vụ của công dân tham gia GDQP được xác định theo
Quy định hiện hành, điều lệ của trường đại học và nội quy của trường đó, thậm
chí là quy định bởi thỏa thuận đã ký kết.
5.2. Công dân GDQP được trả thêm học bổng với các mức sau:
- 15% số tiền học bổng theo quy định với những công dân không qua phục
vụ quân đội theo diện gọi nhập ngũ;
- 25% số tiền học bổng theo quy định với những công dân đã qua vục vụ
quân ngũ theo diện hợp đồng.
Thanh toán thêm tiền học bổng được tiến hành mỗi lần/tháng.
5.3. Lập kế hoạch xuất tiền cần thiết cho việc thanh toán học bổng bổ sung
cho công dân được thực hiện bởi trường đại học theo luật của Liên bang Nga
trong phạm vi kinh phí dự trù chung của trường.
5.4.. Khi tính vào diện dự phòng, phong hàm sĩ quan cho công dân tốt
nghiệp đại học và có bản nhận xét tổng kết về GDQP.
5.5. Các cơ sở để đuổi học công dân khỏi bộ môn quân sự là:
a) Đuổi công dân khỏi trường đại học;
b) Không thực hiện các điều kiện của hợp đồng;
c) Vi phạm quy định của trường đại học, nội quy của trường hoặc qui tắc
của bộ môn quân sự;
d) Không đạt được các yêu cầu theo Luật Liên bang Nga về chuyên ngành
quân sự, trong đó là tình trạng sức khỏe (trên cơ sở kết luận của hội đồng quân y
của phòng quân vụ);
e) Không thể tiếp tục GDQP do một số nguyên nhân khách quan (do mong
muốn của công dân);
f) Đề xuất của Bộ Quốc phòng trong trường hợp công dân không thể tiếp
tục GDQP do một số nguyên nhân khách quan.
123
5.6. Trong trường hợp đuổi học công dân khỏi bộ môn quân sự, không cho
phép ký lại hợp đồng với công dân này;
5.7. Trong trường hợp đuổi công dân đang tham gia GDQP ra khỏi trường
đại học, chuyển công dân sang trường khác theo đơn đề nghị của trường hiện
thời, sẽ có bản báo cáo về các danh mục môn học theo chương trình GDQP,
trong đó có số giờ học tập, kết quả nhận xét trung gian.
6. Cán bộ của bộ môn quân sự
6.1. Ở bộ môn quân sự có xét đến chức vụ giáo viên nghiệp vụ, nhân viên
kỹ thuật, nhân viên sản xuất và trợ lý giảng dạy.
Chức vụ liên quan đến giáo viên nghiệp vụ là lãnh đạo, phó lãnh đạo
khoa, lãnh đạo và phó lãnh đạo bộ môn, giáo viên giàu kinh nghiệm, giáo sư,
phó giáo sư.
6.2. Trình tự thay chức vụ các nhân viên của bộ môn được thực hiện theo
qui định của Luật Liên bang Nga và các văn bản của Bộ Quốc phòng và Bộ
Giáo dục và khoa học Liên bang Nga.
6.3. Thay thế chức vụ của giáo viên nghiệp vụ của bộ môn quân sự được
tiến hành tương ứng với lịch thông thường của họ:
- Quân nhân gửi sang trường đại học;
- Công dân nằm trong diện dự bị của lực lượng vũ trang Liên bang Nga
mà có hàm sĩ quan.
7. Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ của bộ môn quân sự
7.1. Việc nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên nghiệp vụ của bộ môn quân sự
được thực hiện tại các trường đại học quân sự (trường đại học bổ sung ngành
nghề của Bộ Quốc phòng Liên bang Nga) hoặc theo thỏa thuận với hiệu trưởng
các trường nơi có các bộ môn quân sự, hoặc tại các trường bổ sung ngành nghề
khác.
Nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên nghiệp vụ của bộ môn quân sự được
124
thực hiện ở mức độ cần thiết, tuy nhiên không ít hơn 1 lần trong 5 năm.
Sỹ quan lần đầu tiên thay chức vụ giáo viên nghiệp vụ, sau 1 năm sẽ được
gửi đi bổ túc nghiệp vụ tại các trường bổ sung ngành nghề của Bộ Quốc phòng
Liên bang Nga.
7.2. Thực tập của giáo viên nghiệp vụ của bộ môn quân sự được thực hiện
tại các quân binh chủng, tại các trường đại học, trong số đó có trực thuộc dưới
Bộ Quốc phòng Liên bang Nga và thậm chí là tại các cuộc tập trận và thử
nghiệm vũ khí, kỹ thuật quân sự.
8. Quản lý hoạt động của bộ môn quân sự
8.1. Hiệu trưởng trường đại học thực hiện lãnh đạo chung việc GDQP, đại
diện toàn quyền của trường này được xác định theo quy định và điều lệ của
trường đó.
8.2. Lãnh đạo bộ môn quân sự quản lý trực tiếp hoạt động của bộ môn
quân sự, và sẽ tổ chức công việc học tập, hướng dẫn, giáo dục, đào tạo nghiệp
vụ và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ của bộ môn quân sự, phát triển và hoàn
thiện cơ sở vật chất - đào tạo của bộ môn quân sự.
8.3. Lãnh đạo bộ môn quân sự tuân thủ trực tiếp hiệu trưởng trường đại
học; còn về các vấn đề tuân thủ qui tắc, vận hành, đảm bảo giữ gìn, kỹ thuật
quân sự, tổ chức đào tạo công dân theo chương trình GDQP, nhận xét tổng kết,
nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thì lãnh đạo bộ môn tuân thủ trực tiếp người đại
diện chuyên trách toàn quyền của Bộ Quốc phòng Liên bang Nga.
Quyền và nghĩa vụ của lãnh đạo bộ môn quân sự được xác định theo quy
định hiện hành, điều lệnh quân đội của lực lượng vũ trang Liên bang Nga và quy
định của trường đại học.
Trao cho lãnh đạo bộ môn quân sự trong phạm vi giới hạn toàn quyền
được ký các văn bản công việc.
8.4. Danh mục các tài liệu báo cáo và các tài liệu soạn thảo và thực hiện
tại bộ môn quân sự, các tài liệu lập kế hoạch và tổ chức tiến hành hoạt động giáo
125
dục, tài liệu thống kê việc GDQP của công dân, thống kê và bảo dưỡng trang
thiết bị kỹ thuật; các danh mục này được quy định bởi Bộ Quốc phòng và Bộ
Giáo dục và khoa học Liên bang Nga.
9. Kiểm tra hoạt động của bộ môn quân sự
Việc kiểm tra, tổ chức hoạt động của bộ môn quân sự và tiến hành GDQP
được thực hiện bởi các hội đồng của Bộ Quốc phòng Liên bang Nga theo kế
hoạch kiểm tra đã thỏa thuận với Bộ Giáo dục và khoa học Liên bang Nga, kế
hoạch này được Bộ Quốc phòng phê duyệt và theo quiyđịnh của hai Bộ đã thống
nhất.
10. Cơ sở vật chất – đào tạo của bộ môn quân sự
10.1. Trong các trường đại học, nơi thành lập các trung tâm đào tạo quân
sự và bộ môn quân sự, có thể thành lập cơ sở vật chất - đào tạo cho công tác
GDQP.
10.2. Việc bố trí bộ môn quân sự phải nằm cô lập với các bộ phận khác
của trường, có thể tổ chức và duy trì nội bộ theo các yêu cầu điều lệnh quân đội
Liên bang Nga.
11. Đảm bảo tài chính và vật chất – kỹ thuật cho việc đào tạo công
dân tại bộ môn quân sự
11.1. Ngoại trừ cho huấn luyện, việc đảm bảo tài chính đào tạo công dân
tại bộ môn quân sự được thực hiện bởi các cơ quan thực thi quyền lực liên bang
thực hiện đại diện toàn quyền của các trường đại học, việc đảm bảo này nằm
trong phạm vi giới hạn được các cơ quan xem xét vào mục đích nêu trên và nằm
trong quỹ Liên bang.
11.2. Đảm bảo vật chất - kỹ thuật cho các hoạt động của bộ môn quân sự
được thực hiện bởi Bộ Quốc phòng Liên bang Nga trong phạm vi đã được xem
xét vào mục đích này và nằm trong quỹ Liên bang./.
126
127