Translation 1 (E-V)

31
Part 1: English- Vietnamese Translation Article 1: BUSINESS ENVIRONMENT IMPROVEMENTS WANTED In the opinion of experts, Vietnam must improve the business environment to make it more attractive to foreign investors. To do this, the Vietnamese Government must give priority to improving the quality of investment in sectors which create high added value rather than allow short-term investment projects to be carried out for speculative purpose. Vietnam can accept a slower growth in one or two years and concentrate on booting sustainable growth in sectors which create high added value. To improve the business environment, investors want Vietnam to upgrade the infrastructure, stabilize power supply, enhance the quality of the workforce and deal effectively with corruption by simplifying administrative procedures. Infrastructure is the foundation for a nation to thrive. Power is the key factor which helps companies maintain and expand production and business. Notably, low labor costs alone cannot help Vietnam prevail over foreign rivals in the global playing-field, and to have an attractive business environment, Vietnam must be more active in improving worker skills by modernizing the education and vocational training systems. In the early months of 2011 Vietnam had coped with numerous challenges, and although economic growth was maintained, the macroeconomic situation revealed some signs of instability. Specifically, prices continued to rise and the CPI (Consumer Price Index) in the first five months of the year increased more than 12 percent, while the trade deficit remained high. The Vietnamese Government has promulgated Resolution 11/NQ-CP proposing specific measures to stabilize the macroeconomic situation, maintain growth at a reasonable rate, and ensure social security. Thus far the resolution has been implemented for nearly three years and brought some initial results. In the future when the resolution comes into life, the business environment in Vietnam will improve considerably. The Vietnamese Government is making efforts to improve the infrastructure and that the prime Minister has made decision 71/2010/QD-TT

Transcript of Translation 1 (E-V)

Page 1: Translation 1 (E-V)

Part 1: English- Vietnamese Translation

Article 1: BUSINESS ENVIRONMENT IMPROVEMENTS WANTED

In the opinion of experts, Vietnam must improve the business environment to make it more attractive to foreign investors. To do this, the Vietnamese Government must give priority to improving the quality of investment in sectors which create high added value rather than allow short-term investment projects to be carried out for speculative purpose. Vietnam can accept a slower growth in one or two years and concentrate on booting sustainable growth in sectors which create high added value.

To improve the business environment, investors want Vietnam to upgrade the infrastructure, stabilize power supply, enhance the quality of the workforce and deal effectively with corruption by simplifying administrative procedures.

Infrastructure is the foundation for a nation to thrive. Power is the key factor which helps companies maintain and expand production and business. Notably, low labor costs alone cannot help Vietnam prevail over foreign rivals in the global playing-field, and to have an attractive business environment, Vietnam must be more active in improving worker skills by modernizing the education and vocational training systems.

In the early months of 2011 Vietnam had coped with numerous challenges, and although economic growth was maintained, the macroeconomic situation revealed some signs of instability. Specifically, prices continued to rise and the CPI (Consumer Price Index) in the first five months of the year increased more than 12 percent, while the trade deficit remained high.

The Vietnamese Government has promulgated Resolution 11/NQ-CP proposing specific measures to stabilize the macroeconomic situation, maintain growth at a reasonable rate, and ensure social security. Thus far the resolution has been implemented for nearly three years and brought some initial results. In the future when the resolution comes into life, the business environment in Vietnam will improve considerably.

The Vietnamese Government is making efforts to improve the infrastructure and that the prime Minister has made decision 71/2010/QD-TT regarding the promulgation of a regulation on pilot investment in the form of PPP (Public Private Partnership). Hopefully, the infrastructure in Vietnam will improve gradually thanks to the efforts of the Government and the support of investors.

Regarding the supply of power for production and business activities, in 2011 and the years to come, the situation of power supply in Vietnam would be much improved compared with 2010. The Vietnamese Government has taken some actions to deal with electricity shortages.

Specifically, the Law on Energy Efficiency and Conversation took effect on January 1, 2011; electricity prices were increased from March 1, 2011; Vietnam will experimentally develop a competitive electricity production market from July 1, 2011. Since 2010, Vietnam has promoted the attraction of foreign investment into the electricity sector. The Vietnamese government has assigned the Ministry of Industry and Trade to expedite 11 foreign investment projects in the field of electricity. Therefore, the domestic electricity market promises to be stable in the year to come.

Retrieved from VN economic News

Page 2: Translation 1 (E-V)

ARTICLE 1: NHỮNG YÊU CẦU CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH

Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, Việt Nam phải cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút nhiều nhà đầu tư

nước ngoài hơn. Để đạt được điều đó, chính phủ VN phải ưu tiên cải thiện chất lượng trong những lĩnh vực đầu

tư có thể tạo thêm nhiều lợi ích cao, hơn là những dự án đầu tư ngắn hạn thực hiện nhằm mục đích đầu cơ. Việt

Nam có thể chấp nhận tăng trưởng chậm hơn trong một hai năm và tập trung vào phát triển các lĩnh vực tạo ra

giá trị gia tăng cao.

Để cải thiện môi trường kinh doanh , các nhà đầu tư mong muốn Việt Nam nâng cấp cơ sở hạ tầng, ổn định

nguồn cung cấp năng lượng, nâng cao chất lượng lao động và giải quyết một cách hiệu quả nạn tham nhũng

bằng cách đơn giản hóa những thủ tục hành chính.

Cơ sở hạ tầng là nền tảng để đất nước phát triển. Năng lượng là nhân tố chính giúp các công ty duy trì, mở rộng

sản xuất và kinh doanh. Nhất là chỉ với giá lao động thấp không thể giúp Việt Nam chiếm ưu thế so với các đối

thủ nước ngoài trong môi trường cạnh tranh quốc tế, và để tạo ra một môi trường thu hút kinh doanh, Việt Nam

phải tích cực hơn trong việc cải thiện kỹ năng lao động bằng cách hiện đại hóa giáo dục và hệ thống đào tạo

hướng nghiệp.Trong những tháng đầu năm 2011, Việt Nam phải đương đầu với nhiều thư thách, và mặc dù sự

phát triển kinh tế vẫn được duy trì, tình hình kinh tế vĩ mô vẫn cho thấy những dấu hiệu không ổn định. Rõ

ràng, giá cả tiếp tục tăng và bảng giá tiêu dùng trong 5 tháng đầu năm tăng hơn 12%, trong khi thâm hụt kinh

doanh vẫn cao. Chính phủ VN vừa ban hành nghị quyết 11/NQ-CP đề ra các biện pháp cụ thể nhằm ổn định nền

kinh tế vĩ mô, duy trì sự tăng trưởng ở 1 tỉ lệ thích hợp, và bảo đảm an ninh xã hội. Như vậy, nghị quyết đã thi

hành gần 3 năm và mang tới vài kết quả đầu tiên. Trong tương lai, khi nghị quyết đi vào đời sống, môi trường

kinh doanh tại VN sẽ cải thiện đáng kể.

Chính phủ VN đang nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng và thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 71/2010/QD-TT liên

quan đến việc ban hành đầu tư thí điểm theo mô hình hợp tác công-tư. Hy vọng rằng, cơ sở hạ tầng ở VN sẽ cải

thiện dần nhờ vào nỗ lực của chính phủ và sự hỗ trợ từ các nhà đầu tư.

Về việc cung cấp năng lượng cho các hoạt động kinh doanh và sản xuất, trong năm 2011 và những năm tới đây,

tình trạng cung cấp năng lượng của VN sẽ được cải thiện so với năm 2010. Chính phủ VN sẽ có động thái giải

quyết tình trạng thiếu hụt điện. Cụ thể, luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã có hiệu lực từ ngày

1/7/2011; giá điện tăng từ ngày 1/3/1011. VN sẽ phát triển qua thực nghiệm 1 thị trường sản xuất điện năng

cạnh tranh từ 1/7/2011. Kể từ năm 2010, VN đã và đang đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực điện

năng. Chính phủ VN vừa chỉ định bộ công thương xúc tiến 11 dự án đầu tư nước ngoài vào thị trường điện

năng. Do đó, thị trường điện năng nội địa hứa hẹn sẽ ổn định trong vài năm tới.

Sưu tầm từ tin tức kinh tế VN

Page 3: Translation 1 (E-V)

Article 2: VIETNAM NEEDS MORE ECONOMIC REFORMS TO BOLSTER CONFIDENCE

International development partners hailed Vietnam’s initial success in restoring economic stability, on

Thursday, and called for further reforms through 2012. Vietnam’s one-day mid-year Consultative group

meeting in Ha Tinh Province included thorough discussion and assessment of Vietnam’s Resolution 11, which

was launched in February, the World Bank said in a statement.

At the meeting, the Minister of Planning and Investment said the government has made inflation control,

macroeconomic stabilization, and social security its top priorities. Resolution 11 was issued to implement these

objectives; he was cited as saying in the World Bank statement.

While recognizing initial progress, bilateral and multilateral donors encouraged the government to direct more

attention to the “structural origins” of instability. Future steps toward improvement would include the creation

of sound fiscal policy and the improved disclosure of economic data and information.

The donors also pledged their support for the long-term implementation of Resolution 11. IMF’s Senior

Resident Representative, Benedict Bingham, noted that “while there has been some initial success, confidence

in the overall success of the strategy remains fragile”. He added that, to bolster confidence, the government will

need to send a strong signal that Resolution 11 will be sustained beyond 2011.

Alastair Cox, Australia’s Ambassador to Vietnam, said development partners welcomed Resolution 11 and the

government’s strong commitment to its full implementation to restore and sustain market confidence. “This

May, however, take time, well into 2012,” he said “we remain concerned that Vietnam will continue to suffer

recurrent bouts of macroeconomic instability unless significant reforms are implemented”.

Earlier this month, Vietnam raised its annual inflation target to 15 percent and brought down its new economic

growth target to 6 percent. The development partners urged the government to provide better social protection

to poor and vulnerable people during periods of economic instability and high inflation.

“We welcomed the government’s efforts to strengthen social protection, unemployment insurance and

emergency assistance to the poorest households,” said Sean Doyle, EU Ambassador to Vietnam. “We wish the

government every success in these efforts and particularly encourage it to channel the aid as well as possible to

the poorest people, who really need it.”

The full consultative group meets every year, usually in December, to help provide consultancy to Vietnam’s

development. Informal mid-year meetings have been held in Vietnam since 1998 usually in May or June.

Retrieved from VN economic News

Page 4: Translation 1 (E-V)

Article 2 : VIỆT NAM CẦN TIẾP TỤC CẢI CÁCH KINH TẾ ĐỂ CỦNG CỐ LÒNG TIN TỪ ĐỐI TÁC

Vào thứ 5 vừa qua, các nước đối tác phát triển đã khen ngợi những thành công đầu tiên của Việt Nam trong việc ổn định khôi phục kinh tế, và yêu cầu những cải cách tiến xa hơn vào năm 2012.

Ngân hàng thế giới phát biểu: “Nhóm cố vấn Việt nam đã tổ chức vào giữa năm ở tỉnh Hà Tĩnh để thảo luận kỹ lưỡng và đánh giá Nghị quyết 11 được ban hành vào tháng 2”

Tại cuộc họp, bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư nhận định rằng chính phủ vẫn đang kềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và ưu tiên hàng đầu cho an ninh xã hội. “Nghị quyết 11 được ban hành để thi hành các mục tiêu đã đề ra.”- bộ trưởng trích dẫn tuyên bố của Ngân hàng thế giới.

Cùng với việc thừa nhận những tiến độ ban đầu, các nhà tài trợ song phương và đa phương khuyến khích nhà nước chú trọng nhiều hơn về nguồn gốc, cơ cấu của sự bất ổn này. Những quyết định tương cải thiện trong lai bao gồm tạo nên chính sách tài chính hợp lý, cũng như việc tiết lộ cải thiện dữ liệu và thông tin kinh tế.

Các nhà tài trợ cũng cam kết sẽ ủng hộ sự thi hành dài hạn của Nghị quyết 11. Benedict Bingham, Đại diện thường trú của IMF tại Việt Nam, lưu ý rằng “mặc dù đã đạt được vài thành công bước đầu, nhưng sự tin tưởng vào toàn bộ thành công của chiến lược vẫn còn chưa cao”.

Ông cũng nói thêm rằng, để củng cố lòng tin, chính phủ cần cho thấy một dấu hiệu mạnh mẽ rằng Nghị quyết 11 sẽ kéo dài quá năm 2011.

Alastair Cox, đại sứ Úc tại Việt Nam, cho rằng những đối tác hoan nghênh Nghị quyết 11 và cam kết thi hành triệt để của chính phủ nhằm khôi phục và giữ vững lòng tin đối với thị trường.

“Tuy nhiên điều này có lẽ cần thời gian đến năm 2012”- ông cho biết. “chúng tôi vẫn quan tâm Việt Nam sẽ phải tiếp tục trải qua những đợt bất ổn kinh tế, mặc dù những cải cách quan trọng đã được thực hiện.”

Chỉ mới đầu tháng này, Việt Nam đã nâng chỉ tiêu lạm phát thường niên đến 15% và giảm chỉ tiêu phát triển kinh tế mới xuống 6%.

Những đối tác ở các nước phát triển thôi thúc chính phủ phải có sự bảo trợ tốt hơn cho những người nghèo trong những giai đoạn lạm phát cao và kinh tế không ổn định.

“Chúng tôi hoan nghênh sự nỗ lực của chính phủ trong việc tăng cường bảo trợ xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và giúp đỡ cấp thiết cho những hộ gia đình khó khăn”- Sean Doyle, đại sứ EU tại Việt Nam nhận định- “chúng tôi mong chính phủ thành công tốt nhất trong những nỗ lực này, cũng như đặc biệt khuyến khích chính phủ tập trung vào viện trợ cho những người nghèo nhất, những người thực sự cần viện trợ”.

Cuộc họp chính thức của tổ cố vấn vào tháng 12 hàng năm nhằm tư vấn cho sự phát triển của Việt Nam. Kể từ năm 1998, những cuộc họp thông thường trong năm thì được tổ chức vào tháng 5 hoặc 6.

Sưu tầm từ tin tức kinh tế VN

Page 5: Translation 1 (E-V)

ARTICLE 3: WHERE AMERICANS WORKDetails about where Americans work provide another view of the economy. On a typical workday in

2005, just over 141 million full- and part time employees went to work in the United States. Not in a single one

of them was truly an “average American”, not in a nation of 300 million people with roots in virtually every

nation and culture in the world, living in huge metropolitan cities or out-of-the-way hamlets, and in every sort

of community in between.

Just 1 percent of the workforce was engaged in farming, forestry, and fishing. Construction,

transportation, mining and utilities provide work for 10 percent. Ten percent worked in manufacturing; 4

percent in wholesale trade; 11 percent in retail trade; 12 percent in professional and business services; 2

percent in information, media and software; 6 percent in finance, insurance and real estate; 13 percent in

education and health care; 9 percent in arts, entertainment, accommodations and food services, and 5

percent in other services. Government employed 17 percent of workforce.

In 2005, American workers received $7 trillion in wages or salaries, by far the largest source of income

for the nation’s 117 million households. These households also received $ 1.5 trillion in dividends and interest

payment from their savings and investment, $1.3 trillion in employer benefits, and $1.5 trillion in government

social benefits, for which they contributed $440 billion in social insurance payments.

The United States has the world’s most open borders based on the volume of trade that enters and

leaves the country. In 2006, the United States was the largest importer and the second largest exporter of

merchandise goods and led all nations in the import and export of commercial services. In that year, the

United States exported $1.45 trillion in goods and services, but imported $2.2 trillion, producing a record trade

deficit of $750 billion. The United States had a surplus in the trade of commercial services such as airline travel

and financial services, but it had a deficit of $838 billion in traded goods.

The strongest U.S export goods are manufactured capital goods, including motor vehicles, civil aircraft,

semiconductors, industrial machinery, and computer accessories. Pharmaceuticals, household goods, gen

diamonds, toys, games, and sporting goods are the leading consumer products exports. Chemicals and plastic

products are the largest categories of industrial materials exports.

Manufactured goods make up nearly two-thirds of total exports, with agricultural products far behind,

at 5 percent of all outbound shipments. Although traditional U.S customers- Canada, the European Union, and

Japan – are the top recipients of American exports, China, India and developing countries receive nearly half of

U.S shipments.

Page 6: Translation 1 (E-V)

Imports have risen much faster than exports. In 2004, for example, more than one-third of all

manufactured products purchased by U.S consumers were imported. In 1972, the figure was just 11 percent.

The value of the dollar compared to other leading world currencies has been a critical factor in U.S

manufacturing competitiveness. In two periods- the mid-1980s and 1997-2002 - the dollar’s value was high,

making U.S exports relatively more expensive and imports cheaper. In both periods, the country’s trade deficit

grew sharply. The dollar’s decline during 2002-2008 helped boost U.S exports.

But apart from currency issues, a rising tide of global competition, particularly from countries with

lower labor costs, has pushed American manufacturers to new competitive strategies. A 2005 study by the U.S

bureau of Economic Analysis disclosed a trend among U.S-headquartered major multinational corporations.

U.S-based divisions cut employment and capital investments at home but increased jobs and investments

significantly at their foreign units. The annual output of the foreign affiliates that year increased by more than

twice that of the parent company in the United States. The study suggests that U.S multinationals were relying

increasingly on bringing in foreign- made components, including those from their overseas affiliates, and then

including them in their final products.

Page 7: Translation 1 (E-V)

Article 3: Môi trường làm việc tại Mỹ

Những chi tiết về môi trường làm việc ở Mỹ cung cấp cho chúng ta 1 cái nhìn khác về kinh tế. Năm 2005, vào 1 ngày làm việc bình thường ở Mỹ, chỉ khoảng hơn 141 triệu công nhân (làm việc cả ngày hoặc bán thời gian) đi làm. Trong số đó không người nào là dân Mỹ chính gốc, khi mà ở 1 đất nước 300 triệu dân hầu như bao gồm mọi quốc gia mọi nền văn hóa trên thế giới, sống trong những thành phố lớn hay có thể nói là không hề có thôn xóm nhỏ, và đủ mọi thành phần giữa các cộng đồng.

Chi 1% lực lượng lao động tham gia vào nông, lâm, ngư nghiệp. 10% hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, giao thông, khai thác mỏ và dịch vụ. Thêm 10% hoạt động sản xuất, 4% tham gia buôn bán sĩ; 11 % trong buôn bán lẻ; 12% trong dịch vụ kinh doanh chuyên nghiệp; 2% hoạt động trong lĩnh vực thông tin, truyền thông và phần mềm; 6% hoạt động trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm và bất động sản; 13% tham gia vào giáo dục và chăm sóc sức khỏe; 9% hoạt động nghệ thuật, giải trí, dịch vụ ăn uống và cho thuê nhà; còn lại 5% cho các dịch vụ khác. Riêng những người làm việc cho nhà nước chiếm 17% trong lực lượng lao động.

Năm 2005, toàn bộ công nhân Mỹ nhận lương 7 nghìn tỷ đô la, đây là lượng thu nhập lớn nhất từ 117 triệu hộ gia đình của nước này từ trước đến nay. Các hộ gia đình này cũng nhận được tổng cộng 1.5 nghìn tỷ đô la tiền lợi tức và lãi suất từ tiền tiết kiệm và đầu tư, 1.3 nghìn tỷ đô la tiền trợ cấp công nhân và 1.5 nghìn tỷ tiền trợ cấp xã hội từ chính phủ cho tổng đóng góp của họ vào bảo hiểm y tế xã hội là 888 tỉ đô la.

Hoa kì là nước có biên giới mở rộng nhất trên thế giới dựa trên khối lượng thương mại xuất và nhập vào nước này. Năm 2006, Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất và là nước xuất khẩu hàng hóa đứng thứ 2; đồng thời là nước dẫn đầu trong xuất nhập khẩu dịch vụ thương mại. Trong năm đó, Mỹ xuất khẩu 1.45 nghìn tỷ đô la giá trị hàng hóa và dịch vụ, nhưng giá trị nhập khẩu lại lên tới 2.2 nghìn tỷ đô la, tạo nên 1 kỷ lục thâm hụt thương mại 750 tỷ đô la. Mỹ tạo ra thặng dư trong thương mại dịch vụ như du lịch hàng không và dịch vụ tài chính, nhưng lại thâm hụt 838 tỷ đô la trong lĩnh vực hàng hóa thương mại.

Ngành xuất khẩu hàng hóa mạnh nhất của Mỹ là sản xuất hàng hóa tư bản, bao gồm sản xuất mô tô, máy bay nội địa, chất bán dẫn, máy móc công nghiệp và phụ kiện máy tính. Dược phẩm, đồ dùng trong nhà, kim cương đá quý, đồ chơi, trò chơi điện tử và đồ dùng thể thao là những sản phẩm đang dẫn đầu xuất khẩu tiêu thụ.

Sản xuất hàng hóa chiếm gần 2/3 tổng kinh ngạch xuất khẩu, với hàng nông sản chiếm thấp nhất, chỉ 5% trên tổng các lô hàng ra nước ngoài. Mặc dù những khách hàng lâu đời của Hoa Kỳ gồm Canada, Liên minh Châu Âu, và Nhật Bản là những đơn đặt hàng xuất khẩu hàng đầu; Trung Quốc, Ấn Độ và các nước đang phát triển chiếm 1 nửa số đơn đặt hàng còn lại.

Kinh ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu. Ví dụ như năm 2004, khách hàng Mỹ mua hơn 1/3 trong tổng số sản phẩm nhập khẩu. Trong khi năm 1972, con số này chỉ ở mức 11%.

Giá trị của đồng đô la đóng vai trò then chốt trong cạnh tranh sản xuất so với những đồng tiền có thế lực trên thế giới. Trong 2 giai đoạn – giữa những năm 1980 và từ 1997 đến 2000 – giá trị của đồng đô la cao, kéo theo giá trị xuất khẩu đắt và giá trị nhập khẩu rẻ hơn. Trong cả 2 giai đoạn, thâm hụt thương mại của Mỹ tăng đột ngột. Giá trị đồng đô la giảm trong khoảng thời gian 2002-2008 giúp đẩy mạnh xuất khẩu.

Page 8: Translation 1 (E-V)

Nhưng ngoài vấn đề tiền tệ, vẫn còn 1 làn sóng cạnh tranh toàn cầu, đặc biệt từ các nước có giá lao động thấp, thúc đẩy các nhà sản xuất Mỹ đến với những chiến lược cạnh tranh mới. Một nghiên cứu vào năm 2005 bởi Cục phân tích kinh tế, tiết lộ 1 xu hướng của các trụ sở công ty đa quốc gia tại Mỹ, các bộ phận cơ sở bỏ bớt việc làm và đầu tư vốn tại nước nhà nhưng tăng việc làm và đầu tư đáng kể vào đơn vị của họ ở nước ngoài. Sản lượng hằng năm của các chi nhánh nước ngoài còn tăng gấp đôi hơn cả công ty mẹ tại Mỹ. Nghiên cứu cho rằng các công ty đa quốc gia của Mỹ tin tưởng việc đưa vào các thiết bị được chế tạo từ nước ngoài, bao gồm những thứ từ các chi nhánh nước ngoài, và sau đó lắp ráp chúng vào sản phẩm cuối cùng.

Page 9: Translation 1 (E-V)

Article 4: IMPROVEMENTS ARE ON THE WAY

From January 1 to November 23, 2009, US$ 19.76 billion worth of new registered foreign investment capital came into Vietnam. Of that US$ 9 billion has actually materialized, but that’s 89.6 percent of what materialized in the same time of 2008.

Foreign investors have been putting their money into accommodations and food/beverage services, construction, information and communication, arts and entertainment, real estate and the processing and manufacturing industries.

Statistics obtained from the Ministry of Planning and Investment show that investment capital has come from 89 countries and territories and gone into 63 provinces and cities. The largest amount of foreign investment capital has come from the US, South Korea, Malaysia, Japan, Singapore and Chinese Taipei.

Although the amount of registered foreign investment is less this year than it was in the same time of 2008, the amount of capital that has materialized is not terribly low, particularly in light of the global economic recession.

Assessing FDI-related activities in 2009, the Ministry of Planning and Investment says that the investment and business environment in Vietnam is improving and any improvement is appreciated by foreign investors. The legal framework is beginning to look something like that in existence elsewhere in the region and it is closer to the international norm. Localities nationwide all vociferously declare that they want to attract more FDI, their administrative procedures are in the process of being simplifies and it is to become easier for licensed projects to get off the ground.

Intel, Foxconn and Samsung now have large investment commitments in Vietnam because they believe that their operations in Vietnam can be important link in their global production chain.

Regarding the structure of investment, more FDI is going into the service sector and there are some big real estate and seaport projects. These FDI projects will surely improve finance, banking and insurance services which will in turn promote economic growth in general.

Compared with 2008, the amount of FDI coming into Vietnam this year has fallen considerably. While some of the blame could be placed on the global economic crisis, it is also true that’s there’s a serious problem with foreign investment laws regulations which both overlap and are unclear. The process of obtaining an investment certificate is very long-term. Also beginning January 1, 2009, the Vietnamese government began offering fewer income tax-related preferences to foreign invested companies and projects. It seems also to be true that on a local level, investment promotion is not carried out in a professional manner due to limited financial capacity.

Local experts seem to agree that if Vietnam really wants to attract more FDI, it needs to resolve the problems described above and actually do something to improve matters and create an investment environment in which foreign investors will want to carry out project.

Page 10: Translation 1 (E-V)

Article 4:

CÁC BƯỚC ĐỔI MỚI ĐANG ĐƯỢC TIẾN HÀNH

Từ 1/1 đến 23/9 /2009, 19.76 tỉ đô la vốn đầu tư nước ngoài mới đăng kí đã được đưa vào Việt Nam. 9 tỉ đô la trong đó đã được đưa vào thực tế, nhưng đó chỉ mới bằng 89.6% so với cùng kì năm ngoái.

Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào nhà ở, dịch vụ ăn uống, xây dựng, thông tin và công nghệ truyền thông, nghệ thuật và giải trí, bất động sản, công nghiệp sản xuất và chế biến.

Các số liệu thống kê từ Bộ kế hoạch và đầu tư cho thấy vốn đầu tư từ 89 quốc gia và khu vực đổ vào 63 tỉnh thành Việt Nam. Tổng lượng vốn đầu tư lớn nhất thuộc về Mỹ, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore và Đài Loan.

Mặc dù lượng vốn đầu tư mới đăng kí ít hơn so với cùng kì năm 2008, lượng vốn cụ thể hóa vẫn không quá thấp, đặc biệt là trong tình trạng kinh tế suy thoái toàn cầu như hiện nay.

Qua việc đánh giá các hoạt động liên quan đến tổ chức Đầu tư nước ngoài FDI năm 2009, Bộ kế hoạch và đầu tư cho biết môi trường đầu tư -kinh doanh tại Việt Nam đang dần phát triển và các nhà đầu tư nước ngoài rất coi trọng từng bước cải thiện này. Khuôn khổ pháp lý VN tiếp tục phát huy những gì sẵn có và ngày càng tiến gần đến tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều địa phương trên khắp cả nước tuyên bố chắc chắn rằng họ muốn thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn nữa, các thủ tục quản lý cũng trở nên đơn giản, tiến trình cấp phép dự án cũng dễ dàng hoàn thành.

Intel, Foxcon và Samsung là các công ty hiện nay có số lượng cam kết đầu tư lớn tại VN bởi vì họ tin rằng hoạt động kinh doanh tại đây có thể là 1 kết nối quan trọng đến dây chuyền sản xuất toàn cầu.

Theo cơ cấu đầu tư, sẽ có nhiều đầu tư nước ngoài đổ vào lĩnh vực dịch vụ, bao gồm các dự án bất động sản và hải cảng lớn. Các dự án đầu tư nước ngoài chắc chắn sẽ cải thiện lĩnh vực tài chính ngân hàng và dịch vụ bảo hiểm đang trên đà phát triển kinh tế chung.

So với năm 2008, tổng lượng vốn đầu tư vào VN năm nay giảm đáng kể. Mặc dù việc này có thể đổ lỗi cho khủng hoảng kinh tế, nhưng bên cạnh đó những vấn đề nghiêm trọng do các quy định và luật đầu tư nước ngoài bị chồng chéo, không rõ ràng cũng là 1 nguyên nhân. Tiến trình cấp giấy phép đầu tư là 1 quy trình dài hạn. Cũng từ tháng 1/2009, chính phủ VN đã bắt đầu giảm thuế thu nhập ưu tiên cho các dự án và các công ty đầu tư nước ngoài. Đối với địa phương, sự khuyến khích đầu tư sẽ không được thực hiện theo đúng phương thức bởi khả tài chính bị giới hạn.

Các nhà chuyên môn tại địa phương cũng đồng ý rằng nếu VN thực sự muốn thu hút đầu tư nước ngoài, cần giải quyết các vấn đề trên và hành động thực tế để cải thiện vấn đề, tạo nên 1 môi trường có thể thu hút các nhà đầu tư dự án.

Page 11: Translation 1 (E-V)

ARTICLE 5: THE U.S ECONOMY TODAY

Even in crisis, the American economy remains the world’s largest and most diverse. The total output of U.S goods and services – the gross domestic product – stood at $14 trillion in 2007, nearly three times the size of Japan’s economy and five times China’s, based on the purchasing power of each country’s currency. With just 5 percent of the world’s population, the United States is responsible for 20 percent of total economic output. The U.S gross domestic product per person was nearly $45,000 in 2007, compared to a worldwide average of $11,000. The economy poured out $40 billion a day in goods and services that year, drawing its fuel from the know-how of the 150 million Americans who make up the workforce. Capital provided more fuel: the $5.5 billion in nongovernmental funds that Americans invested daily in their businesses and homes. And there are the nation’s resources of minerals, energy, water, forests, and farmland. The productivity of American working men and women remains a standard for the world. The average American worker produced more than $92,000 worth of products and services in 2007. This is nearly 20 percent more than that of the average of a dozen leading European countries and 85 percent higher than that of China, according to the U.S. Conference Board. U.S. Productivity expanded by an average 2 percent a year from 2000 through 2006, twice the gain in most of Europe. In one study of 16 major industrial nations, only South Korea, Sweden, and Taiwan had higher productivity growth than the United States over the same years. These increases in productivity have helped the United States maintain relatively low unemployment and inflation. The World Economic Forum, whose annual conferences is a gathering of top international government and cooperate leaders has regularly ranked the United States as the world’s most competitive economy. Major U.S companies have stayed atop international markets through a determined focus on innovation, cost reduction, and the return profits to shareholders. Of the 2007 Fortune magazine list of the 500 largest corporations worldwide, 162 were headquartered in the United States. Japan was the second with 67, and France third with 38. American technology leadership continues to expand from current foundations in computers, software, multimedia, advanced materials, health science, and biotechnology into the frontiers of nanotechnology and genetics. Although the euro is gaining support as a currency of choice, the American dollar remains the centerpiece of international commerce. When Barack Obama took office as president in January 2009, the immediate crisis dominated his agenda, and beyond that lay grave, longer-range challenges. Record federal budget deficits stemming from the government lending in the crisis could challenge the stability of the U.S dollar. The federal government’s rising retirement and healthcare commitments to an aging population will test the government’s ability to pay for itself. American businesses, shareholders, and consumers could face heavy costs in adapting processes and products to conserve natural resources and meet the challenges of climate change. Disparities in education attainment could increase. Foreign competition and technological change could displace more U.S jobs. Harvard University economist Benjamin Friedman and others warn that America’s continued political support for free flow of trade and finance and its openness to the world hinge critically on a continued prosperity for the large majority of its citizens. President Obama acknowledged the severity of the challenge in a speech shortly before his inauguration. But he also reminded the nation of its heritage and of its inherent strengths. “We should never forget that our workers are still more productive than any on Earth. Our universities are still the envy of the world. We are still home to the most brilliant minds, the most creative entrepreneurs and the most advanced technology and innovation that history has ever known. And we are still the nation that has overcome great fears and improbable odds.”

Page 12: Translation 1 (E-V)

ARTICLE 5: KINH TẾ HOA KỲ NGÀY NAY

Ngay cả trong thời kì khủng hoàng, nền kinh tế Mỹ vẫn lớn nhất và đa dạng nhất thế giới. Tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ của Mỹ (tổng sản phẩm nội địa) đạt 14 nghìn tỷ đô la năm 2007, gần gấp 3 lần quy mô kinh tế Nhật và 5 lần Trung Quốc, dựa trên mức nhập khẩu tính theo tỷ giá tiền tệ ở mỗi nước. Chỉ chiếm khoảng 5% dân số thế giới nhưng Hoa kì lại đóng góp đến 20% tổng sản lượng kinh tế. Năm 2007, tổng sản phẩm quốc nội trên bình quân đầu người của Mỹ xấp xỉ 45.000 đô la, so với trung bình thế giới là 11,000 đô. Cũng trong năm đó, nền kinh tế chi 40 tỉ đô la mỗi ngày cho hàng hóa và dịch vụ, góp phần tạo việc làm cho 150 triệu lao động Mỹ. Nguồn vốn còn đầu tư nhiều thứ, trong đó 5.5 tỉ đô la được hỗ trợ cho những quỹ phi chính phủ nhằm vào việc kinh doanh và dịch vụ nhà ở. Ngoài ra còn có những nguồn tài nguyên của đất nước như: khoáng chất, năng lượng, nước, rừng và đất trồng trọt. Nền sản xuất của lao động Mỹ giúp duy trì 1 tiêu chuẩn cho thế giới. Theo Ủy ban hội nghị Hoa Kỳ, trung bình 1 công nhân Mỹ tạo ra 92,000 đôla giá trị sản phẩm và dịch vụ (năm 2007), cao hơn 20% so hàng chục quốc gia Châu Âu và hơn Trung Quốc 85%. Nền sản xuất của Mỹ phát triển trung bình mỗi năm 2%, gấp 2 lần Châu Âu kể từ năm 2000 đến 2006. Trong những năm đó, theo 1 nghiên cứu của 16 nước công nghiệp trọng yếu, chỉ có Hàn Quốc, Thụy Điển và Đài Loan tăng trưởng sản xuất cao hơn Mỹ. Sự gia tăng năng suất ở các nước này đã giúp Mỹ giữ tình trạng lạm phát và thất nghiệp tương đối thấp. Diễn đàn kinh tế thế giới, nơi những diễn ra những hội nghị thường niên, quy tụ các lãnh đạo đoàn thể và chính phủ quốc tế, luôn xếp hạng Mỹ vào 1 trong những nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới. Các tập đoàn lớn của Mỹ luôn đứng đầu thị trường quốc tế trong việc định hướng tập trung cải cách, giảm giá bán, và xoay vòng lợi nhuận cho các cổ đông. Trong danh sách 500 tập đoàn lớn nhất thế giới của tạp chí Fortune năm 2007, có 162 trụ sở được đặt ở Mỹ. Nhật Bản đứng thứ 2 với 67 công ty, Pháp về thứ 3 với 38 công ty. Các nhà nghiên cứu công nghệ Hoa Kỳ tiếp tục phát triển máy tính, phần mềm, đa phương tiện, vật liệu tiên tiến, khoa học sức khỏe, và công nghệ sinh học từ nền tảng hiện tại đến các lĩnh vực gien và công nghệ nano. Mặc dù đồng Euro là 1 lựa chọn của nhiều người, đồng đô la Mỹ vẫn quan trọng đối với thương mại thế giới. Từ khi Barack Obama trở thành tổng thống vào tháng 1 năm 2009, cuộc khủng hoảng trước mắt đã nhanh chóng chiếm lấy những chương trình nghị sự của ông, và xa hơn, cuộc khủng hoảng những đặt ra những thách thức dài hạn, và sự suy sụp của chính phủ. Nhiều khoản cho vay của chính phủ trong cuộc khủng hoảng kéo theo những khoản thâm hụt trong sổ ngân sách liên bang có thể dẫn đến sự bất ổn của đồng đô la. Khả năng chi trả của chính phủ sẽ bị thử thách khi số nhân viên nghỉ hưu trong Chính phủ liên bang tăng cao và những hứa hẹn chăm sóc sức khỏe cho 1 nền dân số già.

Các doanh nghiệp Mỹ, các cổ đông và người tiêu dùng có thể phải đối mặt với mức giá sản phẩm cao trong tiến trình thích nghi để bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đối mặt với biến đổi khí hậu. Sự cách biệt về tri thức có thể tăng. Cạnh tranh nước ngoài và thay đổi kỹ thuật có thể nhiều thay đổi công việc ở Mỹ. Nhà kinh tế học Benjamin Friedman thuộc Đại học Havard và những nhà kinh tế học khác cảnh báo rằng việc ủng hộ chính trị liên tục ở Mỹ đối với mậu dịch tự do và tài chính, cũng như tình trạng mở cửa của Mỹ đối với thế giới phụ thuộc rất nhiều vào sự giàu có của đại đa số công dân Mỹ. Trong bài diễn văn ngắn trước lễ nhậm chức, Tổng thống Obama đã thừa nhận những thách thức hết sức khó khăn sắp tới. Nhưng ông cũng nhắc rằng nước Mỹ cũng có những di sản và sức mạnh vốn có. “chúng ta đừng bao giờ quên rằng lực lượng lao động Mỹ vẫn sản xuất nhiều hơn bất kì nước nào trên trái đất này. Những trường đại học Mỹ vẫn là niềm khao khát của thế giới. Nước Mỹ vẫn là nơi sản sinh ra những trí óc tài hoa nhất, những nhà doanh nghiệp sáng tạo, và những kỹ thuật tiên tiến cũng như những cải cách lịch sử đã được biết đến. Đồng thời vẫn là nước tiếp tục vượt qua mọi khó khăn và thách thức.

Page 13: Translation 1 (E-V)

Article 6: Consumers left out of price law proposal

The proposed law on prices as currently written has raised concerns among business groups about more controls on pricing. In addition, experts complain that the new law is not beneficial to consumers.

The price law should protect consumers because in the end they are the ones most affected by rising prices, said Nguyen Minh Phong of Hanoi Socioeconomic Research Institute.

The preliminary version, however, does not mention anything about consumer rights. Consumers must have the right to demand pricing information, Phong told a meeting between government officials and experts in Hanoi on Tuesday.

Economist Vu Dinh Anh of the Institute of Market and Price Research said the proposed law addresses many issues concerning retailers, producers and the authorities, but it has left consumers out in the cold.

This version of the price law is expected to be presented to legislators for discussion this July; it stipulates that the government will take necessary measures to control prices and keep them stable. The government will stop determining prices of most products and services while businesses will be required to register, list and publicize their tariffs. Legislators doubted the legality of price stabilization funds set up by the government last year, but more such funds have been proposed.

On the business front, the price law has sparked an outcry among foreign business groups. The reaction is not a surprise. Last year, foreign companies fought hard against Circular 122, register their prices. Some said the rules were a violation of Vietnam’s WTO commitments. EuroCham, a group of European companies, said at the Vietnam Business Forum in Hanoi late last month that it fully understands the need to keep inflation under control, but the new price law is “again drafted in a way that will create uncertainly in the business community.”

“Also, the price law does not explicitly obligate state authorities to keep information supplied by business, for the purposes of price control, confidential,” EuroCham said, noting that passing the law will result in “heavy additional administrative burdens” for companies.

Manufacturing and Distribution Working Group, which comprises leading law firms in the country as well as local and foreign companies, said at the business forum that investors are “frightened” about the prospect of a new price control law.

“We have seen investors shelve their proposed investment projects in cement and milk just because the price controls make the outcome of the investments too unpredictable,” said head of the working group Fred Burke, managing partner of Baker & McKenzie.

“If this continues, it will only create more dependence on imports and exacerbate the market’s price pressures,” he said, adding that the prospect of having to file input production costs with every authority is reasonable. “We beg careful reconsideration of this and other aspects of this important area of law,” Burke said.

In a report published Wednesday, Saigon Tiep Thi newspaper cited layer Truong Thanh Duc as saying that there are many clauses in the proposed law that need to be reconsidered

For instance, the draft of the price law said businesses are only allowed to change prices when there are changes in input costs or in supply and demand. This means even price cuts as part of business strategies or as an attempt to clear stock are not permitted, he said

Page 14: Translation 1 (E-V)

ARTICLE 6: DỰ THẢO LUẬT GIÁ CẢ BỎ SÓT QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Dự luật đề xuất về việc điều chỉnh giá cả gây nhiều tranh cãi trong giới kinh doanh. Bên cạnh đó, các chuyên gia nhận xét rằng luật mới này không có lợi cho người tiêu dùng.

Trong cuộc họp giữa các quan chức chính phủ tại Hà Nội, ông Nguyễn Minh Phong – đại diện sở nghiên cứu kinh tế xã hội, phát biểu: “Luật giá cả nên bảo vệ người tiêu dùng bởi vì cuối cùng thì chỉ có người tiêu dùng là người bị ảnh hưởng nhiều nhất khi giá cả tăng cao. Tuy nhiên bản dự thảo sơ bộ không hề đề cập bất cứ vấn đề gì về quyền lợi của người tiêu dùng. Họ phải có quyền được biết thông tin về giá cả”.

Nhà kinh tế học Vũ Đình Anh, thuộc sở nghiên cứu giá cả thị trường, cho biết: “luật đề xuất này tập trung vào những vấn đề liên quan đến các doanh nghiệp bán lẻ, công ty sản xuất và các nhà chức trách, nhưng lại bỏ sót người tiêu dùng .”

Các nhà lập pháp mong muốn bản dự thảo Luật Giá sẽ được đưa ra thảo luận vào tháng 7 này, vì chính phủ cần những biện pháp để kiểm soát và bình ổn giá cả. Chính phủ cũng sẽ dừng việc thẩm định giá của hầu hết các sản phẩm và dịch vụ trong khi đó các doanh nghiệp sẽ phải đăng kí, lên danh sách và khai thuế. Nhiều quỹ bình ổn giá đã được nhà nước thành lập vào năm ngoái, nhưng các nhà lập pháp vẫn tỏ ra nghi ngại về tính hợp pháp của chúng.

Luật giá cả đã khuấy động 1 làn sóng phản đối trong giới kinh doanh. Phản ứng này cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Năm ngoái, các doanh nghiệp nước ngoài đã phản đối mạnh mẽ Thông tư 122- cho phép các nhà chức trách địa phương áp đặt giới hạn điều chỉnh mức giá và buộc 150 doanh nghiệp phải đăng kí mức giá sản phẩm. Một số doanh nghiệp cho rằng Việt Nam vi phạm những cam kết của WTO.

EuroCham - nhóm doanh nghiệp châu Âu, phát biểu trước diễn đàn kinh tế Việt Nam tại Hà Nội vào cuối tháng trước rằng kềm chế lạm phát là việc hoàn toàn có thể hiểu được, nhưng luật giá cả mới đang được dự thảo sẽ gây bất ổn trong giới kinh doanh.

Cũng theo EuroCham, Luật Giá không ràng buộc các nhà chức trách phải giữ thông tin mật do doanh nghiệp cung cấp để điều chỉnh mức giá. Tổ chức nhấn mạnh rằng nếu Luật này được thông qua doanh nghiệp sẽ phải chịu thêm gánh nặng trong việc quản lí.

Nhóm sản xuất và công tác phân phối bao gồm những doanh nghiệp pháp lý dẫn đầu trong nước, cũng như các công ty nước ngoài hoặc tại địa phương, phát biểu tại diễn đàn kinh tế rằng các nhà đầu tư e ngại về viễn cảnh của Luật điều chỉnh giá mới dự thảo.

Ông Fred Burke, giám đốc điều hành của Baker & McKenzie phát biểu: “Chúng tôi đã chứng kiến các nhà đầu tư phải gác lại những dự án mà họ ấp ủ bởi vì việc điều chỉnh giá sẽ gây ra những hậu quả không thể lường trước được”.

“nếu điều này vẫn tiếp diễn sẽ lệ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu và làm trầm trọng thêm sức ép giá cả trên thị trường, thêm vào đó, việc phải lần lượt trình giá sản xuất cho từng nhà chức trách là bất hợp lý. Chúng tôi khẩn xin chính phủ xem xét lại điều luật quan trọng này.”

Trong bản tin được xuất bản vào thứ tư, báo Saigon Tiếp thị trích dẫn lời của luật sư Trương Thanh Đức rằng có nhiều điều khoản cần được xem xét lại. Chẳng hạn như, bản dự thảo về luật giá cả cho rằng các doanh nghiệp chỉ được cho phép thay đổi giá khi có những thay đổi về mức cung cầu hay giá nguyên liệu. Điều này có nghĩa là không được phép bán hàng thanh lý hay giảm giá như một chiến lược kinh doanh.

Page 15: Translation 1 (E-V)

Article 7: Tourism sector hit by global financial crisis

Vietnam received 3.9 million foreign arrivals so far this year, according to the General Statistic Office (GSO). The number of visitors from mainland China, Singapore, Thailand and Malaysia increased by 14.7 percent, 14 and 13.5 percent respectively, compared with the same period of last year. However, the number of visitors from countries and territories that have often had higher volumes has decreased. The country saw, for example, a reduction of 5.9 percent from Japan, 3.5 percent from South Korea and 3.1 percent from Taiwan. A sharp drop in the number of visitors from other high-income countries, such as the US and Canada, is also causing great concern within the tourist industry.

Visitors from high-income markets account for 40 percent of the total number of foreign arrivals. Therefore, the Vietnam National Administration of Tourism’s (VNAT) Travel Deparment has a referred to the current situation as “quite serious”. A decline in the number of foreign arrival in Vietnam during recent months due to the global financial crisis will seriously hinder the tourism industry in achieving its set target of 5 million foreign arrivals was 339,000 in August, 315,000 in September and 297,000 in October. The GSO said that the country received only 279,000 foreigners thus far in November, a further reduction from last month. The commitant fall in hotel room occupancy is also worrisome. Many luxury hotels reported room occupancy rates of only 55 percent in the past ten months, 10-15 peprcent lower than the rate recorded during the same period last year.

“ if this situation continues, it will be impossible for Vietnam to welcome 5 million foreign visitors, including 3.6 million tourists, the target it has set for this year”, said VNAT deputy director Nguyen Manh Cuong. Although the global financial crisis and economic recession are regarded as the main culprits for the decline, there were additional factors behind the drop in overseas visitors, including natural disasters, floods, weak infrastructure, and the low quality of guides and services provided by the hospitality sector, Cuong said. Struggling in the current climate, both State-owned and private travel companies, including Hanoitourist, Saigontourist, Vietmark and Lotussia Travel, are striving to offer new products, while also adopting new marketing strategies to attract new tourists. They have also been advised to explore new markets.

To help give impetus to the industry, the Government has agreed to provide VND 30 billion (USD 1.93 million) for a range of promotional activities. The Ministry of Culture, Sports and Tourism has approved a plan to advertise images of Vietnam on the BBC, and it is palnning to further build on this approach by promoting the country’s natural beauty via other worldwide television channels. The UN World Tourism Organization predicted that the global tourism industry would remain static during 2009 before rebouding in 2020.

Retrieved from VN Economic News

Page 16: Translation 1 (E-V)

ARTICLE 7: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TOÀN CẦU GÂY ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGÀNH DU LỊCH

Theo tổng cục thống kê, chỉ tính trong năm nay, Việt Nam đón hơn 3.9 triệu du khách nước ngoài. Trong đó số du khách đến từ Trung Quốc đại lục tăng 14.7%, Singapore 14.3%, Malaysia 13.5% so với cùng kì năm ngoái. Tuy nhiên, lượng du khách đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thường chiếm số lượng cao lại giảm xuống. Ví dụ như Nhật giảm 5.9%, Hàn Quốc giảm 3.5%, Đài Loan giảm 3.1%. Thêm vào đó, lượng du khách đến từ các nước có thu nhập cao như Mỹ và Canada giảm mạnh cũng gây lo ngại cho ngành du lịch.

Những du khách đến từ các nước phát triển chiếm 40% tổng lượng du khách nước ngoài đến Việt Nam. Vì vậy, Tổng cục du lịch Việt Nam nhận xét ngành du lịch hiện nay đang trong tình trạng hết sức nghiêm trọng. Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, lượng du khách nước ngoài giảm trong 3 tháng gần đây sẽ gây trở ngại lớn cho ngành du lịch khi đặt ra chỉ tiêu đạt mức 5 triệu lượt khách nước ngoài vào năm nay. Lượng du khách giảm ở mức báo động vào tháng 6, và chiều hướng xấu này sẽ vẫn còn tiếp tục trong thời gian tới. Tổng cục du lịch Việt Nam phát biểu lượng khách nước ngoài là 339.000 lượt vào tháng 8, 315.000 lượt vào tháng 9 và 297.000 lượt vào tháng 10. Tổng cục thống kê công bố rằng Việt Nam chỉ đón 279.000 lượt khách nước ngoài vào tháng 11, giảm mạnh so với tháng trước. Song song đó, lượng đặt phòng khách sạn giảm cũng gây nhiều lo ngại. Nhiều khách sạn lớn cho biết tỉ lệ đặt phòng chỉ có 55% trong 10 tháng qua, thấp hơn từ 10-15% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ông Nguyễn Mạnh Cường, phó giám đốc Tổng cục du lịch Việt Nam nhận xét: “Nếu tình trạng này kéo dài, Việt Nam sẽ không thể đón 5 triệu lượt khách nước ngoài, trong đó lượng du khách chiếm 3.5 triệu lượt như chỉ tiêu đã đề ra vào năm nay”. Ông Cường phát biểu: “Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu được xem là nguyên nhân chính khiến ngành du lịch suy yếu, bên cạnh đó vẫn còn nhiều nguyên nhân khác như thiên tai lũ lụt, cơ sở hạ tầng kém phát triển, chất lượng hướng dẫn du lịch và dịch vụ thấp.”

Để vượt qua tình trạng hiện tại, các công ty du lịch nhà nước lẫn tư nhân, bao gồm Hanoitourist, Saigontourist, Vietmark và Lotussia, đang cố gắng cung cấp nhiều gói dịch vụ mới, áp dụng những chiến lược quảng cáo để thu hút nhiều du khách cũng như tìm thêm thị trường.

Để thúc đẩy ngành du lịch phát triển, chính phủ đã chi 30 tỉ VND (1.39 triệu đô la) cho các hoạt động quảng bá du lịch. Bộ Văn hóa thể thao và du lịch vừa phê chuẩn một kế hoạch quảng bá hình ảnh Việt Nam trên kênh BBC và dự định giới thiệu vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước thông qua các kênh truyền hình khác trên thế giới. Tổ chức du lịch thế giới dự đoán rằng ngành du lịch toàn cầu sẽ vẫn duy trì tình trạng này trong suốt năm 2009 trước khi khôi phục lại vào năm 2010.

Theo Tin tức kinh tế Việt Nam

Page 17: Translation 1 (E-V)

Article 8: Quality Service comes from Quality People

By : Robert H.Kent, Ph.D, CMC

International restauranteur and entrepreneur Oscar Grubert once told me “Serve a thousand good meals, and nobody says a thing. But serve just one poor meal, and a thousand people know about it!” customers are notoriously fickle. And today, success in the service industry goes beyond the quality of the food, or the cleaniness of a hotel or the presentation of merchandise. The more critical element in service quality is the personal service provided by each and every employee.

A case in point is Taco Bell, the large fast food in chain. Its current success, surpassing McDonald’s in financial return and growth, is largely due to its emphasis on careful selection. Thorough training and enlightened coaching of its customers service peronnel, as opposed to an emphasis on food quality or preparation. Taco Bell discovered that customer satisfaction and loyality are directly tied to both the quality and the longevity of its service personnel.

The American Department of Consumer Affairs reports a strong link between resolving customers problems on the spot and the customer’s intent to repurchase. 95 percent of customers who experience service problems remain a loyal customer if their complaints are solved speedily. Slow resolution of service problems drives customers away.

My office in Phonetix had some annoying service problems with one of those humungous US telephone companies. The irritaion lingered for 5 months of bureaucratic run around. In desperation I contacted the presidnet of the phone company directly and instantly the problem was resolved. But that annoyed me even more because I had to climb to the top of the company to get satisfaction. Despite the president’s quick response, I know the odds are slim I’ll deal with them again. And as Oscar predicted, I’ve told a thousand people about it!

Companies can have gliches providing their service. We can live without that. But when the business doesn’t let its own employees solves simple customer to ensure high quality service, our confidence disappears.

Yet the norm for so many service industry companies has been to make service personnel an endangered species. Most service employees are part-times who work in dead end jobs for minimum wages and minimal benefits. As a result there is little loyalty to the employer and even the most conscientious service employees become disillusioned. They soon leave, and the mediorce hang on until they’re fired- and the cycle begins again, frequently with less qualified people than before.

Empowering service personnel to make better decisions on the job, as Taco Bell found, requires hiring better people, giving them better direction, creating career opportunities, and training them to identified and satisfy customer needs.

Page 18: Translation 1 (E-V)

Article 8: nhân viên giỏi sẽ đem lại chất lượng phục vụ tốt

Oscar Grubert, nhà doanh nghiệp kiêm chủ hệ thống nhà hàng thế giới, có lần đã nói với tôi rằng “Phục vụ cả ngàn bữa ăn ngon thì không ai nói gì, nhưng chỉ cần một lần dở thì cả ngàn người sẽ biết!” Khách hàng là những người khét tiếng hay thay đổi. Ngày nay, thành công trong ngành dịch vụ không chỉ dừng lại ở chất lượng thực phẩm, vệ sinh của nhà hàng hay cách trình bày món ăn, mà còn phụ thuộc vào chất lượng phục vụ của mỗi nhân viên.

Lấy ví dụ về trường hợp của Taco Bell, chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh có quy mô lớn. Thành công hiện nay của Taco Bell còn vượt trội hơn McDonald’s cả về lợi nhuận lẫn quy mô phát triển; bên cạnh việc phân tích chất lượng thực phẩm và quy trình chế biến, thành công của Taco Bell phần lớn nhờ vào việc phân tích sự lựa chọn nhân viên một cách cẩn thận, đào tạo tỉ mỉ và huấn luyện nhân viên về chăm sóc khách hàng. Công ty phát hiện rằng sự hài lòng và trung thành của khách hàng gắn liền với chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng. Bộ tiêu dùng Hoa Kỳ khẳng định rằng việc giải quyết những vấn đề của khách hàng với việc ủng hộ lại sản phẩm có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. 95% khách hàng từng có vấn đề với dịch vụ sẽ vẫn trung thành với sản phẩm nếu lời phàn nàn của họ được giải quyết nhanh chóng. Ngược lại giải quyết vấn đề chậm sẽ làm khách hàng bỏ đi.

Văn phòng của tôi ở Phoenix gặp vài vấn đề phiền phức với 1 trong những công ty viễn thông lớn của Mỹ. Vấn đề kéo dài 5 tháng vì bị trì hoãn trong thủ tục quan liêu. Tôi tuyệt vọng liên lạc trực tiếp với chủ tịch của tập đoàn và kì lạ thay, ngay tức khắc vấn đề được giải quyết. Nhưng điều gây phiền phức cho tôi hơn là việc phải lên gặp lãnh đạo công ty để làm hài lòng họ. Mặc dù ngài chủ tịch đã trả lời ngay, tôi biết tôi không có nhiều lợi thế khi đàm phán với họ lần nữa. Và như Oscar dự đoán, tôi đã phải giải thích với cả ngàn người về vấn đề đó.

Khi các công ty có 1 vài trục trặc kỹ thuật nhỏ trong dịch vụ của họ, chúng ta có thể chấp nhận được. Nhưng khi doanh nghiệp không để nhân viên của họ tự giải quyết những vấn đề đơn giản trong việc chăm sóc khách hàng, chúng ta sẽ mất lòng tin vào họ.

Nguyên tắc cho nhiều công ty ngành dịch vụ là yêu cầu nhân viên chăm sóc khách hàng như thượng đế. Hầu hết các nhân viên thời vụ trong ngành dịch vụ phải làm việc quá sức nhưng chỉ nhận được mức lương và trợ cấp tối thiểu. Điều này dẫn đến việc nhân viên ít trung thành với ông chủ, ngay cả những nhân viên tận tâm nhất. Một số người sẽ nghỉ việc sớm, một số khác tệ hơn thì cố kiên trì với công việc cho đến khi họ bị đuổi- và cái vòng lẩn quẩn cứ lặp lại, với những nhân viên không giỏi bằng những người trước đó.

Các công ty nên trao quyền quyết định công việc cho nhân sự, như Taco Bell đã làm, thuê nhân viên có chất lượng hơn, cho họ 1 định hướng tốt hơn, tạo cơ hội việc làm và đào tạo họ nhằm xác định và làm hài lòng nhu cầu của khách hàng.

Theo tiến sĩ Robert H.Kent

Page 19: Translation 1 (E-V)

ARTICLE 9: INDIA TOURS

When one is thinking about the tourist destinations or a place for vacation, India would be sure to hit the list. India is rich in cultural heritage, prosperous culture, flora and fauna and generous people. Known for unity in diversity, India is known for equity among people of changing culture from one city to another. India tours allow you to enjoy unique cultural, regional, religious, natural and geographical diversities. Travel to India and see what makes India incredible in a real sense. This country offers many attractions and interesting places that interests tourists. Some of the tourist attactions of the country are Rajasthan-rich in monuments, Kerala-breathtaking beaches and backwaters, Kashmir-Paradise on earth, Agra-Taj mahal, first wondeer of world, Goa-land of sun, sand and sea, Himachal Pradesh-a charming and captivating state and many more.

Once you plan your holiday to India, you will make frequent tours to India. This tourist destination is immensely rich in culture, tradition, historic places, nature, landscape religion and lovely people. This is the liveliest place to visit and its culture and tradition makes it a prominent name globally. Whether you are a historian at heart who would love to see the stories etched in stone or a jungle beast who would love to trail tigers and follow birds, India offers you unending excitements in your tours to India.

Explore India tourism and India holiday packages to enjoy bounties of nature as India is blessed with beauty of nature. Indian land is gifted with plenty of natural wonders like serene sandy beaches, rich wildlife, beautiful hill stations and sightseeing peaceful places. Holidays to India is experience great time making visits to mystique of the country which is distinct and historical monuments which India is profusely rich in.

India caters some of the best facilities of local guides, best restaurants, hotels, rails and roads, airways and lot more. Witness the treasures of India by visiting exotic places, magnificent palaces, shimmering beaches, fantabulous monuments, awesome forts, pilgrimage sites, blazing deserts and various fascinating attractions that tourists would love to visit.

Paul is an expert adviser for traveling having years of experience in the Travel industries. We offering the numerous budget tours to India, Backwater tours Kerala, book your ticket in advance so you will not face any problem at the last moment.

Page 20: Translation 1 (E-V)

ARTICLE 9: DU LỊCH ẤN ĐỘ

Nếu bạn đang tìm một điểm đến cho kỳ nghỉ của mình thì Ấn Độ là sự lựa chọn không tồi. Ấn Độ là một đất nước với nền văn hóa phong phú, giàu di sản văn hóa, có quần thể động thực vật đa dạng, và người dân vô cùng mến khách. Ấn Độ nổi tiếng với nền văn hóa độc đáo và đa dạng từ thành phố này sang thành phố khác. Hãy đến với Ấn Độ để tận hưởng sự đa dạng và độc đáo từ mỗi vùng miền, phong cảnh thiên nhiên,cũng như những nền văn hóa, tôn giáo. Đến với Ấn Độ và tận mắt khám phá những điều lạ kỳ. Đất nước Ấn Độ với nhiều địa điểm thú vị thu hút du khách du lịch như Rajasthan với nhiều khu lăng mộ, Kerala với những bãi biển và hồ nước hấp dẫn, Kashmir được ví như thiên đường trên trái đất, Agra với đền Taj mahal kì quan thế giới, Goa-nắng vàng, biển xanh và cát trắng, Himachal Pradesh vùng đất đầy quyến rũ mê hoặc và nhiều hơn nữa đang chờ bạn khám phá.

Chỉ cần 1 lần đến với Ấn Độ, bạn sẽ muốn trở lại đây thêm nhiều lần nữa. Đây là điểm đến lý tưởng với nền văn hóa phong phú, truyền thống lâu đời, những địa danh đi vào lịch sử, cùng phong cảnh thiên nhiên xinh đẹp và người dân vô cùng dễ mến. Đây là nơi tuyệt vời nhất để bạn dừng chân bởi nền văn hóa và truyền thống Ấn Độ nổi tiếng trên toàn thế giới. Nếu bạn thích nghiên cứu lịch sử, yêu những câu chuyện khắc trên đá, hay muốn làm một con thú trong rừng thích theo dấu hổ, dõi theo những cánh chim, bạn sẽ được tận hưởng những điều kì thú bất tận trong chuyến đi đến Ấn.

Hãy đặt ngay một chuyến du lịch đến Ấn để tận hưởng những tặng vật từ thiên nhiên từ đất nước này. Ấn Độ được trời phú cho những kì quan thiên nhiên phong phú như những bãi biển thanh bình, cuộc sống hoang dã phong phú, những đồn binh xinh đẹp trên đồi và những thắng cảnh yên bình. Kỳ nghỉ đến Ấn Độ là một lựa chọn sáng suốt nếu bạn dự định đi cùng gia đình hoặc người yêu. Bạn sẽ được trải nghiệm khoảng thời gian tuyệt vời với những chuyến thăm thú kì bí tại vô số những khu lăng mộ mang tính lịch sử hết sức độc đáo.

Với những cơ sở vật chất tốt nhất tại địa phương dành cho khách du lịch, khách sạn và nhà hàng nổi tiếng nhất, đường sắt, đường bộ lẫn đường hàng không thuận tiện và nhiều tiện nghi khác. Khi tận mắt chứng kiến những kho báu của Ấn Độ bằng cách viếng thăm những công trình kiến trúc nước ngoài, những cung điện tráng lệ, bãi biển và sa mạc rực rỡ, những lăng mộ, pháo đài với thiết kế cực kì tuyệt vời, những nơi hành hương và còn vô số những điều hấp dẫn khác chắc chắn sẽ làm hài lòng du khách.

Paul là một chuyên gia tư vấn du lịch có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành. Ông chia sẻ: “Công ty chúng tôi vừa cho ra mắt những tour giá rẻ đến Ấn Độ, Kerala. Để không gặp phải rắc rối vào phút chót, bạn hãy đặt vé trước cho chúng tôi.”