THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO - caodaism.net DAO TAM KY CHI HANH.pdf · Xưa Đức PHẬT THÍCH CA...
Transcript of THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO - caodaism.net DAO TAM KY CHI HANH.pdf · Xưa Đức PHẬT THÍCH CA...
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
1
THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO
QUYỂN HẠ
PHẨM THƯỢNG THỪA
Chương một: Minh đường trúc cơ.
Chương hai: Công đức trúc cơ.
Chương ba: Sơ thiền luyện kỷ trúc cơ.
Chương bốn: Nhị thiền bách nhựt trúc cơ.
Chương năm: Tam thiền thập ngoạt hoài thai.
Chương sáu: Tứ thiền tam niên nhũ bộ.
Chương bảy: Ngũ thiền cửu niên diện bích.
Chương tám: Chân ý.
Chương chín: Huyền quan Tổ khiếu.
Chương mười: Chánh pháp.
Chưpng mười một: Tam bửu.
Chương mười hai: Châu thiên vận.
Chương mười ba: Tịch chiếu.
Chường mười bốn: Chân hỏa hầu.
Chương mười lăm: Chân lư đảnh.
Chương mười sáu: Chân thai tức.
Chương mười bảy: Phục qui Thái cực.
Chương mười tám: Bổ túc.
---oOo---
Lời nói đầu
Thánh Kinh Đại Đạo quyển hạ này thuộc phẩm Thượng Thừa,
nhằm hướng dẫn cho hàng tu học nhận chân được những phần
trọng yếu trong công phu Thiền định, hầu tiến lên đoạt phẩm Chánh
giác.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
2
Nội dung quyển Thánh Kinh nầy là do sự tuyển tập nhiều quyển
Chân kinh thuộc phẩm Thượng thừa, rồi sắp xếp phân định lại
thành chương mục như 18 chương đã kê ở trang trước.
Nay, thời Cực bỉ đã gần cáo chung, thời Cực thái Thánh đức sắp
mở màn, tất nhiên nền Chánh đạo cũng được chấn hưng cao độ,
ứng hiệp với Thiên cơ sáu muôn năm mới có một kỳ.
Công trình chấn hưng nền Chân đạo trong thời kỳ nầy vô cùng
trọng đại, nên vừa có cơ Chấn hưng vừa lập ra Tam hội Long Hoa,
ứng hiệp với Tam kỳ phổ độ.
Chủ đích là tận độ các Linh căn đã bị đắm chìm nơi dục hải qua vô
số kiếp!
Còn tại thế gian thì dựng nên đời Thánh đức thượng ngươn, có
cuộc sống như nước Cực Lạc.
Công trình chấn hưng nền Chánh đạo kỳ này có được một đại
hồng ân của Đức Diêu Trì Kim Mẫu ban cho Kim bàng Ngọc lộ.
Lại do đức Thái Cực Thánh Hoàng làm chủ nền Chân đạo, có Tam
giáo tòa chấp chánh, có Chư Phật và chư Tiên, cùng bốn ức Nguyên
nhân lâm trần để lo cơ giác mê khải ngộ.
Thật là một thời kỳ đại hi hữu.
Cũng nhờ đó mới có nhiều phẩm Chân kinh xuất hiện từ Trung
Quốc và Việt Nam chúng ta.
Nội dung các quyển Chân kinh đó nhằm xướng minh Chánh lý âm
dương Tánh mạng song tu, quan trọng nhất là pháp môn, như nhà
Nho thì có Thủy Hỏa Ký Tế, nhà Tiên có dĩ Thần ngự khí, nhà
Thích có Chánh pháp nhãn tạng.
Chánh pháp chỉ có một, tuyệt đối không hai.
Thế kỷ này là thời cuối cùng của Cực bỉ, nên có nhiều tà đạo hiện
diện khắp cùng, tà pháp cũng xuất phát từ đó.
Tà đạo là những mối đạo có sứ mệnh hỗ trợ cho nền Chánh đạo.
Còn tà pháp là để phân biệt căn duyên của những người trong giới
tu hành.
Là điều rất quan trọng, cần phải nhận chân.
Nha Trang, ngày rằm tháng 5 năm Mậu Dần, 1998.
---oOo---
THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
Phẩm Thượng Thừa ---oOo---
Chương Một
MINH ĐƯỜNG TRÚC CƠ
Cổ Thánh nói: Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhơn đạo, Nhơn đạo bất
tu, Tiên đạo viễn hỉ.
Lại còn nói: Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên.
Dịch kinh có quẻ Phong Hỏa Gia Nhân là mối đạo nhỏ của Nhơn
đạo, Thánh nhân dạy:
Gia nhân, nữ chánh vi hồ nội, nam chánh vi hồ ngoại. Nam nữ
chánh, Thiên địa chi dại nghĩa dả. Gia nhân hữu nghiêm quân yên,
phu mẫu chi vị dả. Phụ phụ, tử tử, huynh huynh, đệ đệ, phu phu,
phụ phụ, nhi Gia đạo chánh. Chánh gia nhi thiên hạ định hỉ.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
3
Gia nhân là một mối đạo nhằm xây dựng nên những gia đình đạo
đức gương mẫu trong xã hội loài người.
Trong gia đình nữ giới chính là người chịu hoàn toàn trách nhiệm
trong gia đình.
Trách nhiệm đó là nuôi dạy con, và đảm đang tất cả mọi việc trong
gia đình.
Còn nam giới thì đảm nhận tất cả mọi việc bên ngoài, như lo xây
dựng về sự nghiệp tinh thần đạo đức, như lo kinh doanh nền kinh tế
gia đình, như lo việc nước.
Cả hai đều đã hoàn thành trách nhiệm của mình, đó là đúng với
nghĩa cả của Trời đất vậy.
Gia đình có bậc nghiêm quân tức là cha mẹ. Làm cha hay làm mẹ
phải hội đủ ba đức tính là nghiêm, minh và từ.
Có nghiêm mới chế ngự được những phần tử trong gia đình sai
phạm Gia qui.
Có minh mới làm cho những thành viên có công được khen
thưởng, mới răn dạy đúng cho những kẻ có lỗi lầm.
Có từ mới làm cho tất cả những thành viên trong gia đình kính
mến.
Cha mẹ nào giữ tròn ba đức tính, đó là hàng đệ nhất đẳng Nghiêm
quân.
Cha mẹ nào chỉ giữ được có hai đức tính, đó là hàng đệ nhị đẳng
Nghiêm quân.
Cha mẹ nào chỉ giữ được có một đức tính, đó là hàng đệ tam đẳng
Nghiêm quân.
Còn cha mẹ nào mất cả ba đức tính, tức là hàng gia quân vô dụng.
Trong gia đình, cha phải thực hiện cho đúng cái đạo của cha, con
phải giữ tròn cái đạo của con, anh phải giữ tròn cái đạo của anh, em
phải giữ tròn cái đạo của em, chồng phải giữ tròn cái đạo của
chồng, vợ phải giữ tròn cái đạo của vợ.
Cả thảy các thành viên trong gia đình, mỗi một đều làm tròn cái
đạo của mình, tức là thành một gia đình có Gia đạo chân chánh.
Tất cả mọi người trong nước đều được như vậy, thì nước nhà trở
nên thái bình an định.
Nhơn đạo là đạo làm người. Cổ nhân có minh định: Nhơn đạo có
ngũ luân, ngũ thường và mười đức tính căn bản con người.
Ngũ luân là: quân thần, phụ tử, huynh đệ, phu phụ, bằng hữu.
Quân là mỗi nước có một nguyên thủ, vị nầy phải là bậc đại đức và
đại tài.
Thần là những người phụ trách những bộ phận trong chánh phủ,
cũng phải là người có đức có tài, nhất là phải trung với nước.
Thần còn là nhân dân, cũng phải trung với nước.
Cha có đức từ là chính, con lấy đức hiếu làm đầu.
Làm anh phải thương em, làm em phải kính mến anh. Làm chồng
làm vợ phải kính nhau như khách, phải giữ vẹn tinh thần thủy
chung như nhất, và vợ chồng phải có sự phân biệt tốt đẹp.
Là bằng hữu phải giữ vẹn chữ tín.
Cha con, anh em vốn hệ thuộc Thiên luân, nên tuyệt đối không
được từ biệt nhau.
Còn quân thần, phu phụ và bằng hữu, vốn hệ thuộc Nhơn luân,
nên có thể thay đổi.
Chỉ có vị Chân sư là bậc tối cao tối trọng.
Ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nhân là lòng thương yêu cả người lẫn vật.
Nghĩa là làm đúng lẽ phải.
Lễ là nếp sống văn minh đạo đức.
Trí là sự hiểu biết rành mạch.
Tín là lòng tin, không hề giả dối.
Còn mười đức tính chính là: hiếu, trung, liêm, trinh, sĩ, để và
công, ngôn, dung, hạnh.
Hiếu là lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ.
Trung là lòng trung thành đối với tổ chức và Tổ quốc, cao nhất là
đối với Chánh đạo.
Liêm là đức thanh liêm, vật vô nghĩa bất thủ.
Trinh là tinh thần chân chánh.
Sĩ là sự hỗ thẹn khi làm nên tội lỗi.
Để là sự hòa thuận với mọi người.
Công là phải lo cho mình có nghề nghiệp.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
4
Ngôn là giữ lời nói đúng với cõi lòng an tịnh.
Dung là hạnh nết, là tác phong tốt.
Hạnh là người biết về lễ đối ngoại.
Dịch lý còn có cái đạo Sơn Phong Cổ:
Cổ là con mọt, gây sự hủy hoại cho ngôi nhà bằng gỗ, Thánh nhân
mượn để ví cho người cha hay mẹ, vì điều kiện nào đó khiến cho
nền kinh tế gia đình bị sụp đổ, nên gọi là Cổ.
Cổ tức phải có người con đứng lên cán đáng, gọi là Cán cổ. Cũng
như một quốc gia vì nguyên nhân nào đó, mà tất cả mọi sự nghiệp
chung nào đó bị sụp đổ. Sụp đổ tức có một số người có đức có tài
đứng ra xây dựng lại, cũng gọi Cán cổ.
---oOo---
Chương Hai
CÔNG ĐỨC TRÚC CƠ
Công đức trúc cơ, là tự mình kiến tạo nên một nền tảng về công
đức.
Công đức là cái đức được thể hiện nơi công chúng, như tế khổn
phò nguy, như tế nhơn lợi vật, như cứu đói trợ nghèo, như xả thân
giải cứu tử nạn.
Công đức cao nhất là Thí pháp.
Xưa Đức PHẬT THÍCH CA có hỏi ông A NAN: Giả như có một
người giàu có, của cải chất đầy tam thiên thế giới, và nuôi tất cả
mọi người nơi tam thiên đại thiên thế giới suốt đời. Vậy công đức
đó có lớn không?
A Nan bạch rằng: Công đức đó không lớn, vì chỉ nuôi sống tất cả
mọi người trong tam thiên đại thiên thế giới chỉ có một kiếp. Chí có
công đức Thí pháp mới vô lượng vô biên, vì đã giúp cho những
người tu hành được sống mãi mãi, tức là trường sinh bất tử.
Công đức Thí pháp có nhiều bậc, như chính công Thí pháp là sứ
mệnh của các bậc Chân sư, là trực tiếp đem Chánh pháp ra chí giải,
bằng cách khẩu khẩu tương truyền, hoặc bằng cách trước tác ra
kinh sách.
Thứ đến là hỗ tương Thí pháp.
Hỗ tương thí pháp có phần khác hơn Chính công thí pháp. Cụ thể
là không được đem Chánh pháp trao truyền cho bất cứ một ai, mà
chỉ đem những phần phụ thuộc của Chánh pháp ra nói cho những
người có thiện căn, hoặc diễn giải nơi thư tịch.
Công đức hỗ trợ thí pháp, như trên đã nói là hai công đức. Còn
một công đức thứ ba là bỏ tiền ra ấn tống những kinh thư có nội
dung giác mê khải ngộ, loại trừ tà pháp, hướng về Chánh pháp, để
gúp cho những người có thiện căn, có chí nguyện, được thành công
trên đường tu hành.
Công đức thí pháp, hỗ trợ thí pháp, là diệu phương giúp người tu
hành mau thành Chánh quả.
Người tu hành mà không lập công trên phương thí pháp hoặc hỗ
trợ thí pháp, thì dù cho có tu đến muôn kiếp cũng khó thành.
---oOo---
Chương Ba
SƠ THIỀN LUYỆN KỶ TRÚC CƠ
Có bài:
Tu hành luyện kỷ tối vi tiên,
Tuyệt dục, vong tình, khước vạn duyên,
Lục tặc, tam bành giai tiễn diệt,
Càn càn tịnh tịnh nhất Đơn điền.
Thích nghĩa:
Luyện kỷ là công phu đầu tiên của cơ Thiền định.
Luyện kỷ là luyện cho tâm nội thật hư không.
Là tâm không còn phát động, tuyệt vô vọng niệm, dần dần đến cao
tột là Ly hóa thành Càn. Luyện được tâm Càn, mới mong tuyệt dứt
được lòng tham muốn tư riêng, mới mong quên hết tục tình, mới
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
5
mong từ bỏ mọi mối trần duyên. Sáu giặc là nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt,
thân, và ý vọng ngoại, cùng hằng động, cũng được loại trừ.
Tam bành là tham, sân, si, cũng dần dần tiêu.
Si là do phần trí bị bệnh, như vậy si là thức thần, là thần tư lự
niệm tưởng.
Si là nguồn phát sinh hằng ngàn chứng bệnh của tâm. Chữa lành
chứng bệnh si thì tất cả các chứng bệnh khác của tâm sẽ dần dần
thuyên giảm. Chữa lành chứng bệnh si chỉ có bác sĩ Chân tri mới trị
được thành công, ngoài ra đều vô ích.
Càn càn là thuần dương, tịnh tịnh là khử trược lưu thanh. Tức là
dùng Chân hỏa thường trực huân chưn nơi Đơn điền.
Có luyện kỷ thuần thục, mới cầu được Chân dược.
Có bài:
Tiên thả quan Thiên minh ngũ tặc,
Thứ tu sát đại dĩ an dân,
Dân an quốc phú đương cầu chiến,
Chiến bãi phương năng kiến Thánh nhân.
Chú thích:
Lời của bài thi này là gom lại mà nói về việc Luyện kỷ để cầu đơn
dược.
Thiên hữu ngũ tặc, kiên chi giả xương, là lời xuất xứ từ âm phù
kinh.
Trời có năm loại giặc: Cuồng phong, bạo vũ, cực nhiệt, cực hàn và
giá băng.
Luyện kỷ thật thuần thục, nên chẳng còn động tâm vì 5 loại giặc
trên.
Thứ đến mới quán sát đến Khôn cung, là luyện cho thận căn bất
động và tinh khí không còn bị tẩu lậu (an dân).
Thận căn được an tịnh, thì có hiện tượng hai khí âm dương giao
chiến để được phục qui Thái cực, thì cuộc chiến của hai khí âm
dương được chấm dứt, và Cốc thần xuất hiện nên gọi thấy được bậc
Thánh nhân.
Chữ quốc phú là nói về Chân khí Tiên thiên được sung mãn nơi
Tổ khiếu huyền quan.
Cầu chiến nơi Thận cung là tâm nguyện của người Tu sĩ trong thời
gian công phu Thiền định.
Thể dược qui lư phải lo Luyện kỷ.
Có bài:
Bạch hổ thủ kinh chí bửu,
Hoa trì Thần thủy Chân kim,
Cố trì thượng thiện lợi nguyên thâm,
Bất tỷ tầm thường dược phẩm,
Nhược yếu tu thành cửu chuyển,
Tiên tu Luyện kỷ trì tâm,
Y thời thể thủ định phù trầm,
Tấn hỏa tu phòng nguy thậm.
Bạch hổ là khí Chân diên nơi thận cung, một vật vô cùng quí giá.
Con người, khí nầy được sung mãn tức vô lậu, Qui túc đã thành,
dâm căn tự rút, sức khỏe sẽ tăng trưởng, tinh thần dần dần linh mẫn.
Hoa trì là Khí hải, nơi phát sinh Thần thủy là loại Chân khí.
Thượng thiện là đức lành cao tột, là nguồn lợi cho thận căn.
Tu sĩ nữa muốn tu thành cửu chuyển, tức là Chân kim Tiên thiên
nhất khí, tức phải lo cho công phu Luyện kỷ thật thành thục.
Lại phải nương theo thời thể dược, tức là lúc dược sanh phải thể
thủ qui lư, Phù là lúc phát sinh, trầm lúc tinh khí chìm xuống.
Tấn dương hỏa và thối âm phù phải dụng công đúng bán văn bán
võ, mới tránh được sự nguy hiểm.
Ngộ Chân Thiên có 12 bài Luyện kỷ như sau:
Bài số 1:
Vọng tưởng bất tu cưỡng diệt,
Chân như hà tất hi cầu.
Bản nguyên tự tánh Phật tề tu.
Mê ngộ khởi câu tiền hậu.
Ngộ tắc sát na thành Đạo.
Mê hề vạn kiếp luân lưu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
6
Nhược năng nhất niệm khế chân tu.
Diệt tận hằng sa tội cấu.
Tạm dịch:
Vọng tưởng chớ nên vội vã dứt.
Chân hư hà tất luống mong cầu.
Cội nguồn tự tánh Phật đồng tu.
Mê cùng ngộ nài chi sau trước.
Suốt thông ắt một phút thành Đạo.
Mê muội thì muôn kiếp trầm luân.
Nếu được một niệm hạp Chân tu.
Tức dứt sạch hằng sa tội lỗi.
Bài số 2:
Bổn thị vô sanh vô diệt.
Cưỡng tác sanh diệt khu phân.
Chỉ như tội phúc diệc vô căn.
Diệu thể hà tằng tăng tổn.
Ngã hữu nhất luân minh cảnh.
Tùng lai chỉ vị mông hôn.
Kim triêu ma huýnh chiếu Càn khôn.
Vạn tượng chiêu nhiên nan ẩn.
Tạm dịch bài số 2:
Chân tánh vốn không sanh không diệt
Chỉ vì động phát mới chia riêng.
Vốn một gốc nên không tội phúc.
Bổn thể nhiệm mầu chẳng bớt thêm.
Chân tâm vốn tợ trăng tròn vẹn.
Nhưng đã từ xưa mãi tối tăm!
Nay được rực sáng khắp Càn Khôn.
Vạn tượng hiển nhiên khó giấu kín.
Bài số 3:
Ngã tánh nhập chư Phật tánh.
Chư phương Phật tánh giai nhiên.
Đình đình hàn chương chiếu hàn tuyền.
Nhất nguyệt thiên đàm phổ hiện.
Tiểu tắc hào mao mạc thức.
Đại thời biến mãn tam thiên.
Cao đê bất ước tín phương viên.
Thuyết thậm đoản trường, thâm thiển.
Tạm dịch bài số 3:
Luyện cho tánh ta vào tánh Phật.
Tánh Phật mười phương vốn như nhiên.
Lồng lộng án trăng rọi suối thẳm.
Chỉ một mặt nguyệt chiếu khắp cùng.
Nhỏ trong hào li cũng khó biết.
Lớn soi khắp cả cõi tam thiên.
Cao thấp không hẹn tin vừa trọn.
Lời tột vắn dài với cạn sâu.
Bài số 4:
Pháp pháp pháp, nguyên vô pháp.
Không không không, diệc phi không.
Tĩnh, huyên, ngữ, mặc, bổn lai đồng.
Mộng lý hà lao thuyết mộng.
Hữu dụng, dụng trung vô dụng.
Vô công, công lý thi công.
Hườn như quả thục, tự nhiên hồng.
Mạc vấn như hà tu chứng.
Tạm dịch bài số 4:
Có pháp vì có, nguyên không pháp.
Không đến tột không, chẳng phải không.
Lặng, réo, nói, im, tự tánh đồng
Trong mộng sao nhọc lòng nói mộng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
7
Có dụng, trong dụng là vô dụng.
Không công, trong công là ra công.
Lúc nào trái chín tự nhiên hồng,
Chớ hỏi tu hành theo cách nào.
Bài số 5:
Thiện ác nhất thời vọng niệm.
Vinh khô đô bất quan tâm.
Hối minh, ẩn hiện, nhiệm phù trầm.
Tùy phận cơ xang, khát ẩm.
Thần tịnh trạm nhiên thường tịch.
Bất phòng tọa ngọa ca ngâm.
Nhất trì thu, thủy bích nhưng thâm.
Khinh động mạc kinh tẩn nhẩm.
Tạm dịch bài số 5:
Lành dữ một thời do vọng niệm.
Sống thác đều chẳng nên quan tâm.
Tối sáng, ẩn hiện, do (lòng) chìm nổi.
Tùy lúc đói ăn, khát lại uống (tự nhiên)
Thần tịch tịnh, lặng vậy thường tịnh.
Chẳng nệ câu ngồi đứng ca ngâm.
Ao thu nước biếc vẻ thâm thâm.
Lúc vi động chớ nên tư lự.
Bài số 6:
Đối cảnh bất tu cưỡng diệt.
Giả danh quyền lập Bồ đề.
Sắc không, minh ám, bổn lai tề.
Chân, vọng hưu phân lưỡng thể.
Ngộ tức tiện danh Tịnh độ.
Cánh vô Thiên trúc, Tào khê.
Thùy ngôn Cực lạc tại Thiên tây.
Liễu tức Di Đà xuất thế.
Tạm dịch bài số 6:
Đối cảnh vô tâm chớ cưỡng diệt.
Mượn danh tạm thời lập Bồ đề.
Sắc không, tối sáng, cùng tự tánh.
Chân vọng chớ nên chia hai thể.
Hiểu được đó là tâm Tịnh độ.
Cũng không Thiên trúc với Tào khê.
Ai nói Cực lạc tại Trời tây.
Tổ khiếu vẹn toàn Liên hoa trổ.
Bài số 7:
Nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả.
Ninh phân, bỉ thử, cao đê.
Pháp thân thông chiếu một ngô y.
Niệm niệm bất tu tầm mích.
Kiến thị hà tằng kiến thị.
Văn phi vị tất văn phi.
Tùng lại chư dụng bất tương tri.
Sanh tử thùy năng ngại nể.
Tạm dịch bài số 7:
Ta, người, chúng sanh với tuổi thọ.
Há chia đây đó với thấp cao.
Pháp thân soi thấu ta cùng người.
Niệm niệm chớ nên cầu tìm hỏi.
Thấy phải chứ ắt là thấy phải.
Nghe sai chưa ắt là nghe sai.
Từ xưa ứng dụng chẳng hòa hài.
Sanh tử nào hay trong trở ngại.
Bài số 8:
Trụ tướng tu hành bố thí.
Quả báo bất li Thiên nhân.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
8
Kháp như ngưỡng tiễn xạ phù vân.
Trụy lạc chỉ duyên lực tận.
Tranh tợ vô vi thực tướng.
Hườn nguyên phản phác qui thuần.
Cảnh vong, tình tận nhiệm Thiên chân.
Dĩ chứng vô sanh pháp nhẫn.
Tạm dịch bài số 8:
Nương tướng pháp tu hành bố thí.
Nhân nào quả nấy do Trời người.
Vừa lúc đưa tên bắn mây nổi.
Sa đọa vì do tâm thiện hao!
Thế nào là vô vi, thực tướng?
Chỉ về nguồn chất phác thuần lương.
Cảnh quên, tình dứt, hiện Chân tâm.
Tức được chứng vô sanh pháp nhẫn.
Bài số 9:
Ngư thố nhược hườn nhập thủ.
Tự nhiên vong khước thuyên đề.
Độ hà phiệt tử thượng Thiên thê.
Đáo bỉ tất giai di khí.
Cầu ngộ tu bằng ngôn thuyết.
Ngộ lai ngôn thuyết thành phi.
Tuy nhiên tứ cú thuộc vô vi.
Thử đẳng nhưng thu thoát lị.
Tạm dịch bài số 9:
Thể trọn hống diên về lư đảnh.
Là lúc nên quên hết pháp môn.
Thuyền tế độ, thang lên Tây vức.
Đến nơi rồi bỏ lại thuyền thang.
Cầu đạt đạo nương theo ngôn ngữ.
Chân tri rồi lời lẽ cũng quên.
Kim cang tứ cú vốn không tên.
Cũng phải đều bỏ quên tất cả.
Bài số 10:
Ngộ liễu mạc cầu tịch diệt.
Tùy duyên thả tiếp quần mê.
Đoạn thường tri kiến cập đề huề.
Phương tiện chỉ qui thực tế.
Ngũ nhãn, tam thân, tứ trí.
Lục độ vạn hành tu tề.
Viên quang nhất lỏa hảo Ma ni.
Lợi vật kiêm năng tự tế.
Tạm dịch bài số 10:
Người Chân tri chẳng cầu tịch diệt.
Vì phải tùy duyên độ chúng mê.
Chẳng còn tri kiến thật đề huề.
Năm mắt, ba thân và bốn trí. (1)
Lục độ, muôn hạnh lo tu trì.
Một đóa hào quang ấy Mâu ni.
Ba ngàn công đức phải thi vi.
(1) Còn phương tiện cũng về thực tế.
Chú thích bài số 10:
Ngũ nhãn: Thiên nhãn, huệ nhãn, nhục nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.
Tam thân: Thanh tịnh pháp thân, Viên mãn báo thân, Bách ức hóa thân.
Tứ trí: Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quan sát trí, Thành sở tai trí.
Lục độ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.
Bài số 11:
Ngã kiến thời nhân thuyết tánh.
Khẩu khoa, khẩu cấp thù cơ.
Cập phùng cảnh giới chuyển si mê.
Hựu dữ mê nhân hà dị.
Thuyết đắc tiện tu hành đắc.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
9
Phương danh ngôn hạnh vô khuy.
Năng tương huệ kiếm trảm Ma ni.
Thử hiệu Như Lai Chánh trí.
Tạm dịch bài 11:
Thấy giới thầy tu thuyết tánh tông.
Lời khoa, khẩu cấp, luống cầu công.
Lại vươn cảnh giới thành mê chứng.
Cùng với kẻ mê chẳng khác giòng.
Nói ra được, phải làm cho được.
Mới mệnh danh ngôn hạnh hanh thông.
Cầm gươm huệ trí chém Mâu ni.
Mới là bậc Như Lai Chánh trí.
Bài số 12:
Dục liễu vô sanh diệu đạo.
Mạc phi tự kiến Chân tâm.
Chơn thân vô tướng diệu vô âm.
Thanh tịnh pháp thân chỉ nhẩm.
Thử đạo phi vô phi hữu.
Phi trung diệc mạc cầu tầm.
Nhi biên cu khiển khí trung tâm.
Kiến liễu danh vi Thượng phẩm.
Tạm dịch bài 12:
Muốn đạt Đạo mầu chứng vô sanh.
Chẳng trong một thấy khối Chân tâm.
Chơn thân không tiếng cũng không tướng.
Chỉ nương về Thanh tịnh pháp thân.
Đạo này chẳng không cũng chẳng có.
Chẳng phải ở trong chớ kiếm tầm.
Nếu thiên nhị biên tức mất trung.
Suốt thông lý này là thượng phẩm.
Quyển KIM TIÊN CHỨNG LUẬN có bài Luyện kỷ:
Luyện kỷ là luyện cái tâm mê muội trở thành cái Tâm linh giác.
Cổ nhân luyện kỷ là luyện cho cái tâm được thanh hư, trung trực,
tuyệt nhiên vô niệm đến thuần nhất. Lấy cơ tịnh của Thái cực để tạo
nên cái tâm hồn nhiên, như tam tuế hài đồng.
Luyện cho tâm thật hư không, gọi là Tâm thuần dương, thuần
thiện, thuần chân vô ngã, gọi là Tâm linh giác. Tầm nầy không hề
dính mắc một điểm hình tích, hay âm thinh sắc tướng hữu vi. Cho
đến tam tâm tứ tướng cũng hoàn toàn không nhiễm vào tâm. Tâm
nầy thường còn dạo Trung, chẳng hề hệ thuộc vào thế giới đối đãi
nhị nguyên sanh tử. Luôn luôn lấy Chân động để độ tha.
Công phu Luyện kỷ có thành công, một phần lớn do ở công phu
Cách vật đến Chân tri. Chân tri là yếu tố quan trọng tạo nên Chân ý.
Công phu Thiền định có Chân ý mới thành.
Dịch lý có cơ Luyện kỷ Địa Thiên Thái, đại khái như sau … Nội
dương nhi ngoại âm, nội cương nhi ngoại nhu, nội kiện như ngoại
thuận…
Là luyện cho tâm được thuần dương, nên thành cái tâm cương
kiện. Tâm này vô cùng linh mẫn, thiện từ, tương tợ tâm Chân như.
Vì dương cương, vì kiên nghị, nên phú quí bất năng dâm, bần tiện
bất năng di, uy vũ bất năng khuất, không hề ba phải.
Còn luyện cho cái tánh ôn nhu, hòa thuận, ba phải, tợ như ngu
đần, không hề chống đối bất cứ một ai.
Luyện kỷ theo Đức LÃO TỬ là hư kỳ tâm. Tâm có hư thì phúc
mới thiệt.
Luyện kỷ theo NHO là tồn tâm dưỡng tánh, theo THÍCH là minh
tâm kiến tánh, theo TIÊN là tu tâm luyện tánh, theo Lục Tổ thì: Bồ
đề bổn vô thọ. Tâm phi minh cảnh đài. Bổn lai vô nhất vật. Hà dĩ
nhạ trần ai.
Luyện được cái tâm như trên đã nói, thì Chân khí mới qui tụ về
Đơn điền, rồi dùng pháp môn Thủy Hỏa Ký Tế dụng công một thời
gian không gián đoạn thì sẽ kết thành Chân xá lợi và đạt quả Sơ
chứng trường sinh bất tử.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
10
---oOo---
Chương Bốn
NHỊ THIỀN BÁCH NHẬT TRÚC CƠ
Nhị thiền, thường gọi là một trăm ngày trúc cơ luyện tinh hóa khí,
là nói về định hạn chung của các lứa tuổi. Nếu ở lứa tuổi thanh niên
chân đồng, có thiện căn tốt, hiểu rành Chánh pháp và Tổ khiếu
huyền quan, công phu cho tròn một thành thì đạt quả Sơ chứng
trường sanh bất lão.
Còn các lứa tuổi cao hơn, thì thời gian chứng quả cũng cao hơn.
Luyện tinh hóa khí là nói về nam giới. Còn nữ giới thì luyện huyết
hóa khí.
Từ đó về sau, về cách công phu của nam và nữ đều giống nhau,
nên nói: Tiểu dị đại đồng.
Chương này dành riêng cho nam giới ở phần: Luyện tinh hóa khí,
và cho nữ giới ở phần: Luyện huyết hóa khí.
LUYỆN TINH HÓA KHÍ
Lúc bình thường, trong thân con người không có tinh, mà chỉ có
khí và Thần.
Có tinh sanh do hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Tâm bất
động mà thận động, đó là Chân động, còn gọi là Chân cơ, tất phát
sinh Chân dược, là loại thuốc vô giá bửu,
Tiên sinh Thiệu Khương Tiết có nói:
Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa,
Nhân uân Thiên địa sạ hồi triền.
Các tu sĩ sau một thời gian công phu đúng pháp, và đúng lúc tâm
bất động mà thận động tức có chơn đơn phát sinh, lập tức thể dược
qui lư. Nếu bị tâm động rồi thận động, là trường hợp thứ hai, tức có
ảo đơn phát sinh.
Đơn này không nên thể thủ qui lư, mà chỉ dùng pháp Tịch chiếu
để tản phát đơn này đi khắp toàn thân, cũng có phần lợi. Nếu không
biết dùng pháp Tịch chiếu, lâu ngày sẽ phát sinh ra chứng khối bứu
ở hạ bộ!
Câu thứ nhất của Thiệu Tiên Sinh, nói về lúc khí vi dương sơ
động, rồi phát sinh ra nguyên khí, sau thời gian thân tâm cực tịnh,
trong người có trạng thái hoảng hoảng hốt hốt, tợ như nửa tỉnh nửa
mê. Lúc nầy tu sĩ phải biết. Sau khi đã biết phải lập tức hồi quang
phản chiếu về Đơn điền, Chân ý cũng đón chờ nơi đây. Cổ nhân có
nói: Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm. Là nói về chỗ này.
Câu thứ hai nói về sau khi nguyên khí đã sinh, tất nhiên khí vi
dương sẽ triền động, rồi phát sinh ra nguyên tinh. Tiên sinh gọi là
khí nhân và khí uân, thuộc trạng thái Tiên thiền.
Triền động, tức ngoại thận có hiện tượng động, là lúc nguyên tinh
đã đến lúc không non không già. Tu sĩ phải lập tức thể thủ.
Thể thủ là hái thuốc, là lời thí dụ của Cổ nhân.
Thể thủ bằng cách nào?
Sau khi đã biết được nguyên tinh triền động, rồi nó theo đường
dương quan và biến thành hữu hình tinh mà tẩu lậu ra ngoài.
Lúc này đường dương quan có cơ vi động, Chân ý lập tức đón
đường, rồi dùng vi ý tưởng tượng thu nó về lư. Cổ nhân có dạy:
Tiên nhu nhi hậu cương. Là trước thì dùng văn hỏa để thể thủ vài
ba lượt, sau mới dùng võ hỏa mà thể thủ. Cứ như vậy mà thể, độ vài
mươi lượt, lúc nào ngoại thận tợ không, tức công phu thể thủ đã
viên mãn.
Có một điều tu sĩ nên nhớ, là lúc thể dược qui lư, Chân ý dùng cơ
hữu vi mà dẫn nhập. Còn lúc Chân ý trở ra lại dùng cơ vô vi mà
xuất.
Sau khi thể dược qui lư đã viên mãn, tức là tiếp công phu thứ hai
là huân chưng, là nấu thuốc.
Công phu nấu thuốc: Trước dụng văn, sau dụng võ.
Công phu nấu thuốc độ vài phút, rồi phong cố. Phong cố là gói
gắm thuốc đó cho thật kỹ. Thiền sư Huyền Cơ có dạy: Đóng sáu
cửa cho bền then khóa.
Công phu phong cố cũng độ vài phút, rồi tiếp đến vận độ vài chục
Châu thiên là hoàn tất.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
11
Luyện tinh hóa khí đã viên thành, là đã đạt được quả qui túc, tức
bạch hổ đã tru, dâm căn đã đoạn, và đoạt hiệu quả Sơ chứng trường
sinh bất tử.
LUYỆN HUYẾT HÓA KHÍ:
Còn có danh là Thái âm luyện hình.
Sơ công bằng bế mục tồn Thần, khiến cho tâm được tịnh, tức được
điều, sau đó mới ngưng Thần nhập qui Khí huyệt, tại lưỡng nhũ
gian tâm oa thượng. Tiếp đến là dùng hai tay giao xéo với nhau, rồi
khing khinh bỗng nhũ 360 lượt. Tiếp đến là dẫn khí xuống hạ đơn
điền, bằng cách hấp vi vi 24 khẩu. Hai tay cũng vẫn bỗng nhũ.
Công phu phản chiếu điều tức lâu ngày tự nhiên Chân khí vãng
lai, một mở một đóng, nuôi dưỡng tốt cho cơ sở của Thần khí, khí
Chân dương cũng được sung túc, được tự vượng, kinh thủy cũng tự
tuyệt, lưỡng nhũ như nam, gọi là trảm xích long.
Cứ như vậy mà hành trì lâu ngày, sau đó không cần bỗng nhũ hấp
khí nữa, chỉ ngưng thân nơi khí huyệt, hồi quang phản chiếu về cửa
huyền ẩn, Chân khí tự dần dần hư cực tịnh đốc và vận chuyển theo
Châu thiên như nam giới.
Luyện tinh và luyện huyết đã viên thành, tức Chân xá lợi sẽ được
kết, và lo Quá quan phục thực về Trung điền để ôn dưỡng Thánh
thai mười tháng.
---oOo---
Chương Năm
TAM THIỀN THẬP NGOẠT HOÀI THAI
Hỏa túc chỉ hỏa cảnh, thể đại dược Thiên cơ:
Chỉ hỏa là chấm dứt võ hỏa, mà chỉ dùng văn hỏa trong thời gian
mười tháng ôn dưỡng Thánh thai.
Cảnh chỉ hỏa là Qui túc đã thành, minh châu đã kết, và khí dương
quang hiện từ Sơn căn đến Tề luân đủ ba lần.
Khí dương quan đã hiện đến lần thứ ba phải lập tức lo Quá quan
phục thực, gọi là thể đại dược Thiên cơ.
Tuyệt đối không được thể đại dược vào lúc dương quan nhị hiện,
hay dương quan tứ hiện.
Lúc dương quan nhất hiện, người ngoài có thể thấy được. Lúc nầy
tu sĩ phải tạo nên trạng thái Thái cực là thân tâm cực tịnh, Chân ý
thường trụ nơi đơn điền để qui tụ cho Chân khí càng thêm sung
mãn, gọi là bồi dưỡng minh châu cho được viên quang.
Công phu đúng như vậy thì có dương quang nhị hiện. Lúc nầy
cũng chưa được thể đại dược quá quang, mà phải tiếp tục công phu
như sau khi dương quang nhất hiện.
Lần nầy tức có dương tam hiện, là đúng lúc thể đại dược quá quan.
Nếu để dương tứ hiện, thì minh châu sẽ bị tẩu lậu ra ngoài, tức tiền
công tận phế!
Thể đại dược là điều bí ẩn của Thiên cơ, tuy có chép ra đây cũng
chưa được lộ tận, tu sĩ phải cầu bậc Chân tri chỉ điểm, mới mong
viên ngộ.
Lúc dương quang tam hiện, Chân khí thuần dương đã hội tụ nơi
Càn đảnh, tợ như hỏa châu, là nội động nội sinh, chẳng còn ngoại
trì.
Thể đại dược Thiên cơ:
Lấy sơ thể mà nói, cái hỏa hô hấp tự năng nội vận, tuyệt không
trước ý ở vận hỏa, cũng không buông ý theo hỏa, mới hiệp với cơ
huyền diệu của hỏa. Lúc dụng hỏa cần phải nhập định, dùng song
mâu quang chuyên thị Trung điền ở ban ngày. Còn ban đêm thì
dùng song mâu quang thủ lưu cần mẫn.
Thể dược có bốn thuyết: -Giao cấu nhi hậu sinh. –Câu dẫn nhi hậu
sinh. –Tịnh định nhi hậu sinh. –Tức định nhi hậu sinh.
Giao cấu rồi sau mới sinh: Tâm trung Nguyên thần là hỏa vô hình.
Chơn thần nhân mâu quang chuyên thị, mà dược ngưng trụ nơi trên,
và loại nước vô hình trong thận tự nhiên huân chưn thượng đẳng,
cùng với Nguyên thần giao cấu, không còn bị hiện tượng trên dưới
gián cách. Thủy hỏa vô hình đã giao cấu ở trên, lâu ngày tích tụ
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
12
thành hào quang thuần dương, tự nhiên kết thành đại dược như hỏa
châu, phát lộ nơi dưới, là nhân uân vạn vật hóa sinh. Nhưng vì vô
hình mà sinh hữu hình, cũng là theo lý tự nhiên.
Cổ vân:
Huyền hoàng nhược dã vô giao cấu,
Sạ đắc dương tùng Khảm hạ phi.
Câu dẫn rồi sau mới sinh:
Song mâu quang là Thần của Chân ý được nương gởi. Song mâu
quang phát sinh thì Chân ý đến. Chân Ý thuộc thổ. Thổ là trung
cung của Huỳnh bà là Câu dẫn mai ước. Huỳnh bà câu dẫn nơi trên,
thì đại dược tương tùy và xuất hiện nơi dưới.
Cổ vân: Trung cung thai tức thị Huỳnh bà
Tịnh định rồi sau mới sinh:
Nguyên thần nhân mâu quang chuyên thị, qui ngưng nơi thượng
bản vị, mà đắc định cơ, thì nguyên khí cũng qui ngưng nơi hạ bản
vị mà đắc định cơ.
Thần với khí đều đắc định cơ, do đó mà Nguyên thần thành hình,
rồi nhân định tịnh mà sinh động. Cơ động ở trong rồi cũng sinh ra
nơi trong.
Cổ vân: Thể Chân diên ư bất động chi trung.
Lại nói: Chẳng định thì dương chẳng sinh.
Tức định rồi sau mới sinh:
Tức là hơi thở. Có hơi thở của Hậu thiên. Cũng do Thần khí đã
định, mà hơi thở nầy có chỗ qui y, rồi tự nhiên được định nơi khí
căn, và thành Chân tức. Chân tức một định thì đại dược tự sinh.
Chân tức chưa định thì đại dược chưa sinh.
Cổ vân: Tức định thể Chân diên.
Cả bốn thuyết đều dùng song mâu mà chiêu nhiếp. Cũng đều do
Chân ý mà nên.
Xứ Khưu Tổ có tương truyền bài kệ:
Kim đơn đại dược bất nan cầu.
Nhật thị trung điền, dạ thủ lưu,
Thủy hỏa tự giao vô thượng hạ.
Nhất đoàn sinh ý tại song mâu.
Cần phải biết lúc đại dược sinh, là lúc lục căn tự chấn động. Cũng
phải biết đơn điền lửa hừng mà thân nóng lên. Là lúc hai mắt phóng
ra hào quang, hai tai nghe gió thổi, sau não có tiếng chim Thứu kêu,
thân rung, mũi rúc … đều là cảnh đại dược sinh.
Thể đại dược trung bình là bảy ngày.
Quá quan phục thực:
Cổ nhân muốn minh về Chân chỉ quá quan nên mượn việc Huỳnh
Đế bỏ thân để đắc Đạo làm thí dụ. Long là nguyên thần. Nguyên
thần là bản thể của Chân ý. Chân ý là sở dụng của Nguyên thần.
Thể và dụng vốn chẳng lìa nhau nên nói: Ngũ long bổng Thánh.
Cổ nhân có nói: sanh tiền bất tri Thiên đường lộ. Tử hậu nan ly địa
ngục môn.
Lúc sống phải biết đường lên Trời, là Tào khê lộ hay Đốc mạch.
Lại phải biết Tam kỳ lộ, là con đường nối liền đạo lộ âm dương
Nhâm Đốc.
Con đường này trên thông với tâm vị, trước thông với dương
quan, sau thông với Vỹ lư, dưới thông với Cốc đạo.
Tam quan có khi bị tủy bít kín. Chỉ có Cốc đạo là khiếu trống
không, nên thường hay bị tẩu lậu, có danh là Hạ thước kiều.
Bên trên có hai lỗ mũi trống không, có danh là Thượng thước
kiều.
Cái quan khiếu cần phải hiểu, cơ nguy hiểm cũng phải tinh minh,
mới không bị nạn tiền công tận phế.
Lúc đại dược gần sinh, có cảnh lục căn chấn động. Lúc căn đã
chấn động phải phong cố cho lục căn bất lậu, để sanh cơ được viên
mãn.
Sau khi đại dược đã sinh, Chân ý phải đưa lục căn về hội nhập nơi
Trung điền, để đồng hóa với dương thần. Chủ yếu là nghịch vận hà
xa.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
13
Thượng Hạ thước kiều nên tạo hai mộc tòa để yểm bí, phòng sự
tẩu lậu.
Lúc đại dược mới phát sinh nơi Khí huyệt, vì có đặc tính thượng
đằng nên thượng xung tâm vị. Tâm vị không dung nạp, nên hạ
chuyển xuống hạ điền, và muốn chui ra dương quan. Nếu dương
quan đã cấm bế, thì theo Tam kỳ lộ đến Vỹ lư. Nếu Vỹ lư bị bế tắc
thì xuống Cốc đạo. Cốc đạo đã có mộc tòa cấm bế, thì trở lên Vỹ
lư, để chờ cho Vỹ lư được khai thông mới quá quan. Lúc xá lợi trụ
tịnh, Chân ý cũng phải tịnh để trợ lực cho xá lợi và khai quan.
Lúc xá lợi bắt đầu vi động, Chân ý liền khinh khinh dẫn thượng.
Lên giáp tích, vượt Ngọc chẩm vậy.
Lên khỏi tam quan mới đến Thiên môn, rồi xuống thượng Thước
kiều. Cầu này đã có mộc trụ thì xá lợi xuống Thập nhị trùng lầu và
về Trung điền, là công phu quá quan đã hoàn công. Chân ý phải
hiệp Trung hạ nhị điền làm một.
Khưu Tổ có bài kệ:
Kim đơn trung thượng cán thiên can,
Hà hoạn trở kiều hựu trở quan,
Nhất ý bất sanh Thần bất động,
Lục căn bất động dẫn tuần hoàn.
Thiên can ở nơi người là Chân ý.
Cơ hành trụ của chánh công quá quan, chỉ tại thuận theo tự nhiên
là chủ yếu.
Ngộ Chân Thiên có bài Thập ngoạt hỏa hầu:
Huyền châu hữu tượng trục dương sinh,
Dương cực âm tiêu tiệm bác hình
Thập ngoạt sương phi đơn thủy thục.
Thử thời Thần quỉ dã tu kinh.
Huyền châu là ví hình tượng của đơn dược.
Dược không thể tự động sinh, nhân cảm dương khí mới sinh từ lúc
tế vi đến khi hiển trước. Dương cực âm tiêu, mười tháng vẹn đủ
châu số tức đại đơn thành tựu.
Huyền châu là đại dược Tiên thiên. Trong mười tháng trục dương
thiêm âm, là chiết Khảm điền Ly. Suốt mười tháng cũng còn vận
Châu thiên hoàn toàn không võ hỏa, không hạn số, chỉ dùng Chân
tức vi vi. Cũng tấn dương hỏa, cũng thối âm phù, cho đến lúc nào
Ly được hoàn toàn thành Càn, Khảm được hoàn toàn thành Khôn,
như thuở Tiên thiên, mới gọi thập ngoạt viên công.
Có bài thơ nói về mộc dục:
Thố kê chi nguyệt cập kỳ thời,
Hình đức lâm môn dược tượng chi.
Đáo thử kim đơn tu mộc dục,
Nhược hườn gia hỏa tất khuynh nguy.
Mẹo và dậu, tuy gọi là hai tháng, nhưng thực tế là nói về giờ mẹo
và giờ dậu.
Hình đức tịnh hội, chính là sự thích nghi về hành hỏa của đơn gia.
Vì mộc vượng ở mẹo, lại gặp giờ mẹo, sợ một thịnh hỏa sanh mà
thương kim. Còn kim vượng ở dậu, lại gặp giờ dậu, sợ kim khí thái
vượng mà thương mộc. Gặp hai hiện tượng thương khắc đó, nên
phải mộc dục. Nếu hai giờ nầy mà gia hỏa ắt phải khuynh nguy.
Lâm môn là nói về sự gặp gỡ hai giờ mẹo dậu và dược dược tượng
thành. Lại trong dược còn bị bao dung loại khí sanh sát.
Mộc dục là phương thanh khiết cơ tâm đến trọn hư không và qui
về đại định. Cũng là nương theo Chân hỏa mà huân chưng. Lúc này
Chân ý chớ nên lâm lư, mà chỉ cổ vũ thác thược.
Thuyết mộc dục xuất xứ từ Ngộ Chân Thiên.
Thuyết mẹo dậu xuất xứ từ Tham Đồng Khế.
Thánh thai ngưng kết:
Thánh thai là cái thai của Thánh nhân, từ nơi các cảnh tượng
hoảng hốt tra minh tạo thành, từ hữu vi nhập vào vô vi.
Nhiều người không nhận chân được Chánh pháp, nên có lúc thì
vận tâm thủ thận khí để tương giao nơi Huỳnh đình làm Thánh thai.
Có lúc dùng Thần tồn tại nơi trung cung làm Thánh thai. Có khi vận
khí hậu thăng tiền giáng, rồi trụ nơi đơn điền làm Thánh thai.
Cả thảy đều chẳng phải.
Thánh thai vốn vô hình vô chất, tuy danh là thai mà thiệt không
thai.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
14
Thai chẳng qua là sự hình dung về sự Chân linh dược ngưng kết,
mà không hề tán phát.
Nếu lấy khí để gượng ngưng thành thai, đó là quỉ thai, chẳng phải
Thánh thai.
Thập ngoạt thai viên, thì Thần toàn khí túc, căn trần khiết tận,
khánh khí toàn tiêu, âm dương tận thuần, tợ như phụ nữ mang thai
mười tháng mới được thành toàn. Đơn đạo lấy mười tháng thai viên
làm ví dụ.
Sau khi Thánh thai ngưng kết, tất phải phòng nguy lự hiểm.
Chuyên lo mộc dục ôn dưỡng, nâng niu như long bảo châu, như gà
giữ trứng. Cho đến lúc viên thành mới thôi. Cũng chẳng phải mười
tháng là định kỳ.
Có nhiều người không hiểu, nên cố chấp mười tháng. Có người
chuyên vận khí hoặc tồn tưởng, hoặc ngưng Thần vọng tưởng, lấy
kết thai mười tháng làm định kỳ. Cả thảy đều không phải.
Những bậc Chân tu, tự thể dược, phanh luyện mà kết đơn, kết thai,
làm Chí đạo, tựu thành thoát hóa siêu sinh. Lại còn phải phí biết
bao công lực, há đâu lấy mười tháng làm định kỳ. Nên hiểu mười
tháng chỉ là tượng ngôn.
Kết thai hỏa hầu:
Tiền huyền chi hậu, hậu huyền tiền.
Dược vị bình bình khí tượng tuyền (toàn)
Thể đắc qui lai lư lý hạ (hà)
Hà thành ôn dưỡng tự phanh tiên.
Tiền huyền là dương trong âm, là Chân tri qui về trung chánh. Là
nhu cương tương dương về chỗ tương dương. Đó là Tiền huyền chi
hậu, hậu huyền chi tiền.
Đúng lúc nầy, Chân tri, Linh tri, đại tiểu vô thương, lưỡng quốc
toàn vẹn, nên từ nơi trung sanh xuất một điểm Linh miêu Tiên
thiên, mùi thuốc bình bình là âm dương hỗn thành, cấp nên thể thủ,
qui nhập Tạo hóa lư trung, luyện thành Thánh thai. Công phu mười
tháng ôn dưỡng, tự có thiên nhiên Chân hỏa phanh luyện từ vi đến
hiển, từ vô hình sanh hữu hình.
---oOo---
Chương Sáu
TỨ THIỀN TAM NIÊN NHỦ BỘ
Tam niên nhũ bộ là mượn việc ba năm người mẹ chăm sóc cho
con từ bú mốm cho đến việc dạy con nói năng đi đứng, để nói lên
công phu luyện tập xuất thần và thu thần.
Thượng đơn điền là nơi luyện tập xuất thần và thu thần.
Lúc dương thần mới về thượng cung chưa được tráng kiện, tợ như
lúc anh nhi còn ấu trĩ, nên phải được sự luyện tập xuất thần và thu
thần của Chân ý, tương tợ như người mẹ tập con đi từng bước.
Công phu nầy phải kiêm sự tồn dưỡng dương thần bằng Chân khí
và xuất nhập.
Dương thần muốn xuất mà Chân ý không cho xuất, tức không
được siêu thoát để nhập Thánh giai.
Tu sĩ cần phải hiểu về cảnh xuất thần, tức là lúc có hào quang xuất
hiện khắp sáu cõi. Đó là cảnh xuất thần. Lúc nầy Chân ý liền điều
Thần xuất xác. Cứ mỗi lần Thần ra khỏi Thiên môn là mỗi lần thâu
về. Lúc thâu về phải để cho Thần tịnh dưỡng. Cần nên nhớ
Thời gian xuất và thâu ít hơn thời gian tĩnh dưỡng.
Lúc mới tập xuất, phải tập từng bước một, phải xuất gần rồi dần
dần mới đi xa.
Chơn thần không xuất là để tĩnh dưỡng, và để tiếp nhận sự bồi
dưỡng Chân khí, ví như mẹ cho con bú sữa.
Chơn thần được tập xuất nhập, được tịnh dưỡng và được bồi
dưỡng Chân khí, mới có sức mạnh cương kiện thuần dưỡng, mới
không sợ các đại ma đến khảo thí, lúc xuất mới không bị các luồng
điển thiên nhiên công phạt.
Trong ba năm vẫn còn dụng công huân luyện cho thức thần hóa
thành Thuần dương thần.
Cần phải chú ý về cơ khảo thí:
Cơ khảo thí đối với người tu hành, là sự thành toàn của Thiên đế.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
15
Cơ khảo thí nhắm vào các bậc tu hành theo phẩm Thượng thừa,
như Khưu Tổ bị phi thạch đánh gãy ba xương sườn. Có những vị
đương tọa thiền bị một tảng đá lớn rơi ngay đỉnh đầu, hay có mãnh
hổ đến vồ, hay có mỹ nữ đến trêu ghẹo … Cuối cùng có một vị
Thiên tiên đến khảo thí lần chót.
Chỉ có tâm bất động trước mọi cơ khảo thí, là xem như đã thành
công trong bước Thiền tâm, cộng với phần chứng quả, mới được
viên mãn công phu trên bước đường tu hành.
Có một điều tu sĩ phải nhận chân, là:
Luyện khí hóa Thần. Chẳng phải luyện khí để thành ngôi Thần,
mà là dĩ Thần ngự khí. Nếu luyện khí để thành ngôi Thần, chỉ đem
lại hiệu quả là chứng phẩm Quỉ Tiên.
Câu: Luyện khí hóa Thần, là nói về cơ nghịch lại cơ diễn biến của
hai khí âm dương trong thế giới sanh tử.
Chủ đích của Thiền công là đạt quả Vô lậu, là tâm không còn
niệm, thân không còn tẩu lậu tinh khí. Vô lậu mới chứng quả
trường sinh bất lão. Còn quả Lậu tận thông, là xá lợi đã kết.
Lậu tận thông được chứng quả, tiếp đến mới chứng thêm ngũ
thông, là: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc
mạng thông và Thần túc thông, gọi là Lục thông viên mãn.
Thiên nhãn thông là mắt trông thấy cả đại vũ trụ.
Thiên nhĩ thông là tai nghe khắp thế giới bên ngoài.
Tha tâm thông là biết được khởi niệm của mọi người.
Thần túc thông là biết rõ cơ biến hóa âm dương.
Túc mạng thông là biết được nhân quả ba đời của mọi người trong
toàn thế giới.
Chứng được Lục thông mới thành Chánh giác.
Tam niên nhũ bộ, còn gọi là Luyện thần hườn hư.
Thần là tâm, là tánh, là hồn. Tuy nói là ba nhưng chỉ có một, nói
Thần hay nói tâm, nói tánh cũng được.
Sở dĩ có chủ trương phái Luyện thần, vì Thần hay tâm, hay tánh,
không phải có một. Tạm thời có thể chia ra làm hai, là Thần Tiên
thiên tức Chơn Thần, hay Chân tâm, Chân tánh, vốn bất tử, bất
sinh. Còn Thần Hậu thiên là thức thần, hay âm thần, hay phàm tâm,
phàm tánh, hay tâm bất nhất, hay nhị tánh, vốn sanh tử, tử sanh.
Luyện Thần là luyện cái Thần Hậu thiên hóa thành ngôi Thần Tiên
thiên.
Nho giáo chủ trương luyện cái Tâm âm Ly hỏa thành Chân tâm
Thuần Càn, thuần thiện, thuần chân vô ngã, bất tử bất sinh.
Công phu theo Tiên thiên đạo, thì luyện tinh được tinh, luyện khí
được khí, đốn ngộ Chánh giác.
Lúc Chơn thần nhập rồi tịnh thì có Thần thông linh diệu, lúc xuất
mà hiển thì đạt được thông Thiên đạt địa, thiên biến vạn hóa.
Chẳng thấy được Chân tánh thì không thể nào thấy được Chân
không thiệt địa, là Tâm Thuần Càn.
Lúc thấy hoa Trời loạn rơi, Chân ý phải điều động Chơn thần
dũng xuất Thiên môn.
---oOo---
Chương Bảy
NGŨ THIỀN CỬU NIÊN DIỆN BÍCH
Ngộ Chân Thiên có bài:
Liễu liễu tâm viên phương thốn cơ,
Tam thiên công hạnh dữ Thiên tề.
Tự nhiên hữu đảnh phanh long hổ,
Hà tất đảm gia luyến tử thê.
Sau khi đã thành Thánh thai, mười tháng ôn dưỡng, ba năm luyện
xuất thần thâu thần đã được thuần thục, là Chơn thần đã đủ sức
châu du khắp tam thiên đại thiên thế giới, mới tiến lên luyện Thần
hườn hư, hườn vô, hiệp Đạo, tức được viên mãn công phu.
Cửu niên diện bích, chú yếu là bảo ngươn thủ nhất.
Liễu liễu bốn phương thốn, là một niệm chẳng khởi, Thiên quân
thái hòa, tịnh cũng định mà động cũng định. Thời gian chín năm,
tích tu ba ngàn công hạnh, nội công không hề gián đoạn, ngoại công
thường hành âm chất.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
16
Từ đó mà đức hạnh thấu động đến Trời, ma chướng chẳng còn
xâm nhập, đại sự có thể thành tựu.
Liễu liễu tâm viên, là đã hóa Ly thành Càn.
Tự nhiên có đảnh phanh long hổ, là nói về diên hống, thủy hỏa
được xung hòa hỗn hợp làm một.
Luyến thê tử là theo thường tình. Còn phi phàm ở Cửu niên diện
bích mới là dứt tuyệt trần duyên.
Cơ tạo hóa vận chuyển 360 ngày dư nhuận là một năm, là mượn
để nói lên cái cơ Châu thiên túc số, đúng theo Dịch lý là 384 châu
thiên.
Cửu niên diện bích thì không còn độ số.
Công phu luyện tâm là đầu chung cuộc là cuối cùng, là tâm viên
hoàn toàn đã được huân hóa trở nên thuần dương, trở thành thanh
khiết cao tột, trắng và bền tợ kim cương.
Thâu bửu châu nơi ái hà chỉ trong một giờ.
Thâu thủ hườn đơn nơi trong Thần thất, lại phải ba ngàn ngày.
Lúc này về công đức sánh bằng tạo hóa, đạo đức rạng ngời khiến
cho quỉ phục Thần khâm.
Chung Ly Chân nhân có nói: Có công mà không có hạnh, khác
nào như người không chân. Có hạnh mà không có công, khác nào
như người mù mắt. Công hạnh lưỡng toàn, tợ người có đủ mắt
chân.
Bảo ngươn thủ nhất theo Ngộ Chân Thiên:
Công phu Thiền định như trước đây đã nói, là lo kiến trúc bốn nền
móng cho thật kiên cố, là: Minh đường trúc cơ, Công đức trúc cơ,
Luyện kỷ trúc cơ, và Luyện tinh trúc cơ.
Có được bốn nền móng kiên cố đó, mới có thể kiến trúc được ngôi
Tam đài tinh khí Thần, là Luyện khí hóa Thần, Luyện Thần hườn
hư. Còn gọi là Luyện qui Thái cực, Luyện Thái cực hườn Vô cực.
Công phu luyện qui Thái cực đến Vô cực là những hỏa hầu tuyệt
lự vong cơ. Là lúc tột hư, tột tịnh đốc, trong ngoài đều quên, lòng
thung dung tự tại, lạc tại kỳ trung, tợ như đã được sống nơi nước
Cực lạc, Thần thông quảng đại, biến hóa không cùng. Sớm cỡi chim
hạc dạo non nam, chiều cỡi chim loan đến biển Bắc. Chẳng còn hệ
thuộc sanh tử trong thế giới nhị nguyên. Chẳng còn vướng bận một
mảy may của thế giới đối đãi nhị nguyên.
---oOo---
Chương Tám
CHÂN Ý
Nguyên thần bất động là thể. Chân ý cảm thông là dụng. Nguyên
thần, Chân ý vốn là một. Chân ý là Chánh giác trong hư vô. Chân ý
là cái dụng của Lương tri, Lương năng, Chân ý tỷ như vị chân sư vô
hình trong tâm, nắm quyền chỉ đạo Thiền công.
Công phu phản quán nội chiếu, là Chân ý trực nhập vào Tổ khiếu
huyền quan, cộng với song mâu trực chiếu Huyền quan.
Thời gian luyện tinh, Chân ý quán suốt trăm ngày luyện tinh. Thể
dược qui lư, huân chưng thuần bạch, phong cố đơn dược và lục căn,
vận hành Châu thiên, thâu thị, phản thính, tắc đoài, thủy liêm, hiệp
khai kim tân ngọc dịch, ngọc dịch luyện hình, tịch chiếu, đều do
Chân ý điều hành.
Thời gian luyện khí, Chân ý quán suốt mười tháng luyện khí. Ôn
dưỡng Thánh thai, mộc dục mẹo dậu, điều hành Chân tức vi vi ,
tịch chiếu, vận hành Châu thiên không độ số, không võ hỏa, mặc
vận Thần công, Cốc thần bất tử, bảo vệ Thánh thai như long bảo
châu, như kê bảo noãn, miên miên nhược tồn, dung chi bát cần, thủ
trung bảo nhất, cũng đều do Chân ý làm chủ.
Thời gian luyện thần, Chân ý quán suốt ba năm luyện Thần.
Luyện xuất thần, luyện thâu thần, bồi bổ Chân nguyên, Càn càn bất
tức, tịch chiếu, cũng do Chân ý điều hành.
Cho đến mọi công phu trong thời gian cửu niên, bách niên, thiên
niên đại định, cũng do Chân ý làm chủ.
Công phu chống hôn trầm, vui vẻ đón nhận cơ khảo thí, đề phòng
nguy hiểm, chữa trị tẩu hỏa nhập ma, chữa trị chứng bệnh si mê,
cũng đều do Chân ý điều hành.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
17
Chân ý có công phu động tịnh kiêm dụng, có công phu chuyên
tịnh bất động.
Công phu động tịnh kiêm dụng, như sơ quan luyện tinh, Chân ý thể
luyện thuộc động, phong cố thuộc tịnh. Tam niên nhũ bộ, Chân ý
xuất và thâu thuộc động, qui trung cung hườn, thủ trung bảo nhất
thuộc tịnh, thể dược qui lư tiền tịnh hậu động.
Công phu chuyên tịnh bất động:
Trung quan luyện khí hóa Thần, Chân ý định giác nơi hư cảnh.
Huỳnh đình làm chủ hoàn thai hằng chuyên tịnh bất động. Cho đến
thời tam niên nhũ bộ, Chân ý một xuất một thâu cũng chuyên tịnh
bất động.
Thời gian luyện tinh, nếu thất Chân ý thì lấy gì để chiêu nhiếp hai
khí.
Thời gian luyện khí, nếu thất Chân ý thì lấy gì bảo hộ hai khí
trong thai.
Thời gian luyện Thần, nếu thất Chân ý thì lấy gì để di chuyển
Thần lên Nê hoàn cung.
Cần phải biết: Chân ý không được tính toán, nếu tính toán theo tư
lự chẳng phải là Chân ý.
Chân ý do Chân tri mà có, Chân tri do công phu cách vật là học
vấn mà có.
Chân ý có danh Huỳnh bà mai sính, là Trung ương mậu kỷ thổ.
Có câu:
Ly Khảm nhược hườn vô mậu kỷ
Tuy hiệp tứ trong bất thành đơn.
Chân ý lấy đức tín làm cơ chỉ, lấy đức Chí thành là diệu dụng.
Cho người tu hành mà thất tín, chẳng khác người kiến tạo lâu đài
mà không xây nền đắp móng, tất nhiên ngôi lâu đài kia sẽ bị sụp
đổ!
Chẳng có lòng Chí thành, dầu cho có khổ công tu luyện đến vạn
kiếp cũng không thành.
Nho giáo có nói: “Cách vật nhi hậu Tri chí. Tri chí nhi hậu Ý
thành. Ý thành nhi hậu Tâm chánh. Tâm chánh nhi hậu Thân tu.
Thân tu nhi hậu gia tề. Gia tề nhi hậu quốc trị. Quốc trị nhi hậu
thiên hạ bình. Tự thiên tử dĩ chí ư thử dân, nhất thị giai dĩ Tu thân
vi bản.
---oOo---
Chương Chín
HUYỀN QUAN TỔ KHIẾU
Ngộ Chân Thiên có bài:
Yếu đắc Cốc thần trường bất tử,
Tu bằng huyền tẩn lập căn cơ.
Chân kim ký phản Huỳnh kim thất,
Nhất tỏa linh quang vĩnh bất li.
Huyền tẩn là hai khí âm dương trong con người.
Người muốn tu dưỡng cho Chân thần được trường sinh, tất phải
nương theo phương âm dương ký tế, sau đó kim tinh mới phục qui
về Trung cung của ta, tợ như hạt minh châu mãi mãi trường tồn.
Cơ bất trắc của âm dương gọi là Thần. Cảm mà toại thông như
Cốc ứng thinh, nên gọi Cốc thần.
Chơn thần nhờ Chân khí mà được tạo lập. Chân khí nhờ có Chân
tinh mà được sinh, tức là hai loại vật âm dương. Con người cũng
như vạn vật đều do hai khí âm dương tạo thành mà có sự sinh ra.
Cũng do hai khí âm dương mà chết. Chính nó là căn cội của Trời
đất, là Tổ của ngũ hành, là cơ sở của vạn hóa. Thánh nhân nương
theo đó để hình thành ngoại đơn, và mượn nó để thành tựu nội đơn.
Cho nên nếu được Chân tinh phản phục về Huỳnh kim thất, hóa
thành một Linh châu, rồi hóa thân thành khí, hóa khí thành Thần,
hình và Thần đều linh diệu, khế hạp cùng Chân đạo, ẩn hiện không
thể lường.
Đức LÃO TỬ có nói: Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẩn. Huyền tẩn
chi môn thị vị Thiên địa căn.
Huyền tẩn là cửa ngõ xuất nhập nơi nhơn thân. Luyện kim đơn ở
chỗ này.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
18
Người có đại chí tu hành, trước tiên phải được thông triệt về yếu
chỉ của huyền tẩn. Đó là chỗ của hai khí âm dương giao cấu và xuất
hiện một hạt ngọc Châu linh quang.
Đức LÃO TỬ mệnh danh huyền tẩn, tức chỉ về Cốc thần, là huyệt
của Thần khí.
Huyền và tẩn là hai cung của Khảm, Ly.
Chân tinh là Chân kim nơi cung Khảm.
Huỳnh kim thất là chánh vị của Trung ương.
Cốc thần bất tử, là nói bên trong con người có một địa hạt chí chí
linh, thường tồn bất tử.
Huyền tẩn là nói Thái cực trong thân con người đã phân phán về
hai khí âm dương.
Thần với khí được qui về đây gọi là qui căn.
Nhật và nguyệt được hiệp về đây gọi là hiệp bích.
Con người mà biết nương vào đây để lập căn cơ, sau đó mới gọi
Cốc thần bất tử.
Chung Ly Chân Nhân gọi: Cửa huyền tẩn là nơi sinh ra ta mà cũng
là nơi chết của ta.
Cốc thần trong thân ta là Tam điền:
Trên là Thiên cốc, giữa là Ứng cốc, dưới là Linh cốc. Đều là chỗ
Thần cư trú, tóm gọi Cốc thần.
Nhơn thân con người nương nhờ tinh với khí. Tinh với khí lại
nương nhờ ở Thần, để cán triền sung mãn, mới được bất tử.
Linh xu kinh có nói: Thiên cốc, Nguyên thần, thủ nhất tự chân.
Thượng huyền hạ tẩn, tử mẫu tương thân.
Nói thủ nhất là nói về sự giao cảm.
Người được thường bảo Chân tồn Thần, tích tinh lụy khí, thì tinh
sanh khí, khí sinh Thần, hình thân mãn sướng, tịch nhiên bất động,
cảm nhi toại thông, thượng triệu thì hạ ứng, khí tràn đầy bên dưới
thì ngấm tới trên, tợ như hư cốc truyền thinh, vô tâm mà rất bặt
thiệp.
Nhưng vì Thần còn thuộc âm, tuy có sự linh cảm, nhưng hư mà vô
bằng, quen thích buông lung, dần dần bị hao tán, cuối cùng có ngày
tận kiệt.
Trước tiên phải lo thiết trí ngôi Chí thiện cho kiên cường, khiến
cho hồn và phách câu dẫn nhau, hiệp về một nhà, tức nhiên huyền
tẩn sẽ được tạo dựng căn cơ, mà mạng thân đạt bất tử.
Tứ bách tự kinh có nói: Thử khiếu phi phàm vật, Càn khôn thể
hiệp thành. Danh vi Thần khí huyệt, nội hữu Khảm Ly tinh.
Bởi vì nguồn gốc sanh thân lập mệnh, là tại khiếu này. Khiếu này
là chốn hai vật hội họp, gọi là Thần khí huyệt.
Huyền tẩn là căn để tu đơn, là nơi Chân tinh qui phục.
Cốc thần là Tiên thiên chủ tể cõi hư không linh ứng, vượt vậy một
còn, chẳng chịu biến diệt.
Các hàng tu sĩ sơ cơ, trước tiên phải tập điều tức. Tức (hơi thở)
được điều hòa thì Thần phản phục. Thần đã phản phục thì tức tự
định. Thần phản tức định, ắt sẽ thành thai tức. Tự nhiên Thần khí sẽ
giao kết, vô trung sinh hữu, hốt nhiên hiển lộ một khiếu hư vô, và
huyền tẩn hiện ra thành tượng, Cốc thần bất tử.
Lại có bài:
Huyền tẩn chi môn thế hãn tri,
Hưu tương khẩu tỷ vọng thi vi.
Nhiêu quân thổ nạp kinh thiên tải,
Tranh đắc kim ô nịch thố nhi.
Chương nầy phát minh Chân lý thâm diệu về huyền tẩn môn, về
cơ sở vãng lai xuất nhập, về địa xứ âm dương giao hội. Nếu không
được tâm truyền khẩu thọ chân đích, mà lấy sự suy lường dễ được
biết sao?
Cửa huyền tẩn, chính địa xứ kim ô tróc thố. Chẳng biết được cửa
nầy, mà chỉ vin vào khẩu tỷ hô hấp, cùng nước lửa nấu nồi không
thì có gì là kỳ dị đâu.
Thiên căn vốn tại Càn cung, đó là huyền môn, cho nên nói Càn
động nhi trực.
Địa căn vốn tại Khôn cung, đó là tẩn môn, cho nên nói: Khôn
động nhi tịch (mở).
Sanh ra phàm, sinh ra Thánh, đi thuận về nghịch, đều mượn cửa
này để ra vào, để qua lại. Là lời nói rất rõ ràng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
19
Những lời nói trên, Đơn thư gọi là cửa mậu kỷ và tử hộ sanh môn,
đều có thể dùng Chân ý mà hiểu được.
Đạo đức kinh có nói: Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần.
Người đời sau lầm tưởng miên miên nhược tồn là cơ hô hấp của
miệng mũi, cho nên mới mượn ngoại thác thược để thực hành
thượng tấn khí pháp. Nhưng họ không biết miên miên nhược tồn
chính là thời Thiên địa giao thái. Dụng công 375 hơi thở (Châu
thiên), chẳng phải vô cớ, mà chính là do bên trông dấy lên gió Tốn.
Kim ô nịch thố là hống đến cầu diên, là ý tương thân tương luyến.
Lại có bài:
Di danh đồng xuất thiểu nhân tri,
Lưỡng giả huyền huyền thị yếu ki (cơ).
Bảo mệnh toàn hình minh tổn ích,
Tử kim đơn dược tối linh kỳ.
Từ một khí phân ra âm dương, nên có tên khác nhau, nhưng đều
từ Thái cực sinh ra, nên nói: Đồng xuất. Đó là cơ bí yếu tu luyện
âm dương, là cơ bảo vệ mệnh ta, là cơ toàn thành hình ta, không hề
tổn hại bên kia, mà ích lợi cho bên ta. Thần diệu thay cho Thủy
trung kim.
Đạo đức kinh có nói: Vô danh Thiên địa chi thủy, hữu danh vạn
vật chi mẫu.
Lại nói: Lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh, đồng chi hựu huyền,
huyền chi hựu huyền.
Chúng diệu chi môn.
Các bậc Chân nhân nhận chân được huyền cơ của lưỡng giả, để
minh tổn ích, để tu trị thân căn, tức hình thể có thể thành toàn, mà
mệnh căn có thể bảo tồn được.
Sở dĩ gọi tổn là do thuận theo ngũ hành tương sanh tương khắc,
mà có sanh có diệt.
Sở dĩ gọi ích, là do vận nghịch lại ngũ hành mà Đơn thể thường
linh thường tồn.
Thật là Thần Thánh thay! Cho Thuần dương tử (sắc tía) kim chi
dược!
Lúc ẩn là nguyên thủy của Thiên địa. Lúc hiện là mẹ của vạn vật.
Cho nên mới nói: Tử kim đơn dược tối linh kỳ.
Dị danh còn có nghĩa là hữu và vô.
Khiếu diệu là nói về nguyên thủy và mẫu.
Huyền và tẩn là chốn âm dương giao hiệp, là địa xứ kim đơn hóa
sanh.
Tu sĩ trước phải nhận chân về “Lưỡng giả”, sau đó mới có thể
luyện kim đơn.
Về Chân đạo, suy tầm về trước thì vô danh, là Thủy tổ của Thiên
địa. Còn suy tầm về sau thì hữu danh, là mẹ của vạn vật.
Đại để về vật hữu danh, tất có một vi chủ là vật vô danh.
Lời kinh còn nói: Thiên địa vạn vật sanh ư hữu, hữu sinh ư vô.
Đó là nhơn thân đúng lúc vô dục, đến lúc tịnh vô cảm để quán kỳ
diệu, tức thấy trong trạng thái thanh tịnh có một vật “vô hữu”, Nho
gia gọi: Vị phát chi trung, Thích thị gọi “Chân không. Đều nói về
“vô hữu” nầy.
Cho nên nói về công phu định tánh, cho đến lúc cơ động, là lúc
Thiên nhân hiệp phát, là khí Chân nhất nguyên thủy, từ cõi hư vô
lại, và thực có một khiếu xuất hiện vậy.
Nếu người nào đắc được Thiên cơ nầy mà luyện mà dụng công,
tức thấy được hai khí âm dương tầm nhau, và lễ đội mão thành hôn
sẽ được tổ chức, nên gọi là vạn vật chi mẫu, tức là cơ sở lập mạng.
Là lời ngàn Thánh tương truyền.
Cho nên Thánh nhân mới chủ trương: Tánh mạng song tu, Thánh
phàm đồng chứng.
Còn nói diệu, nói khiếu, tuy có hai tên khác nhau, nhưng hai thành
phần đó có một gốc là Thái cực, nên gọi đồng xuất.
Chỉ là đồng xuất từ nơi Thái cực, nên về vô thì quán diệu, đó là
một huyền. Còn về hữu thì quán khiếu, cũng là một huyền.
Huyền chi hựu huyền, tức tại đó mà có mạng cũng tại đó. Thuận
thì sanh người sanh vật, nghịch lại tức thành Thánh thành Chân,
đều do hai thành phần đó.
Sở dĩ có: Thánh công sinh, Thần minh xuất, cho nên gọi: Chúng
diệu chi môn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
20
Lời kinh lấy khiếu lấy diệu làm dị danh, lời thi trên lấy huyền lấy
tẩn làm dị danh, là một sự liên hệ vô cùng mật thiết.
Lại có bài:
Thủy ư hữu tác nhân nan kiến,
Cập chí vô vi chúng thủy tri.
Đản kiến vô vi vi yếu diệu,
Khởi tri hữu tác thị căn cơ.
Nam tông chủ trương: Trước tu mạng sau mới tu tánh. Cũng là
điều tiết tận huyền cơ.
Hữu tác là luyện kỷ, là thể dược.
Vô vi là luyện Thần hườn hư.
Lúc đầu nhập thất cầu diên, kim đơn bí sự, chẳng cho người thấy.
Cuối cùng là ôn dưỡng sự tất, kết quả của sự tu hành được hiển
hiện, nên người người đều biết.
Thế nhơn có nói: Đạo tại vô vi, nhi bất tri công thủy hữu tác.
Đó là trồng loại cây không có rễ, kiến trúc ngôi nhà mà không có
nền móng, dứt khoát khó mong thành tựu.
Hữu vi vô vi là phân tánh chia mạng làm hai tông, cần phải tuần tự
dụng công: Tự thủy nhi trung, tự trung nhi chúng. Kết đơn một
thời, hoài thai mười tháng, bảo ngươn chín năm, mới được hỗn hợp
làm một, mới được trở lại hiện tượng vô hình huyền diệu.
Người đời lầm lẫn lấy Tánh tông làm đạo, bỏ hữu chấp vô, nhận
bổn lai Chân tánh làm kim đơn, mà không biết gồm tu Tánh mạng
Đại đạo.
Tượng ngôn phá nghi có bài luận về Cốc thần: Cốc thần là thần
trong hang trống rỗng. Tục danh là cái hang.
Thường trong những hòn núi cao dưới chân có những hang sâu
bằng đá tạo nên. Nếu có người đứng trong hang sâu hô lên một
tiếng rất lớn tất nhiên có âm thanh vang dội.
Thánh nhân mượn cái hang đó để mệnh danh là Cốc thần, để thí
dụ cho Thần hư linh trong con người. Theo lý tự nhiên: Tâm có hư
không mới có linh ứng. Tâm chẳng được hư không tức không có
linh ứng.
Linh xuất phát từ hư không, nên gọi Cốc thần.
Thần vốn vô hình vô tượng. Linh là không thể nào suy lường cho
được. Cho nên gọi: Tịch nhiên bất động (hư), cảm nhi toại thông
(linh).
Có hư, có linh, Thánh thai mới ngưng kết.
Những kẻ mê chẳng biết được Cốc thần chân chánh là gì, nên lấy
Thần tồn tại Thiên cốc, gọi là Cốc thần. Cũng như lấy Thần tồn
dưỡng Huỳnh đình gọi là Cốc thần.
Nếu Thần tồn Thiên cốc hay thủ Huỳnh đình, đều bất hư bất linh,
làm sao gọi Cốc thần được.
Thái cực, Linh quang, Liên hoa, đều gọi là Cốc thần.
Công phu Thiền định đến trạng thái hoảng hoảng hốt hốt, thì Cốc
thần xuất hiện.
Lại có bài:
Nguyên quan nhất khiếu thiểu nhân tri,
Hoảng hốt tra minh hàm lưỡng nghi.
Thuận khứ lưu qui phiền não lộ.
Nghịch lai tiện thị Thánh nhân ki (cơ).
Hoảng hốt là hiện tượng phát hiện của Chân hống. Tra minh là
hiện tượng phát động của Chân diên. Thuận khứ là thuận theo qui
luật biến hóa âm dương của thế giới hậu thiên sanh tử, hay hệ thuộc
vào thế giới đối đãi nhị nguyên, đều là con đường đi vào thế giới
phiền não đau thương.
Còn nghịch lại hai hướng trên, tức là tạo nên nền móng của Thánh
phẩm.
Có bài luận thuyết về Chân khiếu huyền tẩn:
Người muốn tu hành theo Đại đạo để được liễu tánh liễu mạng,
trước tiên phải nhận chân về cửa huyền tẩn, tức là Huyền quan nhất
khiếu.
Khiếu này có một cửa, hai bên tợ như có hai cánh quạt, một cánh
khép, một cánh mở, cao chín thước, rộng năm thước. Bên ngoài cửa
có Linh quan canh giữ, bên trong cửa có long hổ hộ vệ. Trung
đường một căn, bốn hướng đều thông tám phương đều khoán đạt,
có một bậc Chân nhân tọa thị. Toàn thân của bậc Chân nhân chiếu
ra hào quan năm sắc, tay cầm Kim quang như ý, bên tả có Kim
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
21
đồng, bên hữu có Ngọc nữ. Có lúc hào quang của song mâu chiếu
mãn Trời đất. Chiếu sáng khắp cõi âm ty. Quỉ quái tà ma đều xa
lánh. Chấp chưởng quyền tạo hóa. Cầm máy âm dương, giữ bộ sanh
tử. Cầm lấy cán cân tánh mạng. Người thế gian làm sao biết được
quang cảnh của Cốc thần, lại không cùng cứu căn nguyên, tầm cầu
Chánh lý, nên chỉ chuyên về tu tánh mà không biết tu mạng, Lữ Tổ
gọi là bệnh thứ nhất trong giới tu hành.
Trương Tam Phong chân nhân có luận về Cốc thần:
Chánh đạo cũng chỉ là Trung, cho nên Nho gia gọi là Trí trung.
Thích gia gọi là Không trung. Tiên gia gọi là Thủ trung. Nội đơn
cũng gọi là trung, đó là khiếu trung chi khiếu, tức là Chân trung
vậy.
Ta nay sẽ khái lược qua: Chỉ vì người đời không biết được ngôi
Trung này, nên tìm cầu ngôi trung của cửu cung, gọi là Nê hoàn,
nên không đắc được! Có người tầm ngôi trung dưới rún một tấc ba
phân, gọi là đơn điền! Có người cho ở giữa hai quả thận! Có kẻ dựa
theo hữu hình mà cầu. Có người lại căn cứ theo vô hình để tầm! Cả
thảy đều không phải!
Cho dù có người trí hơn Nhan Hồi và Mẫn Tử Khiên, cũng không
thể nào nhận chân khiếu này được.
Ta nay mạo muội phạm cấm mà nói, là điều bất đắc dĩ! Chỉ vì hiện
nay có nhiều Thần Tiên giáng thế, để lo cơ giác mê khải ngộ, cứu
thế độ nhân, nên mới làm ra thiên nầy, là thiên bí mật của huyền cơ,
để góp phần với chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, tận độ tất cả Linh
căn bị đọa lạc, được trở về nơi cõi Cực lạc, vĩnh viễn không bị đọa
trần ai.
Chân nhân nói: Thai nhân tức tưởng, tức nhân thai trụ, và khiếu
trung khiếu là nơi Thần Tiên trưởng thai trụ tức.
Trời đất tuy lớn cũng một thai. Nhật nguyệt vãng lai, chuôi sao
triền chuyển, gọi là Chân tức.
Sao chẳng xem nơi kinh thư của ba họ:
Dịch kinh nói:
Thành tánh tồn tồn, đạo nghĩa chi môn. Đạo đức kinh nói: Huyền
chi hựu huyền, chúng diệu chi môn. Dị giáo kinh nói: Chế chi nhất
xứ, vô sự bất biện. Đều nói thẳng về khiếu nầy.
Ta đã xem suốt qua các kinh thư, mới biết Thánh phàm cũng
chung một khí. Nhờ đó mà không bị manh nhơn mê hoặc, lại được
quét sạch bàng môn, trùng chính tâm viên, trùng phát chí khí, lòn
lõi hạ mình, chịu ngàn cay đắng, khổ cầu cho được Chân sư, mà
cuối cùng mới hiểu được lúc đầu thọ khí. Lúc đầu là Tiên thiên thủy
tổ tổ khí.
Khí nầy hàm tàng một điểm Chân âm Chân dương, sáng lạng chói
ngời.
Nếu như chưa minh đích chỉ, khác nào như kẻ say mê, rồi lìa bỏ
bên nầy và ôm chặt lấy bên kia, đều là bàng môn.
Chính một Linh khiếu nầy, sáng tợ ngọc Châu báu, treo lững lờ
nơi trung.
Linh khiếu nầy có cơ năng bao hàm vạn tượng phát sinh vạn vật,
tợ như Vật nầy, tại Tiên gia gọi là Chân diên Chân hống.
Nếu đã được nhất đắc (Sơ chứng) tức sẽ được vĩnh đắc. Lúc bấy
giờ không còn tướng thượng cách ở Càn khôn, nhật nguyệt, nam nữ
nữa. Chỉ còn có một trong ngoài thân ta, là an lư lập đảnh là luyện
kỷ trì tâm, là lúc minh lý kiến tánh, qui nạp và xuất hỏa, không lìa
ra một phút giây.
Chừng đó sẽ có thể tạo được một hạt huyền châu hiện ra nơi trên
khúc giang. Đó là đao khuê nhập khẩu, chỉ trong khoảnh khắc thì có
một khiếu mở khai, rồi trăm vạn khiếu cùng đều khai mở. Lúc nầy
trong người tợ như hỏa đã hừng phát khắp cả tứ chi. Toàn thân cân
cốt huyết nhục, đều tợ như phát thành khí, tương tợ như loại thủy
ngân bên ngoài.
Đến thời hầu nầy, thì dụng công về hỏa lực cho đủ một trăm ngày
mới có linh diệu.
Nhất đã đắc tức sẽ vĩnh đắc, là không còn trở lại lưu hình trụ thế,
và luyện thần hườn hư, cùng với Thái cực là một.
O, vật này tại Thích môn gọi là Chân không, là Chân như giác
tánh.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
22
Nếu biết hạ thủ chính đích, là luyện mà kiến tánh, chỉ trong một
phút công phu thì phát khởi tam muội Chân hỏa, tức được phản bổn
hoàn nguyên, tạo thành một thể đồng quan, Thiên địa đều không,
muôn đóa hào quang phát hiện. Lại thành Lục thông, thân thể thành
kim cương bất hoại. Thần với quỉ lúc này không còn rình rập dòm
ngó đến nữa.
O, vật này Nho gia gọi là Vô cực.
Cứ theo Trời đất bên ngoài mà luận, Vô cực là Thiên địa châu
viên, là trước khi nhật nguyệt chưa cắt chia, bốn bên trên dưới
không phân biệt, chỉ là hỗn hỗn độn độn, tợ như móc mù âm u. Cho
đến khi khí đã đến và thời cũng đã đến, thì Chân khí cực sung mãn
nên phát sinh ra hiện tượng công kích mà sinh ra Thái cực.
Thái cực có hàm nhật nguyệt. Lúc nhật nguyệt đã sinh thì Trời đất
cũng phân. Thanh khí xung lên làm Trời. Hư vô một phái Thần kỳ,
đều là ánh quang chói lọi của thanh khí tinh minh.
Còn trược khí chìm xuống làm đất, sơn hà đại địa, nhân loại, vạn
vật đều đủ.
Tuy phát sinh vạn vật trên mặt đất, nhưng tất cả đều do khí Trời,
mới sở sinh.
Thanh khí của Trời là khí thuần dương. Trược khí của đất là khí
thuần âm, và hiển lộ từ trên Trời giáng xuống. Đó là dương năng
sanh âm.
Vạn vật từ nơi đất sanh, là âm năng sanh dương.
Thiên địa trong một khối hư không, trong hư không còn bao tàng
tất cả, bao tàng vô cùng tận, vô biên giới. Cho đến Thiên địa, tinh
tú, Thần kỳ động chuyển, đều có phương vị.
Còn vạn vật nơi quả đất thì tiếp xúc với bốn mùa tám tiết, phát
sinh đều từ hư vô.
Còn nhật nguyệt là tinh hoa của Trời, trên thì chiếu soi khắp 36
cõi Trời, dưới khắp Cửu tuyền hoàng cực, tây đông vận chuyển,
trên dưới giáng thăng, hàn thử lai vãng. Mặt nhật là thể của thuần
dương, nội hàm một điểm tinh Chân âm, hệ thuộc Thanh long,
Trạch nữ, giáp mộc thủy ngân, kim ô, tam hồn, tức là bên ngoài.
Còn mặt trăng là thể thuần âm, nội hàm một điểm khí là Chân
dương, hệ thuộc Bạch hổ, anh nhi, canh kim, châu sa, ngọc thố, thất
phách, là bên trong ta.
Nhơn thân tạo hóa đồng Thiên địa, cho nên trong thân con người
cũng có Chân nhật nguyệt.
Đạo vốn ở gần mà người lại cầu nơi xa!
Tam hồn thuộc tánh, tánh tại Thiên biên.
Thất phách thuộc mạng, mạng tại hải để.
Suốt thông được hai chữ Tánh mạng có thể gần hiểu trọn muôn
quyển kinh thư.
Tánh hậu thiên thuộc Thần, thuộc âm, mạng thuộc khí thuộc
dương. Cho nên nói: Nhất âm nhất dương chi vị Đạo.
Thành phần Chân âm và Chân dương đối đãi nhau.
Thành phần tinh Chân âm, đã không biết, lại làm sao biết được
một điểm Chân dương chí khí!
Người tu học ngày nay, chẳng chỉ không biết Chân dương, lại
cũng chẳng biết Chân âm.
Nếu đã biết được Chân âm, thì Chân dương tự nhiên sẽ biết.
Chẳng được gặp bậc Chân sư, uổng công tư lự.
Đạo tại Thiên địa, cũng không biết Thiên địa!
Chư học giả hãy nên cùng cứu thân trung, là cùng cứu cái khiếu
diệu của Thiên địa nhân tam tài. Cùng cứu khắp cả trong ngoài cái
thân, và âm dương Chân tiêu tức. Nếu như không đắc được Chân
chỉ, mỗi khi thấy những chữ lạ nơi kinh thư, tất sẽ không có định
kiến, nên bị thiên chấp bàng môn, không thể nào biện biệt Chân lý
được!
Đã không cùng lý, tức tâm bất minh. Tâm đã bất minh thì Thiên
tánh làm sao được sáng rỡ như trăng rằm!
Đã không thấy được tánh, làm sao biết mạng!
Than ôi!
Chỉ vị Đơn kinh vô khẩu quyết.
Giao quân hà xứ kết Linh thai!
Ngoại, là Tiên thiên Chân dương.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
23
, hình đồ này là cơ tạo hóa nơi thân người, có tên là Thông thiên
khiếu, là Luyện đơn lư, là con đường sanh tử, là chốn sanh thân, là
lúc cha mẹ trước khi sinh, là chỗ ngũ hành không đến.
Chỉ có một điểm Chân dương, sáng rỡ nơi tứ đại hình sơn, là cõi
bí mật. Đó là cái tiêu tức huyền chi hựu huyền. Đó là hạt linh minh
bửu châu.
Tại thân con người, cùng ngoài Trời đất, nhật nguyệt, Linh vật này
vốn đồng một thể. Đó là Tổ khí trong thân con người.
Nay ta nói toạt ra vị Chân phụ mẫu, nên buổi bình minh kia con
người không còn nỗi lo sợ tử và sanh. Đó là lời từ bi của Đức Lão
Tử, là Chân chỉ ngoại cảnh của kinh Huỳnh đình.
Trung, là nói về ngôi trung trong con người.
, Đồ này là cơ tạo hóa sản thành Thiên địa, là nơi đúc ra hai lưỡi
kiếm thư hùng. Chứng nghiệm thuốc già thuốc non, đều tại nơi
trung này, cho đến công phu an Thiên lập địa, cũng không lìa trung
nầy.
Chỉ vì do kiếp vận nhân duyên, mà khí của Trời giáng xuống
không đến đất. Cũng như khí của đất thượng thăng không đến Trời,
mà hai khí thăng giáng chỉ lờ lững nơi không. Lý rất khó minh, cho
nên nói: Trung gian nhất khiếu thiểu nhân tri. Tu yếu Chân sư thân
khẩu truyền.
Nhưng phải biết: Càn khôn giao cấu tại đây, Khảm Ly giao cấu
cũng tại đây.
Bên trong hải để mạng chủ:
, đồ nầy là Linh qui hải để Kim tinh. Trong thân con người là
Đoài kim, là mệnh chủ mậu thổ. Toàn thân trăm mạch, ngũ tạng,
lục phủ, đều do Linh vật này chấp chưởng. Thành Tiên thành Phật,
siêu sanh thoát tử, cũng do huyệt này an bài. Cũng thực là nơi cố
mạng, là phương dưỡng mạng. Cũng là nơi khử trừ trăm bệnh
không còn phát sinh. Là căn đế của muôn khí. Là Thái cực trong
thân con người.
Thiên địa nhân là ngôi tam tài, cũng là nói trong thân con người.
Căn cứ theo Hậu thiên mà luận, tức trong thân người có tượng có
phương.
Nếu theo Tiên thiên mà khảo cứu, tức là nơi sanh Trời, sanh đất,
sanh người, sanh vạn vật.
Tiên gia có nói: Tiên thiên mà không có Hậu thiên thì lấy đâu
chiêu nhiếp Chân khí. Hậu thiên mà không có Tiên thiên, thì lấy
đâu để tạo cơ biến hóa âm dương.
Thiên địa nhân nầy là nói về ba ngôi thượng trung hạ trong thân
con người. Ba ngôi đó là Chân tiêu tức, là Chân lư đảnh. Lại hệ
thuộc về Chánh pháp theo tam thừa của tam giáo, và thể theo ngôi
tam tài của vũ trụ bên ngoài.
Ngộ Chân Thiên có nói:
Tam ngũ nhất, đô tam cá tự,
Cổ kim minh giả thực nhiên hi
Ta nói ra đây chẳng phải là đại ngôn. Nếu không nói về pháp qui
nạp tế vi của hỏa hầu, mà chỉ nói về tam bửu, ngũ hành, thì cả vạn
người cũng không có được một người nhận chân.
Nếu có người biết được về tam tài trộm lấy huyền khí của nhau, để
trở về bổn nguyên, thì tuyệt vậy.
Còn truyền tinh, tống Thần, trộm tinh, đổi khí, điên đảo thể thủ,
nếu có người nào dám đảm đương, tức thành Tiên tác Phật cũng
không khó.
Lý thường, là học để tu luyện, trước tiên phải lo cùng thủ về Chân
lư đảnh trong ngoài một cơ thân.
Nếu không biết nội ngoại Chân lư đảnh, thì làm sao biết được chỗ
hạ thủ.
Nếu đã biết an lư lập đảnh bên ngoài và bên trong, cùng Chân chỉ
âm dương lai vãng, tức là cũng thủ Chân diên và Chân hống, và nội
ngoại dược sanh đích thời hầu, mới có thể tấn hỏa tu luyện.
Nếu không biết được về dược tài trong thân, như vậy trong lư
đảnh hà luyện vật gì?
Bên ngoài là Chân diên và Chân hống.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
24
, đồ khiếu này, là Chân lư đảnh nội ngoại của thân ta. Là đảnh
an cửu dương, là nơi đúc nên huệ kiếm để định thời hầu, là nơi khai
quan thể dược, là nơi trong châu phục hồi hống khí. Là nơi qui nạp
mộc dục. Là nơi Thủy Hỏa Ký Tế. Là nơi trì không dưỡng hư.
Cũng đều tại khí nầy.
Khiếu này hằng hàm tàng một điểm Chân châu sa thủy ngân. Sáng
rỡ nơi thân không ngoài không trong. Chỉ vì nhiều người không
biết, nên lìa một điểm Linh vật nầy, khiến đành manh tu hạt luyện.
Trung, là khôn thổ phủ.
, đồ khiếu này chính là nơi qui nạp kết thai, sanh Trời, sanh đất,
sanh người và vạn vật, cùng gió, mây, mưa, sấm, đều tại Trung
cung chánh vị. Đó là Thần thất đảnh. Là nơi sản xuất nội ngoại nhị
dược. Là nơi trục diên thêm hống. Là nơi chờ để điểm hóa đơn
dược. Cho nên nói: Trung gian nhất khiếu thiểu nhân tri.
Nội, dưới rún là mệnh chủ:
, cái đồ khiếu này, là căn bản để hưng công. Là thang thuyền để
lên cõi Chánh giác. Là nơi an lư lập đảnh bên trong. Là nơi thủy
hỏa hà luyện. Là nơi pháp tài cụ túc. Là nơi Thần khí hoàn toàn. Là
nơi phát hào quang cho bảy khiếu bên trên.
Chính thiệt chân chánh thời hầu, mới có thể bên trên.
Chính thiệt chân chánh thời hầu, mới có thể Chân dược nơi ngoại
lư đảnh của thân ta, để phối với thư hùng trong thân. Cũng đều
nương theo khiếu nầy.
Có điều Thần thuần thục, có được vạn Thần chịu sự sai khiến, có
được tinh hồi đầu chuyển, mới có thể đoạt ngoại Thiên cơ.
Trên có một Linh khiếu, đó là thể của Thuần dương, bên trong có
hàm tàng một điểm tinh Chân âm. Đó là Linh vật trong Tổ khiếu
của thân ta, thuộc bên ngoài mà tại nơi trong, tức từ nơi trung gian
của hai quả thận phát sáng ra bên ngoài. Cho nên mới ví dụ là thai.
Còn bên dưới một khiếu là thể Thuần âm, nội tàng một điểm Chân
dương khí, đó là Linh vật nơi Tổ khiếu trong thân ta. Linh vật này ở
bên trong, vốn từ Càn cung tiết lậu rồi nhập vào Khôn vị, nên ví dụ
là ta.
Thượng khiếu, bên trong là nữ thể, bên ngoài là nam. Còn hạ
khiếu, bên trong là nam thể, ngoài là nữ thân. Cho nên Tiên Ông đa
phần lấy nam nữ, bỉ ngã làm ví dụ.
Trung gian có một khiếu là Trung cung, Huỳnh bà mai xá. Nếu
hiểu được chỗ này, rồi điên đảo phối hợp, mới có thể thành Thánh.
Còn mệnh bửu, vốn từ bên ngoài thân ta, lại hóa thành một bửu
vật nơi Khôn vị trong thân ta.
Chỉ tại Linh khiếu của ta là Pháp thân, trung sắc thân bên trong
quyết định sự thành tựu.
Tiên gia có nói: Thể thủ bất ly tự kỷ Nguyên thần. Người tu học
chưa đắc Chân truyền, nên không biết chỗ hạ thủ. Chấp kỷ là chẳng
phải, lại lìa kỷ cũng không phải.
Có mấy ai biết rõ một điểm Nguyên thần, vốn rực rực rỡ rỡ, tại
nơi huyền của thân ta, chỗ trung cao, ẩn tàng nơi mật xứ không
ngoài không trong. Trong ngoài một khí kéo liền nhau, là bí cơ
ngàn đời chẳng truyền, Nhưng về nhơn thân con người hiện thành
và phong ra hai luồng Chân tiêu tức, cùng Trời đất và nhật nguyệt
bên ngoài đồng thể, chẳng sai hào li. Đó là một Linh vật trọng đại
của Trời đất, người và vạn vật.
Trời đất chẳng qua cũng là bậc Đại nhân.
Con người cũng một tiểu Thiên địa.
Cho nên cơ tạo hóa của con người đồng Trời đất.
Có mấy ai đĩnh ngộ, là người người đều có một Thông thiên
khiếu, người người đều có một loại thuốc Trường sinh bất tử, người
người đều có cái lò luyện đơn, người người đều có cái thang lên
Trời, người người đều có một số người bất tri bất thức, người người
đều có nhiều người không tin tưởng về phương Trường sinh bất tử.
Thật rất đáng thương!
Phàm luyện đại hườn đơn trước phải bổ hư.
Chỉ bồi bổ cho cốt tủy được dinh mãn, mới có thể luyện kim dịch
đại hườn đơn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
25
Còn hạ thủ công phu, trước phải thể ở thượng khiếu, là Chân âm
trong dương, rồi đem vào trong kim đảnh Khí hải, cùng với thận
kinh phối hợp.
Chân âm trong dương là Chân hình của tự kỷ Nguyên thần, tại
ngoại thì thuộc tâm hồn.
Còn khiếu dưới, là khí Chân dương trong âm, là nguyên khí trong
thân ta, vốn thuộc thất phách.
Tiên thiên khí và Hậu thiên khí đã tụ hội, tức Khảm Ly tự giao,
hồn phách hỗn hợp, Thần ngưng khí kết, thai tức tự định, mỗi ngày
như phu phụ giao tình, đẹp đẽ sảng khoái không có gì sánh kịp.
Nhất thiết không được trước ý. Thủy hỏa đã ký tế, tất nhiên Chân
khí sẽ phát vận khắp tứ chi, tương tợ như hơi nóng ấm của ngọn
lửa bên ngoài xông vào.
Chủ yếu là thủy hỏa phải quân bình.
Đó là hỏa hầu của thời Tiểu châu thiên.
Lúc này phải lo điều hòa, phải lo huân chưng.
Chân tức trong yết hầu đáo hồi nguyên hải, tức ngoại thận nhập
nội, gọi là Qui túc. Chân hỏa tự nhiên xung nhập tứ chi, toàn thân
mềm nhũn, mỹ khoái vô cùng. Lúc này trong bụng tợ như có con
rồng linh hoạt hồi chuyển thăng giáng, có vài mươi lượt như dạng
biến hóa anh nhi, Trạch nữ giao hiệp. Đó là thể dương bổ âm, là
một tiết tự hỏa hầu Luyện kỷ trúc cơ của Sơ thiền.
Công phu tu luyện kim dịch đại hườn đơn, phải lo quảng tích nội
ngoại pháp tài.
Suốt ngày tiêu diêu, ngày đêm thường sáng, đó là cái đạo Trường
sinh cửu thị.
Người đời toàn nhờ ngũ cốc để nuôi dưỡng thân mệnh, nếu chừng
nửa tháng không ăn không uống, khí tuyệt sẽ chết.
Các bậc lão thành, đa phần Chân khí đã bị hao tổn nhiều, cốt tủy
gần trống không, nên chỉ nhờ cốc khí mà sống qua ngày.
Nếu có vị nào tinh khí còn phần nào, lại được hiểu rõ pháp môn
Thủy Hỏa Ký Tế, rồi vận hành nghịch chuyển hà xa, khiến cho ngũ
tạng khí hòa, tỳ vị khai sướng. Lúc nầy tiếp thu thực phẩm cũng
được hóa khí, rồi sanh tinh sanh Thần.
Người nào, nếu quả đắc Thiên cơ và hạ thủ công phu, rồi chờ cho
cốt tủy được dinh mãn, nơi bụng phát phì tợ như phụ vựng, đó là
hiện tượng của thai khối, và chẳng qua vì tinh mãn, khí mãn, Thần
mãn mà thôi.
Quả như tam bửu đã toàn, nên dùng Chân hỏa hà luyện, điều Thần
luyện khí, tức có ngày công toại danh thành.
Ta nay phụng thừa Thiên mệnh mà khuyến cáo thế nhơn, hãy nên
tham hỏi khổ cầu về chỗ liễu ngộ công phu, quyết phá một thân nội
ngoại Thiên cơ. Sau đó hạ thủ gấp tu Luyện kỷ để chờ thời. Thời
hầu nếu đã đến, thì nên chọn một địa sở để nhập thất, rồi luyện lấy
Long hổ đại đơn. Chủ yếu là chọn một nơi thật vắng lặng, chẳng
nghe tiếng chó tiếng gà, cùng mọi thứ âm thanh. Còn phải chọn lấy
hai người bạn lữ đồng tâm chí, cùng tương trợ cho đến ngày thành
công.
Ta có chủ trương: luyện kỷ trần tục, dưỡng khí sơn lâm.
Kim dịch hườn đơn, là đạo Siêu phàm nhập Thánh. Chẳng có sự
việc nào ví bằng.
Cần phải nên: Nhất trần bất nhiễm, vạn lự đều quên. Quyết một
đao chém thành hai đoạn, ti hào không gây trở ngại, mãi mãi làm lữ
khách muôn phương. Cho đến ngày cuối cùng mà lòng vẫn mãnh
tiến, cũng không hề có mảy may hối hận.
Lập được chí như vậy, đó chính là xuất gia.
Lúc nhập thất phải giữ cho tâm thật hư không để luyện Thần, để
dưỡng khí. Trực dưỡng cho được tinh (nam), huyết (nữ) sung mãn.
Luyện sao cho bảy khiếu sanh quang, suốt cả đêm ngày đều rực
sáng.
Tâm lúc nào cũng thật thái hư, đó chính là Chánh thời hầu, mới
mong cầu đặng Tiên phẩm.
Lại phải chuyên tâm trì chí, dưỡng Thần thuần thục, thành hình
thụ sứ, tinh truyền đẩu chuyển, tùy thời biến hóa, rồi thẳng đến
nhiều tiết tự thời hầu. Chừng ấy mới được khí mãn Thần toàn, pháp
tài quảng đại, rồi mới có thể luyện đại đơn.
Công phu viên mãn, thất khiếu sanh quang, tam dương khai thái,
Thần kiếm thành hình.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
26
Lúc này là lúc tấn thủy đẩy thuyền, nhân gió phát hỏa. Cho đến
nhất dương nội sinh, mới có thể cướp đoạt Thiên cơ bên ngoài.
Lúc hạ thủ khai quan, là thể thủ ngoại kim đơn của thân ta. Đem
rồng gả cho cọp, để tác thành nhân duyên phu phụ.
Nếu tất cả đều đã qui căn, thì được lặng lẽ vậy, và cùng nhau dấy
động chàng Kim lang.
Nơi hải để. Sau đó mới khai Giáp tích và thông Nê hoàn, rồi rơi
nhập vào cung Thủy tinh, cùng với Mộc hống phối hợp, chỉ trong
một nửa thời hầu.
Qui căn đã định thì Chân hỏa xung nhập tứ chi, toàn thân tợ như
lửa thiêu, như dao cắt, khó chịu đựng nổi. Tới đây mới gọi vẹn
mười hảo hán, lại càng lo lự hiểm phòng nguy. Lo mộc dục thân
tâm để tá trợ cho Thủy Hỏa Ký Tế.
Lúc này muôn khiếu đều khai, như dưới lưỡi có hai huyệt Huyệt
bên tả là Đơn tĩnh, huyệt bên hữu là Cam tuyền, danh chánh là
Dũng huyền, đều theo cốt mạch đồng khai. Nơi dưới thì tân dịch
xuống đến miệng, không thể nào thâu nuốt kịp, mùi vị rất lạ, ngọt
tợ đường phèn.
Tân dịch cứ như vậy mà tiết ra mãi, sau 60 tiếng đồng hồ mới dứt.
Chính đến thời hầu nầy, hốt nhiên một điểm Chân diên hạ giáng,
mát lạnh như giá băng. Cũng ngay lúc này một điểm Chân hống lai
nghinh. Lúc nầy đúng là chỗ hung ác, là tam hồi cửu chuyển, là
hàng phục binh sư, triệu vời tướng tá. Cần lo đề phòng chiếu cố nơi
trong hư không. Hoặc thấy long hổ tương giao, Thiên địa giao thái,
nhật nguyệt hiệp cung, chư Tiên và các cảnh đẹp phát hiện, nhất
thiết không được vui nhận, vì sẽ bị mắc lấy ngoại tà.
Sau ba ngày Chân diên đầu Chân hống, tức sinh đại dược. Đó là
lúc hai nhà tranh chiến, nếu ta không tiết lộ huyền cơ, tất nhiên
người tu sĩ sẽ bị chín người lòng sinh sợ hãi liền gặp ma chướng.
Đã luyện được Tiên thiên nguyên dương, thì cả cơ thể biến hóa
như Thần. Tuy là như vậy nhưng lại hại ta, dù hóa nên hình, cũng là
âm thần!
Là âm thần mà vẫn rất linh hoạt, được thiên biến vạn hóa, tạo ra
các cảnh tai hại, không có tài năng nào hàng phục được!
Có nhiều người thường nói:
Nể hội lục thần, phương tài thuyết tử sanh
Bất hội lục thông thần, hưu tư phục quỉ thần.
Chẳng hàng phục được quỉ thần, chớ mong thành Chánh giác. Nếu
sai khiến được quỉ thần, cũng không được tương kiến, nên không
gặp nguy hại.
Giữ vẹn Thái cực tính, sau 60 giờ thì khí khí tương thông. Chân
khí mãn đến tột, thì Chân thần sẽ linh động, thoạt nhiên hóa xuất
Thái dương lưu châu. Lúc bấy giờ trăm ngàn Long thần thảy đều
kinh thất.
Đó là lúc Chơn thần và Chơn đơn được kết thành. Tới đây mới
biết mệnh ấy do ta mà không do Trời.
Tiên gia có nói:
Giá hội đại tử kim phương hượt (sống)
Lại nói: Nhất chiến nhi thiên hạ bình.
Đến được địa vị nầy, mới thật chân chánh Thiên địa giao thái, nhật
nguyệt giao cung, Chân dương đại dược kết thành, rồi trong khoảnh
khắc Châu thiên hỏa sẽ phát, Dương thần thoát thể, buông tay vô
ngại. Lúc nầy nên chuyên tâm trì chí, trì không thủ hư, tùy Thần
biến hóa.
Tất cả vạn vật đều do Thiên địa phát sanh. Nay đã có người đoạt
ngôi Chánh giác, thì tất cả đều hướng về, như vạn Thần triều lễ,
như sống tiêu diêu nơi cõi bồng lai, có ba ngàn Ngọc nữ hầu phụng.
Suốt ngày vi dự Bàn đào thượng hội, uống Tiên tửu, ngắm Tiên
hoa.
Luyện xong trăm ngày, Huyền quan tự mở.
Luyện đến sáu tháng, cơ thể tợ ngân cao.
Luyện đến mười tháng, Dương thần thoát thể, một thân biến hóa
thành mười vạn thân.
Luyện đến 12 tháng, đoạt trọn toàn số Thiên địa. Dương thần đã
thành, đi đứng dưới Nhật nguyệt đều không có hình bóng. Vào ra
kim thạch đều vô ngại. Xuống nước không chìm, vào lửa không
cháy. Chẳng sợ đao binh. Quỉ thần không còn dòm ngó. Biến hóa
vô cùng, và thành bậc Chân nhân vậy.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
27
Đại dược kim đơn là công phu Tạo hóa. Tam hồi cửu chuyển, hỏa
hầu rất tế vi.
Qui căn khẩu quyết chỉ tại nơi trong 5 và 7. Cầm lấy Trời đất tợ
như xây vần điên đảo, đều là tự nhiên như nhiên.
Tuy là tự nhiên, nhưng phải bắt chước theo cơ tạo hóa của Thiên
địa, mới có thể thành tựu.
Còn đại dược phục thực, phải theo cơ tố tác mà vượt qua, theo cơ
hiển hiện mà vượt qua, theo cơ khảo thí mà vượt qua. Cảm ứng đến
chỗ tự nhiên, để đạt đức Chí thành.
Công phu tuy một năm, nhưng hỏa hầu vi tế chỉ trong một trăm
ngày, là động tịnh nguy hiểm.
Có người trí huệ rất linh mẫn, nghe một biết mười, tam giáo kinh
thơ đều thuộc nằm lòng, chẳng qua cũng chỉ minh được Tánh lý mà
thôi. Còn kim đơn tạo hóa Đại đạo Thiên cơ, nội ngoại, hai lãnh
vực Chân tiêu tức làm sao rõ thấu. Nếu quả gặp được bậc Chân
nhân, thực sự trao phó Chân truyền, thì sẽ tận tánh chí mạng, khác
nào nước về biển cả. Từ đó mới quan sát các Đơn kinh thảy đều
Chánh đạo.
Đơn thơ của các vị Tổ sư trước, đa phần đều trong bí ẩn. Tuy vậy
nhưng từ câu câu, từ chữ chữ, thảy đều có ẩn tàng Chân chỉ, chỉ vì
do người không thấu tận chỗ thâm sâu, thí dụ như thuyết Kim đơn
phục thực, có nhiều người ngộ nhận.
Sao không tìm hiểu về cơ huyền của khiếu diệu, hấp tận huyền khí
của Tây giang.
Cuối cùng cũng không liễu ngộ, lại làm theo tiểu sự là xuy mao
tàm tỳ, phỉ báng Cao nhân, vậy làm sao cầu được Chân sư để tiếp
thu Chánh pháp.
, đây là nguyên thủy của Đốc mạch, là mạch quản đốc tất cả
các dương khiếu và dương kinh mạch trong cơ thân con người, Đốc
mạch còn là cái thang để cho những người đại chí leo lên Trời.
, đây là mạch Nhâm, là mạch phát sinh nguyên khí, và sanh
sanh không dứt, Nhâm mạch quản nhậm các kinh mạch, khiếu
thuộc âm.
Mạch Nhâm và Đốc, trong thời Thái cực mới giao hợp nhau để
phát sinh Chân khí, cũng từ nơi Cốc thần là nơi Thái cực xuất hiện,
mới gọi là khiếu trung hữu khiếu.
Kim Tiên chứng luận có luận về Cốc thần:
Các hàng tu sĩ cần phải chú trọng hai quan điểm:
- Quan điểm thứ nhất là quên lời nói.
- Quan điểm thứ hai là bảo thủ ngôi nhất.
Nhất này không phải hư danh, mà là Thái cực, là Nguyên quan.
Thánh nhân ẩn ngôn gọi Nguyên quan nhất khiếu, hay bảo Nhất Tu
hành đến bậc Huỳnh đình, cũng trong Nhất nầy.
Con người lúc còn tráng kiện thì Nhất nầy linh. Còn người suy
nhược thì Nhất này bị tồi tệ. Diên và hống cũng từ Nhất này sinh ra.
Lúc nào công phu Thiền định đến trạng thái Thái cực, là tịnh cực
hư vô, tức có một khí Tiên thiên từ hư vô lại.
Mượn cái hình của Nhất để luyện cái khí Nhất.
Luyện được Nhất này viên mãn thì vạn sự sẽ được hoàn tất. Đều
ám chỉ Nhất nầy là Nguyên quan.
Nguyên quan khẩu quyết đã nói hết ở đây.
Tất cả mọi người tu hành, không ai là chẳng ôm chặt lấy niệm về
Nhất nầy để giữ lấy sự tích tụ Chân khí cho đến thành Chân. Tức là
dùng lửa nấu thuốc cho thành đơn, lấy Thần ngự khí mà thành Đạo.
Cho nên trong kinh Phong hóa có nói: Đạo này rất giản dị.
Chỉ là giáng niệm đầu vào Khí huyệt, Thần khí giao nhau lâu
ngày, tức siêu nhiên xuất hiện.
Nhất nầy tại nội dương sanh thì mở, dương tán thì liễm. Nương
theo ngoại vật mà chờ, rồi đem khí nầy trở về bản sở.
Lúc khiếu này chánh khai, tức là thời Cửu hào dụng công, đó là
thời nhị hầu thể mâu ni.
Điều dược đồ thuyết nói: Khí phát tắc thành khiếu, cơ tức tắc diêu
man.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
28
Sở dĩ gọi dược tức hỏa, hỏa tức dược. Dược và hỏa tức đảnh khí
phân ra làm ba, nhưng nguồn gốc chỉ có một. Là một khiếu, có tên
là Yển nguyệt lư, Mậu kỷ môn, Tây nam hương. Tên tuy có nhiều
nhưng chỉ là Cốc thần. Là căn cội của Thiên địa. Là tổ của hô hấp
vãng lai. Là tông của âm dương hạp tịch. Là đại quan khiếu của Tu
sĩ.
Công phu tập tịnh lâu ngày thì thấy một ải quan nầy, và dược lư
hỏa hầu mới là chân đích.
Trộm lấy huyền khí của Trời đất, đoạt cơ tạo hóa, hóa sinh ra các
cõi Trời, mở mang và làm sáng tỏ ba cảnh Bồng lai, cũng đều tại
khiếu này. Các bậc Tiên giai cũng từ thấp cấp mà lên.
Các kinh thư thuyết về Nguyên quan có dư trăm điều, nhưng chưa
hề nói thẳng nguyên ủy. Ta nay được Chân sư truyền chỉ, nên chép
rõ ra đây, để được theo ý của Hoa Dương Thiền Sư về chân chỉ của
Cốc thần.
---oOo---
Chương Mười
CHÁNH PHÁP
Ngộ Chân trực chỉ có bài:
Thử pháp chân trung diệu cánh chân,
Đô duyên ngã độc dị ư nhân,
Tự tri điên đảo do Ly Khảm,
Thùy thức phù trầm định chủ tân.
Kim đảnh dục lưu châu lý hống,
Ngọc trì tiên hạ thủy trung ngân.
Thần công vận hỏa phi chung đán,
Hiện xuất thâm đàm nhật nhất luân.
Công phu tu luyện, là làm cho tánh hống tình diên tương hiệp, làm
cho lưỡng nghi, tam bửu, ngũ hành, đều qui căn phục mạng, mới có
phương hướng thượng công phu để đoạt cơ Siêu thoát.
Về dược vật thì dễ nhận chân, nhưng hỏa hầu vốn thiệt khó khăn.
Hỏa hầu là pháp trình tu luyện.
Lữ Tổ nói: Thượng đức giả dĩ Đạo toàn kỳ hình, đó là hạng người
thuần dương chưa phá. Còn hàng hạ đức phải dùng thuật để kéo dài
tuổi thọ, là nhân Khảm thể đã hình thành.
Về hàng hạ đức phải mượn giả pháp để làm pháp truy nhiếp, gọi là
thuật vậy.
Nếu vô pháp vô thuật, tức không thể nào phản bổn hườn nguyên
được.
Còn mạng cơ không tạo kiên cố, tinh khí hằng tẩu lậu, cũng như
tâm hằng sinh niệm, thì Đại đạo khó thành,
Cho nên Tiên Ông mới nói:
Thử pháp chân trung diệu cánh chân.
Đô duyên ngã độc dị ư nhân.
Pháp mà nói chân nói diệu, tức là pháp Chí chân Chí diệu.
Pháp đã được Chí chân, tức có cơ năng trộm âm dương, đoạt tạo
hóa, chuyển sanh sát, nghịch khí cơ.
Còn pháp đã đạt đến Chí diệu, là Thần quỉ cũng không thể nào đo
lường được. Chiêm bốc cũng không qua được pháp Chí diệu này.
Sống trong trạng thái Tiên thiên, cũng không hề trái lại với Thiên
lý. Sống trong thế giới Hậu thiên, cũng hằng phụng mệnh theo
Thiên thời. Đó là cái đạo của Thánh nhân.
Còn bàng môn tiểu pháp chỉ phụng sự cho thế giới thiên chấp, mà
không phụng sự cho Chánh đạo, cho cơ Liễu tử siêu sanh được.
Tu luyện Chân pháp chí diệu, huyền diệu tại chỗ nào?
Huyền diệu tại điên đảo. Là điên đảo âm dương, là nghịch thi tạo
hóa.
Như Ly là hỏa, thì ngoài hùng mà trong thư. Trong thư là Chân
âm. Nơi con người là linh tri, tàng tại tâm con người. Tâm con
người mỗi khi phát động, thì linh tri thượng đằng và viêm nhiệt.
Khảm là thủy nội minh mà ngoại u ám.
Sự sáng bên trong là Chân dương. Nơi con người là hiện tượng
của Chân tri, có đủ nơi đạo tâm. Nếu đạo tâm bị mê muội thì Chân
tri bị ẩn tàng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
29
Công phu điên đảo âm dương, để phát sinh đạo tâm, để định nhơn
tâm.
Đạo tâm sinh, tức Chân tri được cương kiện, thì loại tinh-nhất-
thủy thượng thăng.
Nhơn tâm định tức Linh tri được nhu thuận, thì loại hỏa kháng táo
hạ giáng.
Thủy thượng, hỏa hạ, thì thủy hỏa tương tế.
Linh tri là tánh, tánh thuộc mộc, mộc tánh nhu nên dễ thượng phù.
Chân tri là tình, tình thuộc kim, kim tình nhu nên dễ hạ trầm.
Linh tri thượng phù, nếu dụng sự là chủ của Chân trung, lại có giả.
Chân tri hạ trầm, mà chẳng rõ rệt, là khách, giả hãm nơi Chân.
Đó là cơ thuận hành, để định ngôi chủ khách. Là lấy Chân tri của
tình làm chủ, khiến cho cơ trầm hạ mà được phù thượng. Lấy cái
tánh Linh tri làm khách, khiến cho cơ phù thượng mà được trầm hạ.
Chủ khách phản phúc mà kim mộc thôn tính nhau.
Thủy hỏa giao mà kim với mộc nuốt nhau.
Đạo tâm kiện thì nhân tâm thuận.
Chân tri và Linh tri lưỡng lượng rồi hiệp nhất.
Tánh với tình giao cảm chặt chẽ, kim đơn kết.
Đó là Chánh pháp Chí chân Chí diệu.
Chẳng phải sắc, cũng chẳng phải không, chỉ tại người chẳng biết
mà thôi.
Cái chỗ đọc tri mà được làm ra, nên gọi Tự tri. Lại nói: Có ai biết?
Là chẳng biết mà lại tự tri, là biết về cơ trộm lấy huyền khí, nhưng
Trời đất cũng không hề hay biết.
Chánh đạo có tiên có hậu, có cấp có hưỡn. Nếu không biết được
cơ diệu dụng của tiên hậu và cấp hưỡn, mà chỉ biết có dược vật, tức
điên đảo khó thi vi, chủ khách khó định.
Sách Khẩm tiếp có nói: Kim đảnh dục lưu châu lý hống.
Ngọc trì tiên hạ thủy trung ngân.
Kim là loại vật bền cứng. Ngọc là vật ôn nhu. Đảnh là dụng cụ
luyện dược. Trì (cái ao) là loại vật dưỡng hỏa. Kim đảnh, Ngọc trì,
là nói về sự thực tế trong công phu tu luyện, là lấy cương nhu làm
thể.
Nhơn tâm thuộc Ly, Ly vốn là Càn thể, tức là Kim đảnh, là Địa
nhị sanh hỏa là Linh tri.
Khôn gia vốn là loại vật nhu thuận trung chánh, tức là bản lai của
Lương năng.
Bổn lai của nhơn tâm vốn không không lộng lộng, vốn hư linh bất
muội. Chỉ vì sự giao tiếp với Thức thần hậu thiên, nên mượn cơ
linh mà sinh điều vọng, thấy cảnh sắc mà dấy động trần tâm.
Nương theo gió mà tạo nên sóng biển, không một giờ ngừng nghỉ!
Như khí hống trong chậu gặp lửa, thì bay lên, khó mà giữ lại được!
Tham Đồng Khế gọi Thái dương lưu châu thương dục khứ nhân
( ). Đạo tâm thuộc Khảm, Khảm vốn là Khôn thể, tức là Ngọc trì,
nội tàng Thiên nhất sanh thủy là Chân tri. Là vật cương kiện trung
chánh của Càn cung, tức bổn lai Lương tri.
Chỉ vì bị rơi vào khách khí của Hậu thiên, nên vè dụng sự của
Chánh khí bị thoái vị, dương bị hãm trong hai âm, thật là bị giả tá
tồi tệ, gây nên sự trầm nịch trong biển dục, khiến cho Lương tri bị
mê muội như kim ngân chìm dưới nước, không mà tợ như có.
Ngân là kim loại. Thủy trung ngân là loại kim khí bị tàng giấu
dưới nước.
Loại kim này, về Tiên thiên bổn tánh là Lương tri, tại hậu thiên là
Chân tri của đạo tâm. Nhân vì Chân tri chí cương chí kiện, nên ví là
Chân diên. Nương theo Chân tri thì thành Chánh giác, lại ví là:
Chân chủng.
Từ xưa đến nay chư Thánh đều thể thủ đại dược này mà liễu viên
tánh mạng.
Linh tri của nhân tâm tuy là dễ động, nếu được Chân tri của đạo
tâm chế phục, tức Linh tri sẽ qui về Chân tri, sẽ không còn bay chạy
nữa. Tham Đồng Khế gọi: Tốt đắc kim hoa chuyển nhi tương nhân.
Có bài phú của Huỳnh Hạc nói: Li nội thất ban châu sa vô Chân
chủng, tắc thời khắc nan lưu thất ban châu sa.
Thất ban châu sa là: nước mắt, nước giải, tinh, kim tân, ngọc dịch,
khí và huyết.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
30
Thất ban châu sa bị bất định là do Linh tri của nhân tâm bất định.
Linh tri của nhân tâm bất định, là do Chân tri của đạo tâm có chỗ
lỗi lầm.
Nếu muốn lưu giữ Linh tri của nhơn tâm, trước nên hạ xuống nơi
Chân tri của đạo tâm, tức là thủy tắc hống đầu diên quật. Do đó mà
Linh tri tự nhiên ngưng kết, không còn tẩu tán nữa.
Sau đó mới lấy đạo tâm chế phục nhân tâm, gọi là: Chung tắc diên
nhập hống gia.
Lấy nhân tâm thuận theo đạo tâm. Lấy Chân tri thống chế Linh tri.
Lấy Linh tri dưỡng dục Chân tri. Cương nhu tương đương, kiện
thuận như nhất. Tánh tình hòa hiệp, không lìa nửa khắc. Tự nhiên
sẽ được kết thành một hạt viên minh bửu châu. Châu nầy có một
vầng Linh quang rạng chiếu, tất cả khí âm tà cũng không bị tổn
thương. Cho nên có lời nói:
Thần công vận hỏa phi chung đán (buổi)
Hiện xuất thâm đàm (đầm) nhật nhất luân.
Thần công là Thần minh mặc vận trong công phu Thận độc, Hỏa
là Chân tri và Linh tri hiệp nhất, nơi hỏa khí.
Công phu vận hỏa, là giới thận hồ kỷ sở bất đổ (không thấy),
khủng cụ hồ kỳ sở bất văn (chẳng nghe). Là vận Chân tri, Linh tri,
cương nhu hiệp nhất. Là huân chưn sao cho không còn một điểm tể
chất nơi trong phương thốn.
Công phu về Thần công Chân hỏa, tợ như đứng trên đầu sào thấy
mọi hình ảnh, tợ như tiếng hô trong cốc dội vang.
Nếu công phu đến trạng thái tâm hồn như mờ mờ, tức không chờ
trọn ngày âm sẽ hóa thành dương, tợ như mặt trời chiếu xuống đầm
sâu.
Lời thi, chỗ tối yếu chỉ này, tức công phu điên đảo âm dương, hòa
hiệp tứ tượng, dễ như trở bàn tay.
Đây là pháp tượng ngoại đơn, có biệt danh là “hườn đơn”. Là do
đơn đã ra đi mà dược trở về, đã mất rồi nay lại được, là từ ngoài
vào trong, nên gọi Ngoại đơn, là gọi hườn đơn.
Đơn nếu đã về tức là nội đơn.
Đó là sự phân biệt ngoại đơn và nội đơn.
---oOo---
Ngộ Chân thiên, Chánh pháp có bài:
Chiết tương Khảm vị trung tâm thực,
Điểm hóa Ly cung phúc nội âm.
Tùng thử biên thành Càn kiện thể,
Tiềm tàng, phi dước tổng do tâm.
Chương nói về Khảm Ly, là nói về hiện tượng của nam nữ nhất
định.
Chương nầy nói về Khảm Ly, là nói về âm dương tinh của ngũ
tạng.
Chương trên lấy nam âm dương nữ làm điên đảo. Chương nầy lấy
âm năng biên dương làm điên đảo. Bởi trong điên đảo có điên đảo,
đó là diệu thuật hườn đơn.
Con người thân thuộc thể Tiên thiên vốn hồn nhiên chất phác, nơi
tâm vô sự nên khỏi phải điền.
Cho đến lúc tình tứ đã khai, âm dương giao cảm, nên Tiên thiên
Chân khí bị buông rơi xuống Khôn cung. Cái thể của thuần Càn nơi
phúc nội bị phá, nên biến làm âm tinh gọi là Ly cung nhật trắc, do
đó nên mất cửu thị và Thần Tiên đơn pháp.
Chiết Khảm trung tịnh cực nên động của Chân thủy, là cơ ẩn phục
của Linh quang ta, là dòng lưu châu rực rỡ.
Cụ thể là cất nước lên để diệt lửa, tức là điền vào ngôi bị hư trống,
hầu phản phục lại cái thể Thuần dương, và hườn đơn có thể lập
thành.
Tuy nói: Chiết, cũng chẳng qua là mượn cái khí Tiên thiên Chân
nhất, thực không thấy được hình chất. Cho nên mới mượn chữ chiết
để thể hiện cho cơ Thần diệu.
Trong thời gian Chiết Khảm điền Ly gồm có công phu ôn dưỡng.
Cái thể đã thành Càn kiện, tức là âm tận dương thuần, như cơ tiềm
tàng của Thần long nay bay vượt lên và biến hóa theo tâm, nào có
chờ thời nầy mới dùng Lục hầu hỏa phù.
Tham Đồng Khế lấy sáu hào của Càn phối với sáu hầu trong đảnh.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
31
Càn tức là Long. Tiềm tàng là tượng của hào Sơ Cửu và Cửu nhị.
Long phi dước là tượng của hai hào Cửu tứ và Cửu ngũ.
Do tâm là tấn dương hỏa, thối âm phù, đều do tâm trung mặc vận.
Lại có bài:
Thiên địa tài kinh Bỉ Thái,
Triêu hôn hảo thức truân Mông,
Phúc lai thấu cốc thủy triều tông,
Diệu tại trục thiêm vận dụng,
Đắc nhất vạn ban giai tất,
Hưu phân nam bắc tây đông,
Tổn chi hựu tổn thận tiền công,
Mạng bửu bất nghi khinh lộng.
Bỉ Thái Truân Mông, là nói về 384 Châu thiên. Còn thuyết trục
thiêm, còn nói đắc Nhất là phương pháp trúc cơ, mới có thể cầu
đơn.
Lữ Tổ nói: Tiên thể hậu thiên, hậu Tiên thiên. Đó là nói về thứ tự
tạo tác đơn dược.
Kim hỏa thư hùng, tức âm dương hiệp, cho nên ở đây nói hỏa hầu
bỉ thái.
Truân và Mông cũng là hỏa.
Thượng âm hạ dương là thái. Là lúc khí dương từ đất thăng lên, về
thời gọi là triêu, là Tấn dương hỏa thì dụng Truân.
Trên dương dưới âm là bỉ. Là khí dương từ trên Trời giáng hạ, về
thời gọi là hôn, là thối âm phù thì dụng Mông.
Đó là thiên nhiên Chân hỏa.
Chân hỏa không hề mượn sức miễn cưỡng.
Chỉ tại Thiên tâm thời chánh, trăm mạch đều thuận theo, thủy hỏa
tự thăng giáng, tuần hoàn không cùng, như bánh xe đương vận
chuyển, như dòng nước chầu về nguồn, trăm lượng về đông, tức
gần thấy dương tấn một phân, âm tự thối một phân, hống thêm một
phân, diên tự trục bớt một phân.
Cho đến lúc âm tận dương thuần, lai hườn hỗn độn như một, tất
nhiên vạn sự đều hoàn tất.
Lúc bấy giờ chẳng còn chia nam hỏa, bắc thủy, đông mộc, tây
kim, về hình tượng khác nhau.
Tổn chi hựu tổn, chính là công phu thủ Nhất. Là trong một cõi
lòng được lặng lẽ, thì muôn duyên bên ngoài mới chấm dứt. So với
công phu trước kia là gia bội sự cẩn thận. Chủ yếu là dược thuần
thục lão thành, để được vẹn toàn mạng báu của ta. Lại chẳng hề
dám dấy lên một mảy vọng niệm, làm cho các vật trân bửu của ta bị
tán thất.
Lư đảnh đã được an bài một tháng, thì âm dương diên hống giao
nhau như bánh xe đương vận chuyển. Lúc này Chân ý phải hạ trí,
để thu nạp trăm dòng nước về nguồn.
Tổn chi hựu tổn là luyện cho tâm thành đống tro lạnh, mà chí lại
phát lên phấn chấn.
Công phải chuyên cần, cảnh sắc thảy đều quên.
Ba chục cái tăm xe, chung thành một bánh xe. Lúc tịnh thì thấy rõ
từng cái tăm xe, nhưng lúc bánh xe hà xa vận chuyển, thì chỉ thấy
một khối vòng tròn lâng lâng tuyệt mỹ. Đó là tổn dĩ chí ư vô, trong
Đạo đức kinh đã nói.
Sông Hán nước chảy về nguồn là biển cả, mà thầy Trang Tử đã
nói:
Đắc kỳ Nhất, vạn sự tất.
Lại có bài:
An lư lập đảnh pháp càn Khôn,
Hà luyện tinh hoa chế phách hồn,
Tụ tán nhân uân thành biến hóa,
Cảm tương huyền diệu đẳng nhàn lôn (luân).
Tinh hoa tức ô thố hai loại thuốc.
Hà luyện là công phu phanh luyện nấu nung.
Luyện phần tinh của mộc, để khiến cho hồn chiêu phách.
Còn luyện thành phần hoa của kim, để khiến cho phách giữ lấy
hồn.
Hồn và phách chế hóa nhau, tức kim đơn có triệu chứng sắp thành
tựu.
Tựu tán nhân uân, là hiện tượng đắc dược.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
32
Theo cơ biến hóa đó mà sanh thân, mà đến ngôi Thần Thánh, đều
do cơ diệu dụng của huyền tẩn.
Tinh là hống tinh, hoa là diên hoa, hai vật này đều có sự quan hệ.
Đó là địa phách bắt giữ châu hống, và Thiên hồn chế ngự thủy kim.
Hà luyện không ngoài pháp môn Thủy Hỏa Ký Tế.
Có thăng giáng, có tác dụng trên dưới, thì tự có diệu cảnh tụ tán
của hai khí nhân uân, đó là qui luật tự nhiên như nhiên.
Lời thi này đều chú trọng bốn chữ “Tụ tán nhân uân”.
Càn không ở dưới, Khôn chẳng ở trên là bỉ.
Càn khí giáng mà Không khí thăng là thái.
Tụ tán là hiện tượng bồi hồi hỗn hợp.
Nhân uân là hai khí âm dương thuộc Tiên thiên.
Trước là từ nơi vô mà biến ra hữu, lại từ hữu mà hóa thành vô, gọi
là Hóa.
Thiên cơ huyền diệu như vậy, há chẳng gia tâm cùng cứu sao.
Tụ tán là Chân khí bàng triền, tụ mà không tụ, tán mà chẳng tán.
Nhân uân là hai khí giao hội, tợ như ngon ngót thơ sướng, trạng
thái như người sau khi ngà rượu.
Vô biến hữu, là nói nơi hư vô sinh dược.
Hữu hóa vô, là nói tinh khí hóa Thần.
An lư lập đảnh, là nói về huyền chi hựu huyền.
Lại có bài:
Mộng yết Tây huê đáo cửu Thiên,
Chân nhân thọ ngã Chỉ huyền thiên.
Kỳ trung giản dị vô đa ngữ,
Chỉ thị giao nhân luyện hống diên.
Chương nầy trực chỉ kim đơn chân quyết.
Cũng như Thích môn nói: Chỉ một nhất thừa.
Luyện diên hống ba chữ, đủ bao trùm cả toàn chỉ một bộ sách Ngộ
Chân Thiên.
Phàm, trước tiên luyện hống rồi kế tiếp luyện duyên (diên). Cuối
cùng mới trục diên thêm hống. Cứ theo từng bước, cũng chí tại
công phu luyện diên chế hống.
Ca Tượng Tiên ca rằng:
Cử thế hà nhân thức hà xa,
Tử dương Tây khứ cầu Tây hoa,
Tây huê trượng nhân chưởng xu hựu,
Tiên đường chỉ dữ Chân đơn sa.
Lời thi nầy giải thích về người tu đạt được trạng thái chiêm bao
yết kiến Tây huê đến tận chín tầng Trời, là chỉ mượn ý trong lời ca,
để hiển thị nơi dược sản và luyện đơn.
Cao thị làm bài Kim đơn ca vào đời vua Tống Chân Tôn. Trương
Công trước tác Ngộ Chân Thiên vào đời Tống Thần Tôn năm Ất
Mão.
Có lời ca:
Cổ Hoàng vấn Đạo không động thất,
Thủy đắc hoàng cương, vị toàn tất.
Hồi đầu Thục quốc phỏng Nga My.
Thiên chân hoàng nhân dữ Chân nhất.
Chân nhất chi đạo hà sở vân.
Mạc nhược tiên sao mậu kỷ môn.
Mậu kỷ môn trung hữu kim thủy.
Kim thủy tiện thị huỳnh nha căn.
Huynh nha căn vi vạn vật mẫu.
Mẫu đắc tử hề vi đảnh phủ.
Nhật hồn nguyệt phách giao cảm thời.
Nhất phù nhất trầm Châu tự phi.
Huyền châu phi đáo Côn lôn thượng.
Tứ dục đắc chi bằng Võng Tượng.
Võng Tượng đắc chi qui Giáng cung.
Giáng cung chưn nhập cơ phu hồng.
Cơ phu hồng hề tẩn phát hắc.
Bắc đầu do tư lạc tử tịch.
Đại tai cửu thập nhật thành công.
Phương phất kiều sơn hữu di tích.
Ngày xưa Cổ Hoàng hỏi Đạo nơi núi Không Động, chỉ mới đắc
được phần cương lĩnh bao quát, mà chưa đắc được Chân truyền trọn
vẹn. Sau đó trở về nước Thục và lên núi Nga My cầu pháp ở một vị
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
33
Chân sư, mới hiểu được về Thiên chân hàng nhân, cùng lý Chân
nhất.
Cái đạo Chân nhất là gì?
Trước tiên nếu không rõ cửa mậu kỷ. Trong cửa mậu kỷ có kim
thủy. Kim thủy là căn cội của huỳnh nha, Huỳnh nha là mẹ của
muôn vật. Mẹ được con rồi là đảnh phủ (nồi vạc). Lúc nhật hồn với
nguyệt huê giao cảm, sẽ tạo nên một nổi một chìm, thì có một hạt
ngọc Châu bay lên. Ngọc Châu bay lên núi Côn lôn. Nếu ngươi
muốn đắc phải cầu Võng Tượng.
(Vô vi), Võng Tượng đã đắc thì về Giáng cung nhờ có Chân hỏa
huân chưn mà da dẻ được hồng hào. Da dẻ hồng hảo tóc râu đen.
Bắc đẩu do đây xóa bộ tử. Chín mươi ngày thành công rất lớn. Lai
vãng núi Kiều còn lưu dấu.
Lại ca rằng:
Càn Khôn âm dương chi môn hộ.
Càn đạo nam hề, Khôn đạo nữ.
Thời nhân bất thức Chân âm dương.
Man man đại địa tầm long hổ.
Lời ca nầy nói về mậu kỷ nhật nguyệt, nói về mẫu tử, đảnh vạc,
nói về kim thủy phù trầm, nói về âm dương long hổ. Gọi là luyện
hống diên.
Ngộ Chân Thiên lại có bài:
Tây sơn Bạch hổ chánh xương cuồng.
Đông hải Thanh long bất khả đương.
Lưỡng thủ tróc lai linh tử đấu.
Hóa thành nhất khối Tử kim sương
Cọp ở tây, rồng ở đông, đều dữ tợn hung hăng, khó hàng phục.
Lúc nhập thất, tay tả nắm con rồng mà thẩm định đảnh huyền, tay
hữu giữ chặt con cọp mà tinh được điều, khí dược đón chờ, Chân
tức phải ăn khớp với cơ khắc lậu, là không nhanh không chậm.
Sổ tức phải ứng với Châu thiên, Hai khí lai vãng, nhân uân hòa
hiệp, Tam bửu bế tắt, miên miên nhược tồn. Đó là phương dẫn cọp
với rồng vào tử đấu.
Lâm lư thể dược, chẳng phải dùng hai tay bắt mò, chỉ dùng Chân ý
tợ như tay hái thuốc.
Chữ đầu, cho đến câu dưới: Cầu chiên lâm dịch, chẳng qua cũng
chỉ là Thần khí giao cảm.
Chân ý theo hư không để hóa khí. Có kích thì phát sinh hình
tượng, đều không có việc đấu chiến. Tà tông làm sao đoạt dược
Chân truyền.
Tử đấu, là đại sự cầu đơn. Chuyên tâm trì chí, tất có ngày hàng
được long, phục được hổ, sau đó mới tạo nên một cuộc long hổ tử
đấu. Lại chớ nên tào tác trong tử để cầu sanh. Cũng chớ nên đặt tâm
hữu tác trong lúc tử đấu. Chỉ tạo cho cõi lòng lạnh lẽo như đống tro
tàn.
Tây sơn bạch hổ, là Khảm trung kim tinh.
Đông hải thanh long, là Ly trung mộc tánh.
Hai con vật này vô cùng dữ tợn, không dễ bắt được. Nếu đắc pháp
rồi chế phục chúng, tức hai con vật đó sẽ hóa thành đơn.
Chỉ có một chữ tử (chết) mà ý nghĩa rất cao tột.
Lời ngạn có nói:
Dục cầu sanh phú quí, tu hạ tử công phu.
Lưu Hải Thiềm nói:
Tả thủ tróc trụ Thanh long đầu,
Hữu thủ thập trụ Bạch hổ vỹ.
Nhất thời tương lai nhập khẩu thôn.
Tư lương thử vật thậm cam mỹ.
Toán lai chỉ thị thủy trung kim.
Diệu tại huyền cơ Chân yếu lý.
Lại có bài:
Sao trúc hoán qui thông ngọc chi.
Cổ cầm chiêu phụng ẩm đao khuê.
Cận lai thấu thể kim quang hiện.
Bất dữ phàm nhân ngữ thử qui.
Trên hai câu nói về thể dược. Dưới hai câu nói về phương thể
dược.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
34
Đơn phòng khí mãnh có kiếm báu, có đàn cầm, đó là hai hình
tượng của âm dương.
Tre trong lòng trống không mà ngoài thẳng. Con rùa hay rút đầu
vô, mà cũng hay lộ đầu ra. Là sự ví dụ trong thân thể ta. Cho nên
nói gõ ống tre và kêu con rùa, là nói về sự phát tác Chân khí. Còn
dùng tay khảy trên dây đàn cầm để gọi con chim phượng vào hang
đó là cách cổ vũ để chiêu tập phát động tình căn.
Con rùa núp ở dưới hang, rồi ngóc cổ lên nuốt lấy ngọc Chi. Con
chim phượng đậu trên câu, cúi xuống để uống đao khuê. Đó là thí
dụ về âm dương giao hiệp, là trạng thái hai con vật nuốt lẫn nhau.
Ngọc chi sản từ Huê trì, Đao khuê nhọn bén, xuất từ Kỷ thổ. Lại
có sự phân biệt bỉ thử.
Sao trúc, cổ cầm, là hòa thanh mà âm dương đều cầu.
Trúc vốn hư tâm, ứng mà vô dục.
Cầm trinh chánh âm, hòa mà chẳng loạn.
Gọi con rùa, chiêu vời con phượng, ý nói gốc tại Trời nên thân
thượng, gốc tại đất, nên thân hạ.
Nhập dược cảnh gọi là thượng hạ.
Nhập dược cảnh gọi là thượng hạ Thước kiều. Kêu gọi và chiêu
vời, là nói về sự chiêu nhiếp. Thôn là nuốt vào, ẩm là uống, là
những danh từ phân minh về ăn uống. Cổ cầm, chiêu phụng, Cổ
nhân cho là có việc. Sao trúc, hoán qui, tuy là giả tượng nhưng vốn
có căn cứ; là thường thấy những người nuôi rùa, lúc cho rùa ăn
dùng ống tre gõ để cho rùa nổi lên ăn. Đao khuê là mậu và kỷ thổ,
là hai vật vô cùng quí giá trong thân ta.
Lại có bài:
Khảm điển phanh oanh kim thủy phương.
Hoa phát Côn lôn âm dữ dương.
Nhị vật nhược hườn hòa hiệp liễu.
Tự nhiên đơn thục biết thân hương.
Lời thi nầy nói về diên đến được hống đón rước, hòa hiệp mà
thành đơn, công phu chỉ trong một giờ nửa khắc.
Khảm điển là diên khí lúc phát sinh. Lúc nầy phải lập tức phát hỏa
nơi Côn lôn để ứng theo. Cho nên nói, một tháng chỉ có một ngày,
một ngày chỉ có một giờ. Lúc bấy giờ có mùi thơm phát xuất từ
Đơn điền, cơ thân sảng khoái, mắt sáng, thân thể khang kiện. Đó là
hiệu quả đắc đơn.
Khảm điển là lúc thân vi động, là lửa phát từ trong nước, đó là
huyền khí của bạch hổ gọi là âm hỏa. Hỏa phát là nói về công phu
Luyện kỷ đã được thuần thục, tức có sự phát động và trực phát. Đó
là huyền khí của thanh long, là dương hỏa. Hai loại hỏa nầy giao
hiệp, tức âm dương phối dương. Dịch lý nói: Nhị khí cảm ứng dĩ
tương hưng.
Kim thủy phương, là nơi sản dược.
Côn lôn là Càn cng, chỉ hổ huyệt long đầu.
Hai vật là Chân âm và Chân dương, tức Chân thủy và Chân hỏa.
Hòa hiệp là hội qui về Đơn điền, diệu hiệp và ngưng kết thành đơn
cơ.
Thục là nói về công phu bồi dưỡng viên mãn.
Sơ thời thể phục Chân dược nầy, trăm hài cốt nơi cơ thân phát
sinh mùi thơm tho.
Tham Đồng Khế nói: Kim sa nhập ngũ nội, vụ (mây móc) tán
nhược phong vân, Huân chưn đạt tứ chi, nhan sắc duyệt (đẹp) trạch
hảo. Tẩn phát giai biến hắc, xỉ lạc sanh cựu sở. Lão ông phục dinh
tráng, kỳ âu thành trạch nữ.
Có phải là do Chân hương dinh mãn toàn thân không.
Từ đây về sau, tiếp tục vận hành âm phù dương hỏa, tấn thối trực
thiêm, không lỗi thời hầu, thì kim dịch hườn đơn tự nhiên thành
tựu.
Ngộ Chân Thiên có bài:
Tam tài tương đạo cập kỳ thời.
Đạo đức Thần Tiên ẩn thử cơ.
Vạn hóa ký an chư tự lự túc.
Bách hài cu lý chứng vô vi.
Lời thi nầy gốc ở Âm phù kinh.
Tam đạo là ba kẻ trộm đã được thích nghi, tam tài đã an, là do
người tu đã được phục thực nhiều huyền khí đã trộn được, thì trăm
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
35
đốt xương trong người được điều lý. Thiên cơ phát động thì vạn hóa
an khương.
Cơ là lúc sanh cơ, tức khí dương gần phát động.
Trời đất theo sanh cơ đó mà cướp huyền khí của vạn vật. Vạn vật
nương sanh cơ đó mà cướp lấy huyền khí của con người. Con
người nương theo sanh cơ đó mà cướp lấy huyền khí của Trời đất
và vạn vận, để tạo linh đơn cho mình. Lúc đó ta hãy dứt sạch tư lự,
tức đơn dược có trong tay.
Đạo là trộm cướp lấy của cải mà không có người hay biết, đó cũng
là cách tu luyện, là cướp lấy huyền khí của đối phương, để bồi bổ
cho huyền khí mình càng ngày càng sung mãn.
Tam tài trộm cướp nhau, không ngoài trộm cướp ngũ hành. Cho
nên ngũ hành có danh là ngũ tặc. Ngũ tặc của Trời đất theo thời lưu
hành, vạn vật nhân đó mà cướp lấy ngũ khí, để phục thực, để nuôi
sự sống. Trời đất cũng nhân đó mà cướp lấy ngũ khí của con người
và vạn vật.
Con người sở dĩ bị Trời đất cướp mất huyền khí là do tâm vọng
động.
Sanh cơ là thời gian hai khí âm dương phát sinh, đó là bốn giờ tứ
chánh tí, ngọ, mẹo, dậu. Nếu bốn giờ nầy dụng công Thiền định
đúng pháp, tức cướp được huyền khí của Trời đất và vạn vật.
---oOo---
Chánh pháp chỉ có một, tuyệt đối không có hai.
Nho gia có pháp Thủy hỏa ký tế, là lấy lửa đun nước, cho nước
bốc thành hơi, tức đạt vô lậu. Lại còn pháp Hành đình, tức quẻ
Thuần Cấn, với cơ vận hành và tịch chiếu.
Thích giáo có Chánh Pháp nhãn tạng, có Tâm mục phục qui sở tại.
Lão giáo có Cốc thần bất tử.
---oOo---
Chương mười một
TAM BỬU
1. CHÂN CHÁNH ĐƠN DƯỢC LUẬN:
Đơn chẳng phải là đơn, chỉ gượng nói là đơn.
Dược cũng không phải dược, chỉ gượng nói là dược.
Chì vì nhân theo cương nhu tương hiệp, hồn nhiên Thiên lý, nên
có danh là Đơn. Cũng do Thiên lý nhờ cương nhu mà thành toàn
nên mới có danh là Dược.
Đơn với Dược, đồng xuất mà khác tên.
Tóm lại là bổn lai nhất điểm Chân linh của khí hóa.
Khí này sinh vào thời Tiên thiên, tàng cư tại Hậu thiên, vốn tịch
nhiên bất động, vốn cảm mà linh thông. Lấy khí này để luận về vô,
thì không thể nào biết được. Lấy khí nầy để luận về hữu, tức là
thuận theo qui tắc tán phát của Thái cực.
Tịch nhiên bất động, tức là Chân không.
Cảm nhi toại thông, tức là Diệu hữu.
Chân không mà hàm Diệu hữu. Diệu hữu mà hàm Chân không,
chẳng cương mà cương. Cương đến tột thì chẳng nhu mà nhu. Nhu
đến tột thì nhu cương như một, tức tuyệt vô hình tích, tuyệt vô
miễn cưỡng. Đó là Thiên mệnh chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo,
tức nhân sinh bổn lai Càn nguyên điền mục. Tại Nho gia gọi là Chí
thiện hay Chí thành. Tại Tiên gia gọi Kim đơn, hay Tất mễ châu.
Tại Thích gọi là viên giác, hay Mâu ni châu.
Tánh nầy, Đạo nầy, hoàn âm dương, thống ngũ hành, đầy đủ
chúng lý, bao hàm vạn vận. Tiên thiên thì lập về thể. Hậu thiên thì
phát về dụng. Ở vào bậc Thánh cũng không thêm, ở vào bậc phàm
cũng chẳng giảm.
Chỉ vì dượng cực nên sanh âm. Hậu thiên dụng sự thì cơ tá giả
(vay mượn) xuất hiện, còn tinh thần chân chánh thì ẩn tàng. Khách
khí xen vào trong Chánh khí. Chân với giả không phân biệt. Chánh
với tà lẫn lộn. Chẳng phải là vật bổn lai.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
36
Thánh nhân bất đắc dĩ mới nói kim đơn, và đạo hữu vi, để cho
người biết phương mà phản bổn hườn nguyên, để phục hồi lại Càn
Nguyên bổn lai diện mục.
Pháp hườn nguyên vốn không lìa cái đạo cương nhu. Cho nên lấy
dương cương, âm nhu làm dược vật. Âm dương là thể, cương nhu
là dụng.
Ngoài cương nhu không có âm dương.
Ngoài âm dương không có nhu cương.
Hai thành phần đó đồng xuất mà có tên khác.
Âm dương là hệ thống của ngũ hành.
Ngũ hành có nội có ngoại.
Nội ngũ hành là: Thần, tinh, khí, tánh, tình.
Ngoại ngũ hành là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Tánh thuộc thống hệ Nhân thuộc mộc.
Tình thống hệ với Nghĩa thuộc kim.
Thần thống hệ với Lễ thuộc hỏa.
Tinh thống hệ với Trí thuộc thủy.
Khí thống hệ với Tín thuộc thổ.
Con người nắm giữ lấy khí của âm dương ngũ hành.
Nhân nghĩa lễ trí tín qui về một nhà, thì âm dương sẽ hỗn hợp,
cương nhu như một, và một điểm Chân linh của khí ngưng kết,
không tán thất, thành tựu như hạt ngọc Châu tròn trịa sáng rực rỡ.
2. DƯỢC VẬT THUYẾT
Đơn kinh có nói: Thể thủ dược vật, phanh luyện kim đơn, đều là
linh vật Tiên thiên vô hình vô chất. Chẳng phải như không những
loại dược vật có hình có chất. Cũng không phải là loại vật hữu
hình, hữu chất trong thân con người. Chỉ vì từ lúc con người hữu
sanh về sau, hằng thu nhận cái giả mà bỏ lẽ chân, đem cái vô giá
bửu của bổn lai viên thành tiêu phí ngày càng tổn hao, hao đến tận,
đến toàn âm! Trong người dẫy đầy tà khí, tợ như đại bệnh vào
thân, chỉ chờ ngày chết! Chẳng có cách nào để trị để phản âm
hườn dương! Để bảo tồn tánh mạng.
Vậy chân chánh linh dược là loại thuốc nào?
Là khí Tiên thiên Chân nhất. Là Tiên thiên Tinh Khí Thần tam
bửu.
Tiên thiên Chân nhất khí còn có danh là Chân chủng tử. Khí nầy
không rơi vào sắc tướng, chí vô mà hàm chí hữu, chí hư mà hàm
chí thực, Chân không, Diệu hữu, thống nhiếp Tinh Khí Thần tam
bửu. Tam bửu cũng chẳng phải là vật hữu hình, mà là Chân vô
hình.
Ngọc Thiềm tổ sư nói: Loại tinh này không phải là loại tinh giao
cảm, mà chính do nguyên khí phát sinh ở hiện tượng nội bất động
mà ngoại động, đó là Chân động, đó là Chân dược.
Còn khí, cũng không phải là loại khí hô hấp, mà do trạng thái
Thái cực phát sinh, là Chân khí.
Thần đây cũng chẳng phải Thức thần tư lự, hay Thần của Tâm
âm Ly hỏa hậu thiên, mà là Tiên thiên Chơn thần Càn nguyên.
Tuy chia làm ba, nhưng vốn chỉ có một, là Tiên thiên Chân nhất
khí.
Tam gia hiệp nên thành một khí.
Thể dược qui lư là thể loại linh dược Chân nhất khí.
Tam bửu nhờ Chân hỏa huân luyện thành đơn. Từ đó được điểm
hóa các thành phần âm trong thân tâm con người trở nên thuần
dương. Thuần dương là linh vật vô cấu vô trần.
Sở dĩ gọi dược vật là mượn hình tượng để ví dụ. Người đời sau
xem đơn kinh thấy thuyết dược vật, vì chẳng hiểu nên ngộ nhận là
loại vật có hình chất, rồi lên núi cao tầm kỳ hoa dị thảo đem về chế
luyện, rồi mệnh danh là thuốc trường sinh! Có người dùng các loại
vật trong ngũ hành để bào chế rồi gọi là đơn dược!
Chỉ vì họ không biết, hễ loại thuốc hữu hình chỉ chữa bệnh hữu
hình của thân, mà không thể nào trị chữa bệnh vô hình của tâm
được.
Nếu muốn trị chứng bệnh vô hình của tâm, thì phải dùng loại
thuốc Tiên thiên Chân nhất khí.
Có linh đơn cũn phải có bác sĩ Chân tri của ta mới chữa trị được
chứng bệnh vô hình của tâm.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
37
Sách Tham Đồng Khế nói: Đồng loại dị thi công hề, phi chủng
nan vi xảo ngộ.
Có một vị Chân nhân nói:
Trúc phá tu tương trúc (tre) bổ nghi.
Bảo kê (gà) đương dụng noãn (trứng) vi chi.
Vạn ban phi loại đồ lao lực.
Tranh tợ Chân diên hợp Thánh ki (cơ).
Chân diên tức Tiên thiên Chân nhất khí. Còn tất cả các loại phàm
dược đều chẳng phải.
Có bài:
Chân diên diệu dược bất nan cầu,
Chỉ tại Chơn thần hiệp lưỡng mâu.
Lưỡng giã bất hề li Chí thiện,
Tự nhiên linh dược hóa minh châu.
3. TIÊN THIÊN CHÂN KHÍ.
Tiên thiên nhất khí tại hồng mông.
Vô tượng vô hình bất lạc thông.
Nhân đắc sanh cơ Chân diện mục.
Phương tri ngã hữu Chủ nhân ông.
Tu sĩ lúc dụng công Thiền định đến trạng thái Thái cực, tâm hồn
phát sinh hiện tượng hoảng hốt ở tâm, tra minh ở thận, đó là cảnh
tượng hồng mông, tợ như con người nửa tỉnh nửa mê. Lúc nầy cõi
lòng đã thật trống không, tự nhiên có một linh vật từ hư vô lại, đó
là Tiên thiên nhất khí, là một linh vật chí trân chí bửu, gọi là Chân
khí.
Chân khí nầy vốn vô hình, vô sắc, vô tướng, vô âm, vốn chí
thanh chí linh, vốn không hề bị rơi vào nẻo không vong.
Chân khí Tiên thiên vốn là Càn Nguyên Thiên khí, là Chân diện
mục sơ sinh con người.
Chân khí này cùng với Chơn thần là một, tức là Chủ nhân ông
của con người.
Chủ trương của đức Lão Tử là:
Hư kỳ tâm, thiệt kỳ phúc. Là tâm vô niệm, là Chân khí đầy bụng.
Tâm được vô niệm, Chơn thần Tiên thiên mới phản phục.
Chân khí đầy bụng, Chơn mạng sẽ phục hồi.
4. CHÂN DIÊN ĐẠI DƯỢC
Yết tân nạp khí thị nhân hành.
Hữu dược phương năng tạo hóa công.
Đảnh nội nhược vô Chân chủng tử.
Du tương thủy hỏa chử đương không.
Thâu nạp kim tân ngọc dịch và khí, trên đời đã có nhiều người
thực hành, nhưng đó chỉ là vật Hậu thiên, chẳng phải là khí Tiên
thiên, chẳng phải là Chân chủng tử.
Tu sĩ cần phải thể thủ lấy loại Tiên thiên Chân nhất khí để biến
luyện mới thành đơn.
Nếu không có Chân chủng tử, mà chỉ có tu độc luyện, là luyện đơn
độc một khí âm hay một khí dương, khác gì người dùng nước lửa
nấu nồi không! Cuối cùng sẽ bị khô kiệt!
Chân chủng tử là Chân diên.
Sách Tham Đồng Khế có câu: Thực hòa dương dĩ tất. Phúc kê
dụng kỳ noãn. Trồng lúa cần hạt giống. Ấp gà phải có trứng.
Thai tức kinh có nói:
Phục khí bất phục khí.
Phục khí tu phục khí.
Phục khí bất trường sinh.
Trường sinh tu phục khí.
Là: Tàng phục khí thì không phục thực khí. Phục thực lấy khí là
nên tàng phục khí. Phục thực khí hậu thiên, tức không được trường
sinh. Trường sinh là do phục thực Tiên thiên Chân khí. Còn phục
thực khí hậu thiên chỉ giúp con người tạm sống.
Tân là nước khí là lửa. Đơn gia về Ngọc dịch luyện hình cũng
thường dụng công.
Nếu chỉ luyện một khí âm, mà không luyện khí dương, thì tuổi thọ
không được dài lâu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
38
Túy hư thiên có nói: Nước mắt, nước dãi, tinh, tân dịch, khí,
huyết, chỉ tiếp trợ cho sự sống mà thôi. Là nói về sự cô luyện ở
trên.
Chánh đạo ca có câu:
Nhất điểm tối sơ Chân chủng tử.
Lại có bài:
Hư tâm thiệt phúc nghĩa cu thâm,
Chỉ vị hư tâm tếu thức tâm.
Bất nhược luyện diên tiên thiệt phúc,
Thả giao thâu thủ mãn đường kim.
Hư tâm thiệt phúc là lời dạy của đức Lão Tử. Hư tâm là luyện cho
cái tâm hoàn toàn trống không, tức hoàn toàn vô niệm. Có bí quyết:
Thủy hỏa hỗ tương giao dưỡng, tự nhiên niệm lự bất sinh.
Thiệt phúc là tích tụ Chân khí vào bụng cho thật sung mãn. Thánh
nhân có nói: Khí bổn bất li Thần. Thần hữu thời li khí.
Chân khí không bao giờ lìa Chơn thần, hễ Chơn thần trụ ở đâu thì
Chân khí qui tụ ở đó. Thần có thời lìa khí là Thần hậu thiên không
phải Chơn thần.
Công phu luyện cho khí diên trở thành Chân diên, trước tiên phải
lo tích lũy Chân khí nơi bụng cho thật sung mãn, khiến cho khí kim
tinh sung dật nơi thân, sau đó mới dụng công Bảo nhất, để hư tâm,
tất nhiên tánh mạng được song tu, hình và Thần đều huyền diệu, mà
công phu đại tu hành được hoàn tất.
Tâm sở dĩ chẳng hư, lí do hống không có diên qui phục, cho nên
mỗi khi xúc cảnh tâm liền phát động. Chẳng bằng luyện diên để chế
phục, khiến cho tâm có chỗ hàm dục.
Nam tông trước luyện mạng, sau mới tu tánh.
Bắc tông trước tu tánh, sau mới luyện mạng.
Có người hỏi thế nào là luyện diên?
- Càn Khôn giao cấu, thải xuống Huỳnh đình một điểm.
Lại hỏi, thế nào là thâu thủ mãn đường kim?
- Chân tinh đã trở về Kim thất.
Lại hỏi: Thế nào là thiệt phúc?
- Chiết tương Khảm vị tâm trung thiệt.
- Điểm hóa Ly cung phúc nội âm.
Lại có bài:
Dụng diên bất đắc dụng phàm diên,
Dụng liễu Chân diên dả khí quyên.
Thử thị dụng diên Chân diệu quyết,
Dụng diên bất dụng thì thành ngôn.
Diên chia phàm thánh, là do Tiên thiên, Hậu thiên, thanh trược bất
đồng.
Chân diên nên thể thủ, nội đơn ắt luyện thành. Được cá hãy quên
nôm, qua sông bỏ thuyền lại.
Sơ thời dụng diên, sau lại chẳng dụng diên.
Là lời tu chân từ sơ thủy đến cuối màn.
Phàm diên không nên dùng.
Tuy là dụng Chân diên, nhưng có loại diên phải bỏ. Chỉ vì cái ý
dụng diên, nguyên là muốn đắc cái khí Chân nhất, để tàng phục kỷ
hống.
Lúc đã đắc được Chân khí, hống khí không còn thượng xung, ứng
dụng công phu tự nhiên thành vật quí.
Sở dĩ phải bỏ diên, ví như ao diên nấu loại kim ngân, thải ra
khoáng chất phải vất bỏ.
Thân con người có Chân khí nguyên dương, ngày ngày phi tán vì
không biết cách ngưng tụ.
Thánh nhân luyện rồi phục thực Chân diên, ngưng kết tợ Châu sa.
Là do ngày ngày vận hành Chân hỏa, dần dần hống khí gia tăng.
Khi hống tiệm đa, thì diên khí tiệm tán.
Thiêm hống giảm diên, mười tháng lửa đủ. Châu thiên viên mãn
thì diên khí phi phù. Cuối cùng hóa không rồi đi tuyệt tích. Chín
năm hỏa túc, diên khí phi tận. Chỉ lưu lại một vị Càn thủy ngân.
Diên hết hống khô hóa thành kim dịch đại đơn. Thể biến thuần
dương, tuổi sánh bằng Trời, cho nên nói:
Dụng công trọng vẹn về khí Chân diên.
Còn vất bỏ đi, là thuyết dụng diên bất dụng, như đã nói ở trên, há
đâu hư ngữ.
Có kẻ hỏi về thuyết trục diên thiêm hống?
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
39
Tổ sư đáp: Ta thường nghe Tiên sinh Lập Dương nói: Sau khi đắc
dược qui đảnh phải dùng Thần hỏa để ôn dưỡng, ngày đêm công
phu cần mẫn, đó là thiêm hống vậy.
Lâu ngày Thần khí hỗn dung, là diên nhập vào trong hống. Tự
mình biết dược diên giảm và hống khí dần dần tăng lên nhiều, diên
khí dần dần giảm thiểu, đến tận thông. Ví như nấu cơm dần dần
nước bốc thành hơi và không còn nước.
Cái ý mầu nhiệm của trục thiêm là như vậy.
Kim cốc ca rằng: Dụng diên bất dụng diên, tu hướng diên trung
tác. Cập chí dụng diên thời, dụng diên hườn thị thác (lầm).
---oOo---
Ngộ Chân trực chỉ có bài:
Hổ dước long đằng phi lãng lưu.
Trung ương chánh vị sản huyền châu.
Quả sanh hạch thượng chung kỳ thục (chín)
Tử tại phúc trung khởi hữu thù (khác)
Nam bắc tông nguyên phiên quái tượng.
Thần hôn hỏa hầu hiệp Thiên xu.
Tu tri đại ẩn cư trần thị.
Hà tất thâm sơn thủ tịnh cô.
Cái đạo Đại đơn công phu qua một thời gian, là một thuở cùng
Trời đất hiệp kỳ đức, cùng nhật nguyện hiệp ánh sáng, cùng bốn
mùa hiệp tiết tự, cùng quỉ Thần hiệp kiết hung. Thật là khó gặp mà
dễ lầm, nếu có chút bất cẩn thì Tiên thiên Chân nhất khí đã đắc,
cũng bị tán thất.
Tiên thiên Chân nhất khí là đơn đã hườn.
Nhân được hườn đơn mà cương nhu hai khí được hiệp thành, cho
nên gọi Chân nhất khí.
Nếu ngoài cái lý hườn đơn, tức không phải khí Chân nhất.
Công phu hườn đơn đến đích, thì đạo tâm cương kiện, nhơn tâm
nhu thuận. Chân tri và linh tri hỗn hợp thành một, Lương tri, Lương
năng thị hiện, đó là Càn nguyên bổn lai diện mục. Linh vật nầy do
bởi tánh cương, nên có hiệu là Chân diên, và do khí tráng nên gọi
mãnh hổ. Chân diên mãnh hổ cũng là Chánh khí hạo nhiên, vốn chí
thiện vô ác, cầm mối Thiên chân Lương tri Lương năng.
Thiên chân đã phục hồi được, hiệp với khí Chân nguyên lúc cha
mẹ chưa sanh ra ta, cùng với Tiên thiên ngũ hành, mới được thành
một khối Thiên chân vĩnh cửu bất hoại. Lại phải cẩn mật phong cố
và ôn dưỡng khối Thiên chân. Lúc này cần tàng tụ Chân khí với cơ
hư cực tịnh đốc thì khí Chơn dương mới sung túc.
Cực tịnh sẽ có động, thì Linh miêu phát hiện. Lữ Tổ gọi hiện
tượng này là thời: Trung tiêu lậu vĩnh, ôn ôn lư đảnh, quang thấu vi
liêm (màn rèm).
Đúng vào lúc này thì dương quang xuất quất như con cọp hùng
tráng, thế mạnh khó ngăn. Chỉ gấp dùng một loại hỏa của Chân tánh
bên trong một điểm hư linh để đón nghinh. Loại hỏa hư linh gọi là
Tẩn long.
Long đằng hổ dước là hiện tượng âm dương đoàn tụ.
Phong lãng lưu: Cọp ra hang có gió sinh, rồng vượt lên dầm nước
mà sóng dậy, đó là cái nghĩa âm dương tướng tranh.
Long hổ giao hội thì tánh tình nương khít với nhau, hiệp lại làm
một. Lúc bấy giờ có một khí từ trung ương hư vô Tiên thiên lại, rồi
ngưng tụ tợ như hạ tất châu, là có hình tượng Thánh thai.
Thánh thai là Cốc thần hiện. Cốc thần là thần của huyền tẩn hiệp
nhất.
Dương huyền là hổ tình, âm tẩn tức long tánh.
Tánh long, tình hổ hiệp thì Thánh thai kết.
Huyền tẩn lập thì Cốc thần sinh.
Công phu đến địa vị nầy, tức phần hữu vi được hoàn tất, cơ vô vi
tất hiển bày, chẳng cần tạo tác, mà chỉ thính tùng tự nhiên.
Nếu có hiệu quả như cây sanh cành lá, cuối cùng sẽ có ngày quả
chín, là con đã có trong bụng mẹ, sẽ có ngày sinh sản hài nhi.
Thánh thai đã ngưng kết, tuy phải vô vi, nhưng phải lo phòng
nguy lự hiểm, là điều cần phải biết thật rõ ràng.
Nam tông và Bắc tông nương theo quái tượng:
Nam thuộc hỏa, Bắc thuộc thủy.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
40
Thánh thai ngưng kết, hòa khí huân chưng, thủy hỏa qui về tông
nguyên, tự tương nung nấu. Là công phu nương theo thiên nhiên,
bởi hiện tượng vật vong vật trợ.
Thần hôn hỏa hầu hiệp Thiên xu:
Thần là buổi ban mai, khởi đầu của một ngày là thời gian dương
khí dụng sự.
Hôn là buổi ban tối, khởi đầu của một đêm, là thời gian âm khí
dụng sự.
Thiên cơ là khí cơ của hai khí âm dương, là đúng thời dương thì
dụng dương, đúng thời âm thì dụng âm.
Hỏa hầu tấn thối ám hiệp với cơ thần hôn. Là ban ngày có công
phu tịch dịch (nhật càn tịch dịch).
Vật vong vật trợ và nhật càn tịch dịch, là công phu ôn dưỡng mười
tháng, là đổi bỏ hào quái Hậu thiên, để đến pháp Tiên thiên. Lúc
bấy giờ mệnh ta về ta, mà chẳng còn do Trời.
Cái đạo nầy có trong nhân loại, mà tu tại chợ đời, và là công phu
đại tác đại dụng thực hành rất rõ ràng. Chẳng phải như sự học vô vi
tịch diệt. Cho nên mới có:
Tu tri đại ẩn cư thành thị,
Hà tất thâm sơn thủ tịnh cô.
Lại có bài:
Nhân nhân bản hữu trường sinh dược,
Tự thị mê đồ uổng bãi phao!
Cám lộ giáng thời Thiên địa hiệp.
Huỳnh nha sinh xứ Khảm ly giao.
Tính va ưng vị vô Long quật
Ly yến yên tri hữu Phụng sào.
Đơn thục tự nhiên kim mãn ốc.
Hà tu tầm thảo học thiêu mao.
Lời thi này nói rõ, trong mỗi con người đều có thuốc trường sinh.
Thuốc nầy phát sinh từ nơi Chân tánh, từ nơi Lương tri, Lương
năng, từ nơi thiện tâm.
Thuốc này đối với Thánh không tăng, đối với phàm không giảm.
Chẳng phải cầu nơi đâu, trong người của ta vốn có sẵn.
Nếu được hạ thủ công phu đến trạng thái mờ mờ tỏ tỏ, là lúc Chơn
thần trực đăng Thánh vức, là lúc tánh định mạng ngưng, vĩnh cửu
bất hoại, là lúc Lương tri, Lương năng thị hiện. Đó là Trường sinh
đại dược vậy.
Chỉ có những kẻ si mê không chịu cùng cứu, chẳng chịu suy lường
đến thực lý của Thánh triết. Còn về tánh mạng căn nguyên lại bỏ
gần cầu xa. Lại bỏ lẽ chân mà tầm nẻo giả. Luông tuồng suốt đời,
đến già cũng không được thành công. Luống tự buông trôi, há
không đáng tiếc sao!
Con người được kiện thuận như nhất, tức Trời đất trong thân
tương hiệp, tợ như nước cam lồ nhỏ rót vào tâm, mà phiền não vụt
thoát.
Tinh thần con người không bị hư hao, thì Ly khảm trong thân
tương giao.
Huỳnh nha tự sinh thì nguyên khí phản phục. Cam lồ là tâm thanh.
Huỳnh nha sinh thì ý tịnh.
Tâm thanh ý tịnh, thì Lương tri, Lương năng, nhất linh Chân tánh,
tợ như lững lờ treo giữa không trung. Chơn thần lúc nầy tịch nhiên
bất động, cảm ứng liền thông, thường ứng thường tịnh. Tạo hóa
cũng khó đổi dời, vạn vật cũng không có phương khuất phục.
Ly nội chi yến, an tri hữu thử Phụng sào: Con chim én đậu trên
hàng rào, làm sao biết được tổ của con chim Phụng nơi thâm sơn, là
mượn để nói về kẻ si mê không thể nào biết được dược vật của hỏa
hầu.
Chỉ vì không biết, nên mới lên tận núi cao để tầm dược thảo, rồi
thiêu rồi luyện, hóa thành uổng phí công phu!
Lại có bài:
Yếu tri sản dược xuyên nguyên xứ.
Chỉ tại tây nam thị bản hương.
Diên ngộ Quí sinh tu cấp thể.
Kim phùng Vọng hậu bất kham thường.
Tống qui thô phủ lao phong cố.
Thứ nhập lưu Châu tư phối đương.
Dược trọng nhất cân tu nhị bát.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
41
Điều đình hỏa hầu thác âm dương.
Lời thi này nói về đoạn đích của dược sinh, để người tu học tùy
thời mà dụng công, và cẩn thận về hỏa hầu.
Tây nam là phương hướng của Khôn, là nói về lúc mặt trăng cực
tối sắp sáng lại, là địa xứ âm cực dương sinh. Nơi con người là lúc
tịnh cực nên có động sinh, là lúc đại dược cũng phát sinh.
Cơ động nầy chẳng phải cơ động của ngoại khách khí, của tình
dục. Cũng không phải do tâm động, mà chính do thận căn phát
động, đó là Chân thời, Chân động và có Chân dược.
Chân dược là phương khí tử hồi sinh, nên phải thể thủ qui lư, để
huân luyện thành loại thuốc trường sinh.
Diên ngộ Quí sinh tu cấp thể:
Quí sinh là thời âm cực, tất có dương sinh. Tu sĩ lúc dụng công
đến trạng thái Thái cực, cũng gọi là Quí sinh, tức có Chân dược
phát sinh, nên gấp thể thủ.
Kim bằng Vọng hậu bất kham thường:
Vọng cũng là Quí sinh. Thường là nếm là thể thủ.
Tống qui Thổ phủ lao phong cố
Thứ nhập lưu Châu tư phối dương.
Bốn câu thi này nói về công phu thể dược.
Thể dược đem về lư để huân chưn, rồi phong cố, rồi vận Châu
thiên.
Dược trọng nhất cân tu nhị bát.
Điều đình hỏa hầu thoát âm dương.
Thuốc phải cân nặng đúng một cân. Thuốc có hai loại là Chân âm
và Chân dương, mỗi loại phải đúng tám lượng mới được bình quân.
Còn hỏa hầu là nói về thuốc non, thuốc già. Thuốc non hay già mà
thể thủ là điều sai thất về hỏa hầu. Chỉ có thuốc đúng phẩm chất là
lúc vi dương triền động, phải lập tức thu hái lấy mới tốt.
Lại có bài:
Hưu luyện tam huỳnh cập tứ thần.
Nhược tương chúng thảo cánh phi chân.
Âm dương đắc loại qui giao cảm.
Nhị bát tương đương tự hiệp thân.
Đàm để nhật hồng âm quái diệt.
Sơn đầu nguyệt bạch dược miêu tân.
Thời nhân yếu thức Chân diên hống.
Bất thị phàm sa cập thủy ngân.
Tam huỳnh là: Lưu huỳnh, Hùng huỳnh và Thư huỳnh.
Tứ thần là: Châu sa, Thủy ngân, Diên và Tiêu.
Các loại thảo dược trên, đối với công phu tu luyện không quan hệ,
nên làm sao tiếp mạng được.
Liễu tánh mà không liễu mạng, tức không phải Chân đạo.
Sách Tam tướng loại có nói: Đồng loại dị thi công hề, phi chủng
nan vi xảo nhân. Bỉnh Thiên địa âm dương nhị khí nhi sanh thân.
Thân trung tức Chân âm, Chân dương nhị khí. Âm dương chi đức,
dương giả cương dã, âm giả nhu dã. Cương chi đức chủ mạng nhu
chi đức chủ tánh. Thị dương cương, âm nhu, tức tánh mạng chi
nguyên.
Đồng loại là dương lấy âm làm loại, âm lấy dương làm loại. Âm
dương đắc loại thì cương nhu tương ứng, như phu thê lâu ngày tức
tương hội, chẳng cần phải giao cảm.
Nhị bát là trong dương có âm, đó là Chân dương, có đặc tính
cương kiện trung chánh.
Còn trong âm có dương là Chân âm, có đặc tính nhu thuận trung
chánh.
Cương nhu đều qui về trung chánh, thì âm dương tương đương,
bất thiên bất ỷ, tự nhiên tương hiệp tương thân, hồn nhiên một khối,
ngưng kết mà không hề tan rã.
Âm dương đắc loại thì phi bát tương đương, trong Hậu thiên phản
xuất Tiên thiên. Linh càn mới từ trong hư vô lộ xuất, tợ mặt trời
chiếu soi tận đáy đầm nước. Lúc nầy âm quái tự diệt, tợ như trăng
kia rực sáng treo trên đầu núi, đó là nói về hiện tượng mới mẻ của
dược miêu.
Những người không tu không học, làm sao biết được Chân diên
Chân hống.
Chân diên hống nầy là linh bửu dược trong con người, chứ không
phải loài phàm sa, thủy ngân.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
42
Lại có bài:
Hảo bả Chân diên trước ý tầm.
Mạc giao dung dị độ quang âm.
Đản tương địa phách cầm chân hống.
Tự hữu Thiên hồn chế thủy câm (kim)
Khả vị Đạo cao long hổ phục.
Kham ngôn đức trọng quỉ thần khâm.
Dĩ tri vĩnh thọ tề Thiên địa.
Phiền não vô do cánh thượng tâm.
Cùng thủ sanh thân để được phản bổn hoàn nguyên, chỉ có Chân
diên mới thành tựu.
Cổ nhân có nói: Hỏa hầu lục bách thiên, thiên thiên tương tợ thể
Chân diên.
Sáu trăm bài hỏa hầu, bài nào cũng đều nói thể thủ Chân diên, như
vậy mới biết Chân diên là vật quan trọng thứ nhất trong công phu
Thiền định.
Có người không hiểu nên nói hỏa hầu có sáu trăm Châu thiên, nên
có một số người bị chứng tẩu hỏa nhập ma, rất nguy hiểm.
Sự thành tựu của công phu tu học là Chân trí. Nếu không đạt được
các bậc Chân tri, tức sẽ có nhiều ngộ nhận, có nhiều sai lầm trên
bước đường tu! Rồi ngày chầy tháng lụn, bóng quang âm tợ như
thoi nhiếp, tuổi già ngày chết không chờ.
Địa phách cầm châu hống: là diên khí cầm giữ không cho châu
hống thượng lậu.
Thiên hồn chế thủy kim: là hống chế diên.
Công phu như trên, cũng là phương chiết Khảm điền Ly. Ly trở lại
thành Càn thì phiền não không còn, tức là tâm bất sanh bất tử.
Lại có bài:
Huỳnh nha, bạch tuyết bất nan tầm.
Đạt giả tu bằng đức hạnh thâm.
Tứ tượng, ngũ hành toàn tá thổ.
Tam nguyên, bát quái khởi li nhâm.
Luyện thành linh chất nhân nan thức.
Tiêu tận âm ma quỉ mạc xâm.
Dục hướng nhân gian lưu bí quyết.
Vị phùng nhất cát thị tri âm.
Có đạo thì phải có đức, ví như con chim có hai cánh, nếu chỉ có
một tức không thành chim.
Con người phải có Đạo ví như có cái tâm, có đức ví như có cái
thân, nếu thiếu một tức không thể thành người.
Có thể nói một cách khác, là Đạo mà có Đức tức là Chân đạo. Con
người hội đủ hai yếu tố là đạo với đức, tức là bậc Chân nhân.
Người đã đạt được Chân đạo thì đại dược không xa, là bạch tuyết
(chân diên) tại trước mắt, huỳnh nha (chân hống) cũng đủ đầy.
Công phu Thiền định đến trạng thái nửa mờ nửa tỏ, nửa tỉnh nửa
mê, tất Chân diên và Chân hống sẽ phát sinh, nên nói: Chẳng khó
tầm.
Cái đạo là phương Siêu phàm nhập Thánh, khí tử hồi sinh, là việc
ít có trong thiên hạ.
Lời thi khuyên người tu phải lo bồi dưỡng đức hạnh cho thâm hậu.
Lấy chữ tín là đức Chí thành làm nền tảng, nên nói tứ tượng, ngũ
hành, tam ngươn, bát quái không được lìa thổ lìa nhân.
Luyện thành linh chất là Chân chủng tử, người ngoài làm sao biết
được.
Sau khi thân tâm đã được thuần dương, là âm đã tận hóa thuần
dương, nên ma quỉ bất xâm.
Dục hướng nhân gian lưu bí quyết. Vị phùng nhất cá thị tri âm:
Sau khi đã đạt được Chân tri, tức được hiểu rành Chánh pháp. Lòng
muốn đem Chánh pháp trao cho người, nhưng ngặt nỗi chưa tìm
được người tri âm!
Lại có bài:
Thử đạo chí Thần chí Thánh.
Ưu quân phận bạt nan siêu.
Điều hòa diên hống bất chung triêu.
Tảo kiến huyền châu hình triệu.
-*-
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
43
Chí sĩ nhược năng tu luyện
Hà phong tại thị, cư triều.
Công phu dung dị dược phi diêu
Thuyết phá nhân gian tu thất tiếu.
Lời thì của bài tứ tuyệt trên, tán tụng kim đơn huyền diệu như
Thánh như Thần.
Còn bài thi dưới, nói cầu đơn cũng dễ.
Suốt ngày đêm thể dược lập được huyền châu, tức có thể thấy
được phương Siêu phàm nhập Thánh. Chỉ sợ người tu học đức bạc
căn cỏi, tức khó vượt lên chủ đích.
Nếu được lập chí kiên tu, vô luận là ở tại triều đình hay nơi chợ
búa, tùy theo phương tiện mà đặt thi vi. Cũng như ở tại gia đình,
gần gũi nhiều người thân thích, lại càng dễ dàng hơn.
Cứ mỗi lần thuyết minh Chánh đạo, sao cho chẳng còn một kẻ
cười khi. Chỉ còn một kẻ hạ sĩ, nghe đến đạo thì cười lăn chiên,
cũng được.
Người đã phục thực được kim đơn, tức sẽ vượt lên thánh vức.
Công phu hà luyện chỉ trong một giờ, mà đại nghiệp có thể thành
công.
Chơn đơn người người đều có, chỉ vì chưa biết được rõ ràng. Còn
đòi một yếu tố quyết tâm với căn lành sẵn có, thì có thể tiến tu đến
tận chủ đích.
Chỉ có kẻ bạc đức vô công, quên thầy và phũ phàng Chánh đạo,
tức là kẻ nghe đạo rồi đại tiếu, phải nên xác minh đúng lẽ, mới
không phạm phải Thiên điều.
Kim đơn khi thủ, phải dụng đảnh lư, là điều không thể thiếu sót.
Có đảnh là cái vạc, mới có khí cụ đựng thuốc. Có lư là cái lò, mới
có phương luyện đơn. Lư và đảnh phải hiểu rành, hãy xem chương
Lư đảnh thuyết minh.
Có bài: Đơn tự nội kết
Yếu tri kim dịch hườn đơn pháp
Tu hương gia viên hạ chủng tài
Bất giả xuy khư tịnh trước lực,
Tự nhiên đơn thục thoát Chân thai.
Pháp kim dịch hườn đơn thành đại dược rất gần chẳng xa. Công
phu vốn giản ước, và không phiền phức. Trong mỗi con người đều
có dược vật, có thể tùy thời mà gieo trồng. Chẳng cần lư đảnh bên
ngoài, hay là ra sức quạt thổi. Cứ tự nhiên mà dược thành thục rồi
thoát hóa.
Đơn là khí Tiên thiên hư vô Chân nhất, là Linh căn lúc hỗn độn sơ
phân, là Tổ khí hóa sanh vạn vật. Lúc hàm tàng thì thành Chân
không. Lúc phát động thì hóa nên Diệu hữu.
Sở dụng của khí Chân nhất là đạo tâm. Sở dưỡng của khí Chân
nhất là Cốc thần. Chí vô mà hàm tàng Chí hữu, Chí hư mà hàm tàng
Chí thực. Bên trong có Linh khí ngũ hành, mà không có trược chất
ngũ hành, nên không bị rơi vào nẻo ngũ hành sanh tử. Làm Thánh,
làm Thần, làm Tiên, làm Phật, cũng đều do khí Tiên thiên hư vô
Chân nhất nầy.
Nếu gặp được Chân sư điểm phá, mới biết được trong thân ta có
một Linh vật vô cùng quí giá. Linh vật này phát sinh từ hiện tượng
tế vi, đến hiện tượng hiển trước, và tự nhiên thành thục. Cho nên
Tiên Ông mới nói: Tu hướng gia viên hạ chủng tài.
Các mối bàng môn ngoài đạo, hướng ngoài cầu thân cầu đơn, nên
vạn bất thành.
Có bài:
Dược tự ngoại lai,
Hưu thi xảo ngụy vi công lực,
Nhân thủ tha gia bất tử phương.
Hồ nội triền thiêm diên mệnh tửu (3)
Đảnh trung thâu thủ phản hồn tương (4).
Lời thi trên là sợ người tu học hạ chủng tài liên chỉ chấp một thân
mà tu, nên mới có lời khẩn mật: Chớ nên thi thố công lực xảo ngụy,
mà phải nhận lấy một phương bất tử.
Phương bất tử: Chỉ có dùng khí Tiên thiên, tương giao với Thức
thần hậu thiên dụng sự, dương bị âm hãm, như một hào dương bị
hai hào âm vây hãm, gọi là thận dương Khảm thủy. Nếu muốn phản
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
44
bổn hườn nguyên, phải dùng pháp “Truy nhiếp”, mới phục hườn
được khí Chân dương Tiên thiên đã li cách.
Câu (3): Thể thủ khí Chân diên đem về nuôi dưỡng thận căn. Lúc
nào khí Chân diên nơi thận căn thật sung mãn thì tinh khí bất lậu,
tuổi thọ kéo dài trong sự sống lành mạnh minh mẫn, nên gọi là rượu
trường thọ.
Câu (4): Trong đảnh là nói về Ly, phải thâu thủ khí Chân hống để
bồi bổ cho tâm căn kiên cố vô lậu, vô niệm, gọi là rượu phản hồn.
Cần phải chú ý chữ “nội triền”, tức là khí vi dương triều động, là
điềm báo về thuốc không non, không già, nên lập tức thể thủ.
Có bài nói về dương tinh:
Bất thức dương tinh cập chủ tân.
Tri tha na cá thị sơ thân.
Thing trung không bế Vỹ lư huyệt
Ngộ sát diêm phù đa thiểu nhân.
Một điểm dương tinh bí tại hình sơn, chẳng tại tâm thận, mà tại
huyền quan nhất khiếu.
Sở dĩ gọi dương tinh là khí Chí dương Chí tinh, mà không có một
mảy khí âm trược. Tức là loại tinh bổn lai cương kiện trung chánh,
tàng giấu nó gọi là Chân không, phát huy nó ra gọi là Diệu hữu.
Cho nên gọi bỉnh di lương tâm.
Dương tinh trong con người là yếu tố quan trọng, tạo nên cơ chủ
tể tạo hóa, có đặc năng khước từ các loại tà khí. Cổ nhân gọi: Chân
nhất tinh, hay Chân nhất thủy, hay Chân nhất khí. Kỳ thực cũng là
đạo tâm với dương tinh là một vật.
Dương tinh là vật sở sinh trước Trời đất, là chủ. Còn âm tinh là vật
sở sinh sau Trời đất, là khách. Chủ thì cùng ta tương thân. Còn
khách thì cùng ta tương sơ. Nếu ngộ nhận âm tinh là dương tinh, đó
là phạm phải tà thuật, chẳng khác phòng trung ngự nữ.
Bế Vỹ lư, khóa âm tinh, mà vọng tưởng sẽ kết được đơn, là điều
không thể nào có.
---oOo---
THIÊN TIÊN CHÁNH LÝ DƯỢC VẬT LUẬN:
Thiên Tiên Đại đạo ví kim đơn. Căn bản của kim đơn ví dược vật.
Vật lấy vật gì để ví là dược?
Thái Thượng viết: Hoảng hoảng hốt hốt, kỳ trung hữu vật.
Trong thân con người có một điểm Chân dương tinh, hiệu là Tiên
thiên Tổ khí. Có tên là Tổ khí, vì là căn cơ sanh khí bên trong.
Lại còn nói ngoại dược, là ý nghĩa gì?
Cổ nhân có nói: Kim đơn nội dược tự ngoại lai, là lúc Tổ khí nhân
theo đó mà sanh ra con người. Tuy nó ẩn tàng nơi đơn điền, nhưng
cũng có lúc hướng ngoại phát sinh. Tức là thâu thủ lấy vật phát sinh
đó, đem trở về bên trong. Vì lẽ hướng ngoại phát sinh đó nên gọi
ngoại dược.
Luyện ngoại dược nầy hườn đơn, nên gọi nội dược, hay đại dược.
Cũng chỉ có hai khí mà thôi. Nay nói rõ về lý của nội dược và ngoại
dược, cùng nguyên do của hai loại dược này.
Đã nói dược vốn một khí, sao lại còn nói nội dược và ngoại dược,
sao hai tên khác nhau?
Nếu không nói ngoại dược, thì người tu sẽ bỏ mất loại dược này
mà không thể thủ lấy, thì lấy gì để hườn đơn, và lấy tinh bổ tinh
toàn, lấy bổ khí túc. Thần khí đều đắc định cơ, thì lúc nầy phát sinh
đại dược.
Chân ý lúc nầy hoàn toàn không chấp trước bên ngoài. Chỉ do cơ
động nơi bản địa động mà phát sinh, và do sự chẳng lìa bên trong
nên nói nội dược. Nếu không nói nội dược, người tu sẽ lầm cầu bên
ngoài, nhưng bên ngoài làm gì có dược, tức bị rơi vào nẻo tiểu quả
không vong, rồi lấy gì để hóa Thần. Cho nên Tiên Thánh bất đắc dĩ
mới nói nội dược ngoại dược.
Đã có cơ sanh của ngoại nội, rồi theo đó mà thể thủ cũng có phần
khác nhau.
Ngoại dược sinh mà sau thể, như đã nói. Còn nội dược thì thể rồi
sau mới sanh. Đó là điều cổ thánh chẳng dám khinh ngôn trực luận.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
45
Ta nay nói rõ, là để tiếp nối theo lời dạy của đức Thế Tôn, và trùng
tuyên lời kệ:
Thử khí tại nhơn vị hữu thử thân. Tức thử khí dĩ sanh kỳ thân. Ký
hữu thử thân tác thừa thử khí vận hành, dĩ tự sanh. Cho nên tu sĩ
cũng chỉ tu luyện khí nầy mà cầu trường sinh.
Chỉ do cơ biến hóa, tuy tại nghịch chuyển một khí. Về cơ nghịch
chuyển, chủ tể vốn tại Chơn thần. Lúc nầy nếu có niệm động thì
Thần trì rồi dẫn khí buông theo, rồi rơi vào dục giới, tức Nguyên
thần tán, nguyên khí hao, biến ra loại tinh hữu hình hậu thiên. Loại
tinh này sẽ bị khuynh hoại, không có thể phục lưu, cũng không có
thể phản phục được. Cuối cùng có khi thành một vật của Thế đạo
mà thôi. Là một vật vô ích cho Đơn đạo.
Nếu có kẻ nhận loại tinh giao cấu làm dược vật, tức là loại tà kiến.
Công phu nếu gặp chí tịnh chí hư, chẳng thuộc tư lự, không thuộc
kiến văn tri giác, mà khí Chân dương tự động.
Cũng chẳng phải giác mà động, thực động mà giác, giác mà chẳng
giác, lại giác Chân huyền. Tức là loại dược vật Tiên thiên nên dùng.
Lúc này có cái cơ sanh hóa, mà gần như phát sinh ra bên ngoài,
như Trời đất đến tiết Đông chí mà khí dương phát động, cho đến
mùa xuân mới sinh ra vạn vật.
Cho nên thuận mà đi theo hậu thiên, tức sanh con người. Còn đi
nghịch lại thì nên Tiên nên Phật.
Tu sĩ cần nên biện biệt về nguyên lý nầy, rồi lấy Tiên thiên vô
niệm và nguyên thần làm chủ, là phản chiếu nội quán, ngưng Thần
nhập vào Khí huyệt, tức Tiên thiên Chân dược cũng từ trong hư vô
mà phản qui về trong khí căn đảnh nội, để làm cơ bản luyện đơn.
Cổ nhân có nói: Tự ngoại lai là như vậy, và là ngoại dược. Đem
loại dược nầy vào trong đảnh để hành hỏa Tiểu châu thiên, và để
phanh luyện.
Ngoại đơn hỏa tức thì dược thành công, là khí nầy đã được thuần
dương, mới có thể gọi Khảm trung mãn.
Tào Hườn Dương Chân Nhân khẩu thọ vì cái cảnh để thể đại
dược, và pháp thể đại dược. Chính là sở dụng về chỗ này.
Thể thủ mà sau đại dược sanh, gọi là đắc nội dược. Có khi thể thủ
rồi đại dược chẳng sanh, có ba nguyên nhân:
Thứ nhất là ngoại đơn đã thành, mà không rành về chân công thể
ngoại dược. Chẳng minh thì chẳng thể, nên chẳng đắc được.
Thứ hai là Tiểu châu thiên hỏa, Chân sư truyền chân mà đệ tử
hành bất chân, nên ngoại đơn cũng bất thành. Tuy là có thể, nhưng
không có dược để thể, cho nên cũng không đắc dược.
Thứ ba là Chân sư trao truyền đúng Chân hỏa hầu, đệ tử cũng
hành đúng, nhưng thiếu sót, nên dược khí không đúng độ thuần
dương, nên dù có thể cũng không đắc được.
Thể dược nầy dễ phục thực, mới điểm hóa cho Nguyên thần,
Trương Tử Dương gọi là: Chiết Khảm điền Ly. Chánh Dương Chân
Nhân gọi là: Trục diên thiêm hống. Cả hai Tổ Sư đều nói đắc đại
dược.
Muốn đem khí này luyện để hóa Thần, tức đem khí nầy hiệp với
Thần rồi mới luyện.
Luyện cho được thuần dương thần, tức có Đại châu thiên hỏa hầu
thị tại vậy.
Đúng lúc nầy hỏa tự có hỏa, và đến vô hỏa. Dược từ có dược mà
đến vô dược. Là do từ khí Thuần dương và vô lậu, để thành Thần
thuần dương vô lậu.
Chỉ có một Chơn thần tịch chiếu, tức Tiên đạo theo đó mà đắc. Là
đều do dược nhị sanh đều chân, hai lần thể thủ cũng chân.
Lấy chỗ sơ chứng để biện biệt về dược, là chỉ yếu bí mật của Tiên
gia. Các học giả phải phân biệt.
Cổ nhân chỉ nói dược vật, mà không nói về biện pháp và dụng
pháp. Lại chẳng nói về thể thời, về thể pháp. Chỉ một loại dược hư
danh tại nơi tai mắt, cho nên người đời sau không chỗ nhận chân.
Ta có lời thí dụ, như một loại cỏ, một loại cây là dược vật. Có thời
sinh miêu, có thời hoa thực, từ một căn cơ mà dần dần đến thành
dụng, như Chân dương dược nầy từ lúc tế vi đến khi hiển hiện. Thể
loại dược nầy để ứng dụng và cơ tu luyện, cũng là như vậy.
Ta sở dĩ nói thẳng ra nơi bài luận này, chính là để làm sáng tỏ
thêm lời của Cổ nhân.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
46
Sở vi dược sinh có thời, khiến cho mọi người biết để phân biệt để
dụng công.
Người đời thấy bài luận này không đủ đức tin, thì lấy vật gì để làm
khí Chân dương, và đắc Chân dược vật!
Ta nguyện trực chỉ các đồng môn chung nhau tham cứu thật cẩn
thận, hầu khỏi bị tà thuyết lấy dâm dược mê hoặc.
---oOo---
Lại có bài: Luyện dược trực luận.
Tiên đạo lấy Thần khí tinh làm Chánh dược, lấy luyện tam bửu
hiệp nhất ví dụ là Luyện dược. Về lý rất tinh vi, về pháp rất bí mật.
Ngày xưa Chung Ly đã từng chịu mười phen khảo thí của Lữ Tổ.
Khưu Tổ chịu trăm nạn với thầy là Vương Trùng Dương. Ngũ Tử
thiết tha cầu hỏi 20 năm nơi Tào Hườn Dương, mới vừa được đắc
Chân truyền.
Như vậy mà những người tu học ngày nay, chỉ trong ngẫu nhiên
mạn đàm, thì làm sao biết được Chân dược là gì, Chân pháp, Chân
luyện … là gì! Thế mà rỗng vậy không thuyết, chỉ mường tượng
theo cơ thân của mình để cầu lấy thực tiễn!
Chẳng biết có Chân thời chí tịnh và Chân cơ, thì lấy gì để dụng
công!
Thân tâm con người có hai giờ tuất hợi, là thời Thái cực cực tịnh,
tất có dương khí phát động. Khí nầy có sự tuần hoàn, thì Chân cơ tự
nhiên trở động. Đó chính là Tiên thiên nguyên khí vô hình. Lúc khí
nầy lại vi động thành Tiên thiên nguyên khí vô hình, gọi là Chân
dược vật. Chân dược nầy đến khi triền động, gọi là thuốc không
non không già. Lúc nầy tu sĩ lập tức thể thủ. Lấy giác linh luyện
dược làm chủ. Lấy sở dụng của xung hòa luyện dược. Sau khi thể
dược qui lư, thì dùng cái hầu của hành hỏa để luyện.
Nếu dược chưa qui lư, mà trước lo hành hỏa thì dược sẽ bị ngoại
hao, tức không thành đại dược.
Dược đã qui lư, mà không lập tức hành hỏa, tức Chân khí bị gián
đoạn, không tiếp nối được, cũng không thành đại dược.
Nếu cứ chăm chăm gia ý nơi hỏa, tức bị về thiên trước chấp hỏa,
mà dược sẽ bị tiêu hao!
Nếu cứ thản nhiên không biết có hỏa, tức bị mê tán!
Hỏa đã mất thì dược cũng tiêu, đều bất thành đại dược. Nếu hỏa
gián đoạn mà công phu lại bất thường, dù cho có được gần thành,
cũng bị hủy hoại.
Nếu chấp giữ về hành hỏa lâu, mà không biết chỉ túc, tuy dược có
thành cũng bị hư hoại! Chân dược đã bị hư hoại, thì lấy gì để phục
thực.
Các bậc Thánh chân đời sau, tu luyện theo đây để cho Thần khí
tương quân tương hiệp, hỏa với dược được thích nghi. Lấy khí hô
hấp để phụ thừa Chân khí là cơ động tịnh. Lấy cơ động của Chân
khí để tịnh định làm căn cơ cho Chân tức. Được như vậy thì hỏa
dược không bị dính mắc nhất biên, lại không bị cưỡng chấp về sự lo
lắng buông lung mất mát. Công phu được như vậy, mới đắc được
sự huyền diệu ở Tiểu Châu thiên, mới thành trường sinh đại dược,
mới có danh ngoại kim đơn thành.
Sự việc vô cùng quí giá của các vị Tổ sư là phục thực phi thăng là
Huyền cơ tối thượng thượng thừa.
Cần phải đặc biệt gia tâm tham ngộ để tỉnh tu. Sau khi đã đắc đại
dược phục thực tự có thể tiến lên tu hành. Đại châu thiên hỏa hầu,
để luyện khí hóa Thần. Luyện khí thì tức (hơi thở) định, hóa Thần
thì thai viên. Dương thần thăng lên Thiên môn là việc xuất hiện
Thần Tiên đã đắc dược. Đó là công phu ở Trung quan mười tháng
đã được viên thành.
Sau đó là Cửu niên diện bích hườn hư, chỉ trong một định. Là hiệu
quả của Thần Tiên đốn ngộ, là Tánh đã trở về Vô cực, hình với
Thần đều mầu nhiệm.
Tóm lại là luyện thành nhất cá bất hoại.
Thành được Thánh thân thanh hư, đều do Luyện dược hiệp với
Tiên cơ mà đắc. Cũng là lúc thành đơn, thành Thần đã đến. Cho
nên, về công phu đại tu hành ở Thượng quan đại thành được như
vậy là đã hoàn tất.
Trăm ngày luyện dược thành phục thực là Vô lượng thọ Địa Tiên.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
47
Công phu mười tháng luyện thành thoát thai, xuất hiện quả Dương
thần là Siêu xuất âm dương Thần Tiên.
Cuối cùng cửu niên diện bích, luyện thành quả hườn hư, là Siêu
xuất trọn vẹn Thiên địa kiếp vận là phẩm Thần Tiên.
Có Tiên duyên, có gặp được Thiên Tiên Chánh lý, như bài trực
luận này là hạnh ngộ vậy.
---oOo---
Kim Tiên chứng luận có bài Tiểu Châu Thiên dược vật trực luận
như sau:
Tiên đạo lấy nguyên tinh ví dược vậy, dược vật ví kim đơn, kim
đơn ví Đại đạo.
Sao lại có nhiều ví dụ vậy?
Đạo tạng kinh có nói: Tinh giả diệu vật. Chân nhân trường sinh
căn.
Các bậc Thánh chân đều do theo nguyên tinh nầy, để xiển danh là
dược vật.
Đã nói nguyên tinh là căn đế của dược vật, lại còn nói nguyên khí,
là ý gì?
Khí nầy theo bẩm thụ mà ẩn tàng nơi Khí huyệt, nhưng vốn có cái
cơ hướng ngoại củng quan biến hóa, Cho nên khi thấy có cơ vi
động đến triền động, liền phải thâu thủ lấy cơ biến hóa nầy bằng
phương pháp “Hồi quang phản chiếu”, “ngưng Thần nhập ư Khí
huyệt”, tất nhiên khí phải theo Thần mà trở về.
Còn có danh từ là “Lặc dương quan, điều ngoại dược”. Cho đến
điều đáo dược sản Thần tri. Đó gọi là tiểu dược, hay gọi Chân
chủng tử.
Nguyên do là có cơ biến hóa thuận nghịch, nên gọi nguyên tinh,
nguyên khí.
Nếu không nói nguyên tinh, thì người tu không biết điều ngoại
dược, để hỗn thể hỗn luyện nơi Châu thiên.
Có người không biết đã không có dược, tức bị rơi vào nẻo không
vong, thì lấy gì làm Tiểu dược.
Cổ nhân chỉ nói điều dược mà không nói điều pháp, chẳng nói
điều sở, lại không nói điều thời.
Chỉ có một hư danh điều dược, tại nơi ngoài tai mắt, nếu chưa
được Chân sư chỉ truyền, tất phải bị mịt mờ, không biết chỗ hạ thủ.
Cho nên ta mới trực luận: Nếu đã biết điều dược, thì nguyên tinh
không bị ngoại hao, mà dược khí lại có lai cơ. Là điều mà cổ Thánh
chẳng khứng khinh ngôn trực luận. Ta nay nói rõ: Chưa có tri cơ
mà không thể thủ. Chưa có việc chưa điều dược mà lại thể thủ
trước. Như vậy là điều thiếu sót, cho nên không đắc được Chân
dược! Nếu muốn đắc được Chân dược, chỉ nhờ Chơn thần tịnh hư,
thì Chân khí tự sinh.
Xung Hư Thiền Sư gọi là động nhi giác. Lúc nầy không được kinh
sợ, phải chờ đợi sau đó mới khỉ thủ, Xung Hư gọi là phục giác. Lúc
nầy cơ phân biệt của dược khí, là để cho dược khí theo cơ nghịch
chuyển, mà không theo cơ thuận hành. Đó gọi là thể dược.
Trong đảnh đã có dược khí, tức phải dùng Châu thiên hỏa hầu, và
khởi lên cơ tiêu tức hỏa khắc lậu, để phanh luyện. Cổ nhân gọi
thăng giáng.
Nếu thể thủ được dược nầy về, thì gọi là kim đơn, hay Chân chủng
tử. Đến đây có thể hành theo pháp Đại châu thiên, tức tiểu châu
thiên tạo hóa đến đây đã hoàn tất.
Ta nguyện các đồng môn chớ lầm theo tà sư, lấy dâm tinh tà dược
làm Chân dược.
---oOo---
Kin Đơn Đại Thành có bài Kim dịch hườn đơn luận:
Đạo lấy tâm làm sở dụng. Có người còn nghi. Chỉ có các bậc Chân
nhân rất rành rõ.
Đạo là Chân thể của tâm. Tâm là cơ diệu dụng của Đạo. Chân đạo
dụng hóa nơi tâm. Chân tâm hội thông với Chân đạo. Ngoài Chân
đạo không có tâm nào khác. Ngoài Chân tâm cũng không có đạo
nào khác.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
48
Người biết được cơ vận dụng, thì lấy Chân đạo mà quán chiếu vào
tâm.
Chân tâm này là Thiên tâm. Thiên tâm trụ cư tại Bắc cực, làm
guồng máy cho cơ tạo hóa. Tâm này là chuôi sao của tinh đẩu trong
cơ vận hành Châu thiên, bốn mùa ứng theo đó mà có thời tiết, ngũ
hành ứng theo đó mà có tiết lự, lạnh và nóng ứng theo đó mà có sự
thích nghi.
Tại con người cũng vậy. Trên đầu thì có cửu cung, trên ứng với
cửu ngung. Trong đó có một cung gọi là Thiên tâm, gọi là Tử phủ,
là Thiên uyên, Thiên luân, Thiên quan, Thiên kinh, Thượng đồ
quan, Côn lôn đảnh. Tên gọi có nhiều, nhưng đều là Huyền quan
nhất khiếu.
Nếu dược liên tục dụng công nơi đây, có thể phân biệt được nguồn
gốc của dược tài sơ sản, phân biệt được yếu chỉ của hỏa hầu, cho
đến công phu ôn dưỡng thành đơn, đều không lìa khỏi cơ diệu dụng
của tâm nầy.
Cổ nhân thường nói: Chân dược càng thể thủ, thì càng có nhiều.
Chân hỏa dần dần luyện thì Linh đơn càng kết thành.
Lúc đầu thể dược phải phát động cơ thác tượng của Càn Khôn,
dùng đao khuê của Khảm Ly để ngưng Thần tụ khí, để điều hòa tỷ
tức (hơi thở nơi mũi), chờ cho Thần khí nhập vào mạng căn.
Lại phải theo đúng qui luật của tự nhiên, như nếu bế tức gấp thì sẽ
có sự mất mát nhanh, tâm phóng túng thì Thần khí phải buông lung.
Chỉ là miên miên tục tục, chớ cho gián đoạn, tợ như cọ cây lấy
lửa. Sau một thời gian lâu, thì Thần tự ngưng, khí tự định.
Công phu vận hỏa, phải một cương một nhu, một văn một võ, tấn
một tấc thì lui một tấc, tiền đoản mà sau trường, chủ khách phải
phân biệt, quân thần phải có ngôi, khiến cho âm phù dương hỏa tiến
thối đều được thích nghi.
Nếu số của hỏa quá nhiệt táo, thì khí hống sẽ vụt bay lên. Nếu số
của thủy chu quá lạm dụng, thì khí diên sẽ bị hạ lậu. Chỉ có phương
là về cân lượng phải quân bình, pháp độ phải chuẩn xác, không có
hiện tượng mê muội về tấn dương hỏa, thối âm phù. Cứ theo đó mà
y ước theo quái hào. Lấy 12 tháng để làm cơ tiếp xúc nơi trong một
giờ.
Dương thăng âm giáng, đó là qui tắc vận hỏa.
Nhất dương thăng, trước là Phục, giờ là tý. Lúc nầy dương khí còn
tế vi, nên gọi Tiềm long.
Cho đến giờ sửu, nhờ ôn dưỡng mà Long hiện.
Thái tại dần, hỏa sinh nơi dần, là gặp hiện tượng Truân, nên tấn
thối hỏa phù phải dụng công bán văn bán võ.
Tráng tại mẹo, có tượng trong dương hàm âm cho nên phải dụng
công mộc dục.
Quải tại giờ thìn, phải dùng văn hỏa để luyện.
Càn cuối cùng tại tị, dùng bán văn bán võ.
Từ giờ tý đến giờ tị, là dương dụng sự, là nội âm cầu ngoại dương.
Có một âm sanh là Cấu ở giờ ngọ, hỏa vượng tại ngọ, cho nên thối
phù phải dùng văn hỏa.
Độn tại giờ mùi là tháng sáu, phải dùng bán văn bán võ, tức không
bị sự nóng nhiệt của mùa hạ.
Bỉ ở giờ thần, phải dùng vi hỏa để điều dưỡng. Giờ nầy là trong
âm hàm dương cho nên phải dụng công mộc dục để dưỡng hỏa.
Bát tại giờ tuất, hỏa khố ở tuất nên Mông thọ sanh thành, phải
dụng công bán văn bán võ.
Khôn cuối cùng tại giờ hợi, là thời gian thuần âm dụng sự, là
ngoại dương phụ nội âm.
Nhưng hỏa sanh tại dần, vượng tại ngọ, hư ở tuất, cho nên về cơ
của trục thiêm tại nơi quẻ Truân và quẻ Mông.
Luyện hình hóa khí, luyện khí hóa Thần, chẳng qua là sự cướp
đoạt khí Chân dương của Trời đất. Trước thì dụng công hữu vi, sau
lại dụng công vô vi.
Nếu có câu nệ về hình tượng an lư, trước tướng lập đảnh, chấp
nhất hỏa hầu, lầm mắc ngoan không, tất cả đều bị sai lầm!
Hễ bỉ cực thì thái lai, động cực tức sanh tịnh.
Tịnh gọi phục mạng, thì Chân tinh về chầu, thì Chân tức tự định,
Cốc thần tự nương.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
49
Lúc nầy tam thi đều tự diệt, trong tâm không có tâm, trong niệm
không có niệm. Thân được vào cõi vô hình, cùng với Chân đạo làm
một.
Có bài Kim dịch hườn đơn phú:
Cầu đạo chí cận; học Tiên khởi nan.
Thể ngọc hồ chi đại dược; luyện kim dịch chi hườn
đơn.
Thám xích thủy chi huyền châu, qui xà thổ yết;
Vận tây phương chi chí bửu, long hổ bàng triền.
Sính tự: Tử phủ khai nhi hải kiều vân sanh;
Hoàng hà phiên nhi Nê hoàng lảng cổn.
Tuy Càn Khôn đồng thể, tổng vi đảnh khí;
Nhiên diên hống nhị vật, hỗ vi căn bản.
Đơn nguyên hà tại, tồn tâm yếu dĩ thủ nhất nguyên;
Kim dịch kết thành, tự cửu hườn ni chung thất phản.
Thị đơn dã: Hoảng hốt vô vật; Tra minh hữu tinh.
Tuần bát quái hề hiệp tứ tượng;
Tụ tam hoa hề tán ngũ hành.
Muội xuất canh tân, tu định chí dĩ thể thủ;
Quái thuộc Cấn Tốn, yếu tri thời nhi vượng sanh.
Thủy nhi luyện kim dịch dĩ giao cấu;
Chung tắc điều hỏa công nhi dưỡng thành.
Hồ trung nhật nguyệt chi tuần hoàn, tu minh tông tổ;
Thân lý phu thê chi giao hiệp, yếu thức căn cơ.
Do thị: thăng giáng chi tết, dương biện quân thần;
Lai vãng chi gian, nhưng phân chủ khách.
Ngưng tuyệt nhĩ vận; Điều quân tỷ tức.
Thẩm dược lão noãn, minh tấn thối chi xích thốn;
Bảo nhất tư chuyên, thủ thư hùng chi hắc bạch.
Vọng nghi phi hống dĩ cầm hồn;
Hối tắc dẫn diên nhi chế phách.
Suy biện phù hỏa, quyển thổ tánh nội chi âm dương;
Hô hấp phong vân, phanh luyện thân trung chi khí
dịch.
Đại để:
Nhân luyện hồ khí, tu tri hiệp ư tứ tượng;
Khí thuần hồ dương, tự tiêu ma ư chúng âm.
Đông tróc Thanh long; Tây tru Bạch hổ.
Bắc tầm Huyền vũ, Nam mích Châu cầm.
Duy trung cung hòa hiệp dĩ cọng xử;
Dĩ thổ phủ phòng tàng nhi tất thâm.
Hữu động hữu tịnh; Hữu khí vô chất.
Tri cát tri hung; Tri cơ tri tâm.
Năng uẩn tựu tự nhiên chi tửu; Triền điều thành vô
vận chi cầm.
An bài luy châu chi đảnh lư, ngao thành bạch tuyết;
Cổ động Càn Khôn chi thác thược, hà tác Chân kim.
Cái thủy giả: Kim mộc gian cách, thục sử giao tính;
Kim thủy hỗn dung, vị qui đào thải.
Tự kim tỉnh nhất thiệp, thủy tổ tiềm phục;
Dãi kim tiêu nhất phát, thủy long tương hội.
Thị nghi: Mãn huỳnh kim chi đảnh, nhi điều biến cố
tế;
Nhĩ tử kim chi cao, nhi ngưng Thần bế Đoài.
Châu lưu Chân khí dĩ sung dinh;
Xuất nhập Nguyên thần chi quảng đại.
Hỏa thăng thủy giáng, trục thiêm thiện liễu ư Truân
Mông;
Phúc tấu luân thành, vận dụng mặc phù ư Bỉ Thái.
Hựu dương tri: Dược vật điều hòa, ngộ giả thậm dị;
Hỏa hầu tiêu tức, hành chi khủng nan.
Nhất thập ngoạt công phu, tồn tra tra miên miên chi
tức;
Tam vạn niên khí số, tại lai lai vãng vãng chi gian.
Sở dĩ: Dưỡng Đơn điền chi bửu, kỳ bửu trường tại;
Đoạt Đơn đảnh chí thâu, thử châu phục hườn.
Ký đắc thử Siêu thăng chi quyết;
Thường khai kỳ Sanh tử chi quan.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
50
Giá động hà xa, li trần thế Vỹ lư chi hải;
Di qui Thiên cốc, thượng Côn lôn Bồng đảo chi sơn.
Y! Vạn ban Tiên quyết, khế luận ca thi;
Nhất khiếu Huyền quan, tinh thần khí huyệt.
Thăng thiên môn, triều kim khuyết, ứng Đế chiếu chi
triệu;
Lãnh Thiên sắc, chứng Kim Tiên, thoát Thánh thai
chi xứ.
Thử kỳ: Nhĩ kim dịch chi đơn;
Thành kim cương chi thể.
Nhi: Tánh mạng song viên, diệu nan khinh tiết.
TẠM DỊCH:
Cầu Chánh Đạo rất gần; Theo học Tiên đâu khó.
Thể thủ lấy đại dược nơi Ngọc hồ;
Luyện nấu nên kim dịch để hườn đơn.
Thăm dò ngọc huyền châu nơi xích thủy, rắn rùa nhả nuốt;
Vận hành vật quí giá tại Tây phương, cọp rồng xoay chuyển.
So sánh: Cửa Tử phủ mở ra, nên mây hải kiều sinh;
Sông Hoàng hà dấy động, khiến Nê hoàn sóng vỗ.
Tuy Càn Khôn cùng đồng thể, cũng đều là đảnh khí;
Còn diên hống tuy hai vật, cũng hỗ trợ căn cơ.
Đơn nguyên sao mãi còn? Gìn tam bửu để giữ nhất nguyên;
Kim dịch sao kết được? do luyện khí để cùng Thần hội.
Loại đơn nầy: Vốn vô vật trong cơ hoảng hốt;
Vốn có tinh trong lúc tra minh,
Nương bát quát để hiệp tứ tượng;
Tụ ba báu để qui nạp ngũ hành.
Lúc tợ mê xuất sinh Chân tinh, nên định chí thể thủ;
Khi dược tĩnh có dạng Châu ( ), phải biết thời vượng sinh ( )
Trước tiên phải luyện kim dịch để giao cấu;
Cuối cùng là điều Chân hỏa để dưỡng thành.
Âm dương trong đảnh tuần hoàn, cần hiểu rành tông tổ;
Chồng vợ trong thân giao hiệp, phải biết rõ căn cơ.
Bởi vì: Lúc thăng lúc giáng có văn có võ;
Khi lại khi qua có chủ có khách.
Tuyệt dứt tai nghe, để bảo thủ Chân tinh;
Điều hòa hô hấp, để tích tụ Chân khí.
Thuốc phải biết non già, hiểu rành tới lui từng thước tấc;
Chuyên chú ngôi Thái cực, giữ kỹ hống diên theo trắng đen.
Thời vọng nên đem hống xuống để giữ hồn;
Thời hối phải dẫn diên lên để chế phách.
Suy cho rõ âm phù dương hỏa, thâu lại và duỗi ra theo hai tính âm
dương.
Hiểu rành cơ hô hấp phong vân, phanh chưn và huân luyện loại khí
dịch trong thân.
Đại để:
Người luyện Chân khí, nên phối hợp tứ tượng;
Khí đã thuần dương, tức tiêu hết âm ma.
Nơi tâm phải bắt cho được con rồng xanh;
Nơi thận cần giết cho được con cọp trắng.
Bắc là mạng căn, phải tìm huyền vũ là Chân hống,
Nam là tánh cội, nên tìm châu tước tức Chân diên.
Chỉ có trung cung mới là nơi hòa hiệp chung ở;
Cũng như thổ phủ mới có năng lực để tiềm tàng.
Có động tức có tịnh; Có khí lại vô chất.
Hiểu rành điều tốt, hiểu rành điều xấu;
Biết rõ cơ vi, biết rõ Chân tâm.
Thường mê mê với rượu tự nhiên;
Cỏ triền động tiếng cầm dứt bặt.
Sắp đặt ngọc huyền châu nơi lư đảnh, để nấu nên tuyết trắng;
Cổ động ngôi Càn Khôn nơi thác thược, để đúc thành Chân kim.
Bởi lúc đầu:
Khí với Thần gián cách, có ai khiến được giao duyên;
Nước với vàng chung nấu, nhưng chưa lọc hết chất khoáng.
Từ nơi giếng vàng đã trải qua, nên thủy hổ lặn núp;
Chờ cho vàng kia được lọc sạch, tức thủy long tương hội.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
51
Nên phải: Chứa đầy huỳnh kim nơi đảnh, để chế luyện cho bền.
Nuôi dưỡng tử kim thành cao, để tắt đoài thủy liêm.
Vận hành Chân khí châu lưu, cho được sung mãn;
Xuất nhập Dương thần giới hạn, rồi thêm rộng lớn.
Lửa đem lên, nước dẫn xuống, trục diêm thiêm hống tại Truân
Mông;
Tăm xe họp, bánh xe thành, vận dụng nổi chìm nơi Bỉ Thái.
Lại phải biết:
Dược vật điều hòa, hiểu được cũng dễ;
Hỏa hầu tiêu tức, hành thực khó khăn.
Trong mười tháng công phu, phải giữ hơi thở như mờ mờ không
dứt;
Ba vạn năm khí số, tại trong khoảng qua qua lại lại chẳng dừng.
Nuôi tại Đơn điền vật chí bửu, sao vật chí bửu mãi còn; Cướp lấy
ngọc châu qui đơn đảnh, sao cho châu được phục hoàn.
Là đã đắc dược Chân quyết siêu thăng;
Nên thường được mở cửa ải Sanh tử.
Giá động bánh hà xa, để lìa được biển dời Vỹ lư;
Chuyển đi lên Thiên cốc, đó là lên Côn lôn Bồng đảo.
Than ôi!
Muôn điều Chân quyết của Tiên gia, đã nói nơi thi ca;
Chỉ có Huyền quan một Tổ khiếu, là tinh thần khí huyệt.
Lên Thiên môn, chầu kim khuyết, là tuân theo lời triệu của Cao
Thiên; Lãnh sắc Trời, chứng Kim Tiên, đó là chỗ thoát ly của thai
Thánh.
Đó là: Loại đơn kim dịch; Thành thể kim cương.
Nên: Tánh mạng đều viên toàn cơ, cơ mầu khó khinh thường tiết lộ.
5.- Lại có bài: KIM DỊCH VẤN ĐÁP.
1/ Có lời hỏi: Sao gọi là Kim dịch hườn đơn?
Lời đáp: Kim dịch là kim thủy. Kim là mẹ của thủy. Mẹ lại ẩn trong
thai con, do đó nên mới gọi hườn đơn. Cổ nhân có nói: Đơn là Đơn
điền, dịch là phế dịch. Lấy phế dịch đem về Đơn điền, nên nói: Kim
dịch hườn đơn.
2/ Lại hỏi: Sao gọi là diên hống?
- Chẳng phải là loại hắc tích thủy ngân. Chân Nhất tử nói: Diên khí
là cha mẹ của Trời đất, là căn cơ của âm dương. Thánh nhân mới
thể cái căn của Thiên địa phụ mẫu, để làm cơ sở cho đại dược, và
thể cái tinh thuần túy của âm dương, để làm đại đơn, chẳng phải vật
tạo tác thường tình.
Còn khí hống vốn có đặc tính bay lên, nếu gặp diên thì hết, làm
cho tử mẫu tương luyến.
3/Lại hỏi: Sao gọi là hỏa?
- Hỏa là Chân khí của Thái dương, là khí dương trong Khảm. Tử
Thanh Chân nhân có nói: Khảm trung khỉ hỏa. Là nói về loại hỏa
nầy.
4/Lại hỏi: Sao gọi là hầu?
- Năm ngày là một hầu, là Giáp tí nhất chung. Mỗi ngày có 12 giờ.
Năm ngày là 60 giờ, là ngày cuối cùng của Giáp tí. Tử dương nói:
Nhất khắc công phu, tự hữu nhất nhiên chi tiết hầu. Lấy khoảng
thời gian khỉ hỏa, trong khoảnh khắc là một Châu thiên.
5/ Lại hỏi: Loại hỏa hầu nầy dùng vào lúc nào?
- Niên trung dụng nguyệt, nguyệt trung dụng thời, thời trung dụng
khắc.
6/Lại hỏi: Sao gọi là Chân nhất?
- Con người sắp gần với Thiên chân, an trụ nơi trong Thiên cốc, là
cái đạo bảo thủ Chân nhất. Kim động chủ có nói: Chân nhất tại Bắc
cực. Thái uyên chi trung.
7/Lại hỏi: Sao gọi là động tịnh?
- Dương chủ về cơ động, âm chủ về cơ tịnh. Túy hư thiên có nói:
Động trung cầu tịnh, tịnh trung hữu vi, động tịnh hữu tác, khẩu
khẩu truyền chi.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
52
8/Lại hỏi: Sao gọi là cửu hườn?
- Kim sanh số tứ, thành số cửu. Hườn là trên hườn xuống dưới. Cửu
là con số của Lão dương. Âm Chân Quân nói: Tùng dần chí thân vi
cửu hườn. Cũng là thuận hạ vậy.
9/Lại hỏi: Sao gọi là thất phản?
- Hỏa sanh số nhị, thành số thất. Từ dưới lên trên. Thất là con số
của Thiếu dương. Âm Chân Quân nói: Tùng dần chí thân vì thất
phản. Cũng là nghịch thượng vậy.
10/Sao gọi là lư?
- Thượng phẩm đơn pháp: Lấy Thần làm lư, lấy tánh làm dược, lấy
định làm thủy, lấy huệ làm hỏa.
- Trung phẩm đơn pháp: Lấy Thần làm lư, lấy khí làm dược, lấy
tâm làm hỏa, lấy thận làm thủy.
- Hạ phẩm đơn pháp: Lấy thân làm lư, lấy khí làm dược, lấy tâm
làm hỏa, lấy thận làm thủy.
Lại có Yển nguyệt lư, Ngọc lư.
11/Lại hỏi: Sao gọi là đảnh?
- Bảo Chân nhân nói: Kim đảnh cận Nê hoàn, Hoàng đế đúc 9 cái
đảnh. Là đây.
12/ Lại hỏi: Sao gọi là dược vật?
- Loại dược vật nầy, hễ thuận theo hậu thiên thì sinh ra con người.
Nghịch lại thì thành dơn, thì ngũ hành điên đảo, thì có đại địa bảy
báu. Còn ngũ hành thuận hành là pháp giới hỏa khanh. Trăm họ
ngày nào cũng dùng mà không biết.
Tử thanh nói: Thể dược vật ư bất động chi trung. Là nói về lại
dược vật này.
13/Lại hỏi: Sao goi là Thần thủy hoa trì?
- Lý Toàn nói: Hườn đơn chi yếu, tại ư Thần thủy hoa trì. Tử
Dương nói: Lấy diên nhập vào hống, tên gọi: Thần thủy. Lấy hống
gieo và diên gọi là: Hoa trì. Hải thiềm Tổ Sư nói: Tùng lai Thần
thủy xuất cao nguyên. Tử thanh nói: Hoa trì chính tại khí hải nội.
14/ Lại hỏi: sao gọi là tam quan?
- Cái đầu là Thiên quan, hai chân là địa quan, hai tay là Nhơn quan.
15/Lại hỏi: Sao gọi là tam yếu?
- Đệ nhất là Thiên uyên trì, đệ nhị yếu là Gián cung, đệ tam yếu là
địa hô.
16/ Lại hỏi: Sao gọi là ngoại tam yếu?
- Cái miệng và cái mũi, cộng lại là ba khiếu.
Còn hai mắt, hai tai là bốn khiếu. Cả thảy nơi cung Càn có bảy
khiếu, nhưng cũng chỉ có ba nơi trọng yếu mà thôi. Tam yếu nầy là
cửa ngõ Thần và khí ra vào. Cho nên lúc hạ thủ công phu phải lo
điều tỷ tức, giam thiệt khí, tắt đoài và thùy liêm cùng phản thính:
Đó là để bảo tồn Thần khí.
17/Lại hỏi: Sao gọi là đoài?
- Chân Nhất Tử nói: Đoài là cái miệng.
18/Lại hỏi: Trạch nữ, Anh nhi chính tại chỗ nào?
- Trạch nữ tại tâm, Anh nhi tại rún.
19/Lại hỏi: Thận thuộc thủy là âm, anh nhi thuộc dương, tâm thuộc
hỏa là dương, Trạch nữ thuộc âm. Sao lại có sự chia phân như vậy?
- Thận thuộc khảm , trong âm có dương là Chân dương. Tâm
thuộc Ly , trong dương có âm là Chân âm.
20/ Lại hỏi: Nê hoàn cung chánh tại chỗ nào?
- Trên đầu có 9 cung, trung của 9 là Nê hoàn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
53
21/Lại hỏi: Sao gọi là kim công?
- Là ngôi chủ tể của kim khí. Công là vị Chân sư. Kim có kèm một
chữ Công, có thể đọc là Công. Tử dương nói: yếu tu chế phục mích
kim công.
22/Sao gọi là huỳnh bà?
- Sắc vàng là màu sắc của thổ, ngôi thuộc Khôn, do đó nên mệnh
danh là huỳnh bà. Tử Thanh nói: Kim công vô ngôn Trạch nữ tử
(chết). Huỳnh bà chưa già còn hoài thai.
23/Lại hỏi: Sao gọi là hô hấp?
- Thở ra là hô từ tâm với phế. Còn hấp là hít vô, khí nhập vào thận
với can. Hô thì tiếp Thiên căn, hấp thì tiếp vào địa căn. Hô thì long
ngâm vân khỉ. Hấp thì hổ tú (gầm) phong sanh. Hô hấp gió mây,
ngưng thành kim dịch.
24/Lại hỏi: Sao gọi là Quỳnh tương, Ngọc dịch?
- Cũng đều là Thần thủy.
25/Lại hỏi: Sao gọi là Thần khí?
- Thần là hỏa, hỏa thuộc âm. Khí thuộc thân, thân thuộc dược. Thần
khí ví như mẹ với con. Hư Tịnh Thiền Sư nói: Khí giả sanh chi
nguyên dã. Thần giả sanh chi thống ( ) dã. Trì mãn để ngự Thần,
Chuyên khí để bảo Nhất. Thần nương thì khí trụ. Thần khí hiệp
nhất, tất được trường sinh. Tam Mao Chân Quân nói: Khí thị thiêm
niên dược. Tâm vi sử khí Thần, ngược tri hành khí chủ, tiên thị đắc
Tiên nhân.
26/Lại hỏi: Sao gọi là thập nhị trùng lầu?
- Con người có yết hầu quản, có 12 đốt.
27/Lại hỏi: Sao gọi là liêm vi?
- Là hai con mắt. Lúc hạ thủ công phu phải hàm nhãn quang, là
thùy liêm, là rũ rèm châu xuống. Thê Phòng Tiên Sinh nói: Bế hộ
thùy liêm mặc mặc qui.
28/Lại hỏi: Sao gọi là tí ngọ?
- Tí ngọ là thời gian trung gian của Trời đất. Tại nơi Trời là nhật
nguyệt, tại nơi con người là tâm thận. Tại thời gian là tí ngọ. Tại
quái là Ly Khảm. Tại phương vị là nam bắc.
29/Lại hỏi: Sao lại gọi ngũ vị tương đắc mà đều có hiệp?
- Trời với đất có 55 số. Cho nên Càn đắc 1 và 9 cộng lại thành 10,
Khôn đắc 4 và 6 cộng lại thành 10. Tốn và Đoài đắc 2 và 8 hiệp lại
thành 10. Chấn và Cấn đắc 3 và 7 hiệp lại thành 10. Ly đắc 5, khảm
đắc 10. Khảm với Ly không có ngẫu số, cho nên phải tự hiệp.
Lấy số mà nói, tức là đắc trung số của Thiên địa. Lấy hào mà nói,
tức là đắc trung hào của Trời đất. Lấy ngôi vị mà nói, tức là đắc
trung vị của Trời đất. Khảm Ly là dụng, chẳng cũng lớn sao.
30/Lại hỏi: Sao gọi là ngũ nhạc?
- Về ngũ nhạc, theo Chân hình đồ có nói: Tại con người là cái đầu.
31/Lại hỏi: Sao gọi là huyền tẩn?
- Tại bên trên gọi là huyền, bên dưới gọi là tẩn. Huyền quan một
khiếu, bên tả gọi là huyền, bên hữu gọi là tẩn.
32/Lại hỏi: Sao còn gọi là cửa huyền tẩn?
- Lỗ mũi thông với Thiên khí, nên gọi huyền môn. Cửa miệng
thông với địa khí, nên gọi tẩn hộ. Miệng và mũi là môn hộ của
huyền tẩn.
33/Lại hỏi: Sao gọi tam nam tam nữ?
- Càn đạo sách Khôn, trưởng nam là Chấn, trung nam là Khảm,
thiếu nam là Cấn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
54
Khôn đạo sách Càn, trưởng nữ là Tốn, trung nữ là Ly, thiếu nữ là
Đoài.
34/Lại hỏi: Sao gọi là thủy long, hỏa hổ?
- Con cọp ở Tây phương kim, kim sanh thủy, thủy lại tàng hình
trong thủy.
Con rồng ở Đông phương mộc, mộc sanh hỏa lại thọ khắc với hỏa.
Thái Bạch Chân Nhân nói: Ngũ hành bất thuận hành, hổ hướng
thủy trung sanh. Ngũ hành điên đảo thuật, long tùng hỏa lý (trong)
xuất. Đó là nói về chỗ nầy.
35/Lại hỏi: Sao gọi là phân chí?
- Tý thời tượng Đông chí, âm cực thì dương sinh. Ngọ thời tượng
Hạ chí, dương cực thì âm sinh. Mẹo thờ tượng Xuân phân, trong
dương có hàm âm. Dậu thời tượng Thu phân, trong âm có hàm
dương. Thân con người cũng có phân chí.
Tử Dương nói: Lấy thân tâm để phân thượng hạ. Lưỡng huyền là
lấy Thần khí để phân biệt như Đông chí và Hạ chí.
36/ Lại hỏi: Sao gọi là mộc dục?
- Chân khí huân chưn, Thần thủy quán sái, gọi là mộc dục. Đức Lão
Tử nói: Quán dĩ cam tuyền, dịch (rửa) kỳ cấu ô, xuất tự Hoa trì,
phục qui Khôn hộ. Hạnh Lâm nói: Mộc dục tư (tư nhuận) Khôn
thủy. Đó là nói về chỗ nầy.
37/Lại hỏi: Sao gọi là trục thiêm?
- Là trục khí diên nơi Khảm cung, cho Khảm trở lại thành Khôn.
Thiêm là đem khí đó điền vào Ly cung, cho Ly trở lại thành Càn.
38/Lại hỏi: Sao gọi là bát vận?
- Là ngăn trừ kim tinh nơi thận. Là vận ngọc dịch nơi Nê hoàn. Là
khẩu quyết hạ thủ công phu.
39/ Sao gọi là tam điền?
- Não bộ là thượng điền. Tâm vị là trung điền. Khí hải là hạ điền.
Người nào đắc dược cơ đẩu bỉnh rồi cán vận, tức trên và dưới
được tuần hoàn, tợ như Thiên hà lưu chuyển.
40/Lại hỏi: Sao gọi là tam quan sau lưng?
- Sau não bộ gọi là Ngọc chẩm quan.
Giáp tích huyệt gọi là Ly lư quan.
Trong khoảng thủy hỏa gọi là Vỹ lư quan.
41/Lại hỏi: Sao gọi là Thần thất?
- Là nhà ở của Nguyên thần. Lãng Nhiên Tử nói: Vị minh Thần thất
thiên ban nạo (mất nết). Đạt liễu Tâm điền vạn sự vô.
42/ Lại hỏi: Sao gọi là Tam hoa tụ đảnh?
- Thần khí tinh hỗn hợp lại làm một, và tụ lại nơi Huyền quan Tổ
khiếu.
43/Lại hỏi: Sao gọi là Ngũ khí triều nguyên?
- Chân khí của ngũ tạng thượng triều nơi Thiên nguyên.
44/Lại hỏi: Sao gọi là hòa hiệp tứ tượng?
- Nhãn bất thị nhi hồn tại can.
Nhĩ bất văn nhi tinh tại thận.
Thiệt bất động nhi Thần tại tâm.
Tỷ bất xúc nhi phách tại phế.
Là tinh Thần hồn phách tụ nơi Chân thổ.
45/Lại hỏi: Mã nha, Chân chủ nhân, Thần phù và Bạch tuyết là gì?
- Các loại vật đó đều là diên hống.
46/Lại hỏi: Sao gọi là hà xa?
- Chánh khí của phương bắc, gọi là hà xa. Bên tả gọi là nhật luân,
bên hữu gọi là nguyệt luân. Hà xa là cơ năng phụ tá Chánh khí, vận
kích Nguyên dương, ứng tiết thuận hành.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
55
Lúc hạ thủ công phu, phải nương theo hà xa.
47/Lại hỏi: Sao gọi là lão noãn?
- Lúc thể dược qui lư, phải biết thuốc già thuốc non. Bành Hạc Lâm
nói: Noãn thời vị thể, lão thời hưu.
Chẳng già chẳng non là lúc vi dương triền động. Trước đó thì non,
sau đó thì già. Già và non đều không kết đơn.
48/Lại hỏi: Sao gọi là phù trầm?
- Khí diên thì trầm, ngân khí thì phù.
49/Lại hỏi: Sao gọi là thanh trược?
- Khí dương thanh, khí âm trược. Thanh thì nổi lên trên, trược thì
chìm xuống dưới. Luyện đơn thì dùng thanh bỏ trược. Vô niệm thì
khí thanh, hữu niệm thì khí trược.
50/Lại hỏi: Sao gọi là ngũ hành tương khắc?
- Kim bích kinh nói: Kim mộc tương phạt, thủy hỏa tương khắc, thổ
vượng kim hương (teo vào), ba vật đều tang, bốn biển hiệp lại, nên
được thái bình. Đều do Thổ đức nơi trung cung.
51/Lại hỏi: Sao gọi là lai vãng?
- Tý vãng ngọ lai, âm phù dương hỏa; Từ giờ tý tấn phù đến thìn tị.
Từ giờ ngọ thối phù đến tuất hợi. Sơ thủy là quẻ Phục. Cuối cùng là
quẻ Khôn. Đều lấy quẻ tượng làm qui tắc, một tiêu một trưởng, một
vãng một lai, để thành cơ biến hóa. Dịch viết: Hạp hộ vị chi Khôn.
Tịch hộ vị chi Càn, nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng
vị chi thông.
52/Lại hỏi: Sao gọi là thư hùng?
- Thư tức âm, hùng tức dương. Một âm một dương gọi là Đạo. Cô
âm quả dương, chẳng được tự sanh. Tham Đồng Khế nói: Thư hùng
tương hạp, dĩ loại tương cầu. Có lời giải: Hùng là kim sa. Thư là
hỏa hống, cùng nhau ngậm và nhả ra, theo loại mà tụ lại để sanh
thành, để tạo nên loại Thần dược.
53/Lại hỏi: Sao gọi là phòng nguy?
- Là phòng hỏa hầu sai thất, là sơ mộng mị hôn mê. Thiên Túy hư
nói: Tinh sanh hữu thời, thời chí Thần tri, nơi trong trăm khắc, đều
sợ hôn mê.
54/Lại hỏi: Sao gọi là giao hiệp?
- Giao hiệp tợ như đá nam châm hút sắt, dù đá sắt gây cách ngại,
cũng lặng lẽ thông qua.
55/Lại hỏi: Sao gọi là hữu vô?
- Kim bích kinh nói: Hữu vô hỗ tương chế. Thượng hữu thanh long
cư, hạ hữu Bạch hổ trú. Lưỡng vô tông nhất hữu, linh hóa diệu nan
kruy (khó lường được).
56/Lại hỏi: Sao gọi là hình đức?
- Dương là đức, đức xuất hiện thì vạn vật sanh. Âm là hình, hình
xuất lộ thì vạn vật tử. Cho nên tháng hai dương sanh trong đó có
hàm tàng khí âm, tợ như trái của cây du cây giáp rơi rụng. Cũng
như kim sa tùy theo âm khí động tịnh mà rơi vào trong thai, cho nên
gọi là Qui căn. Tháng tám lại trong âm có hàn dương mà lúa mạch
sanh, là tượng về kim thủy tùy dương khí tẩm dầm nơi trong đảnh.
Cho nên mẹo dậu là hình đức mang cõng nhau, âm và dương hai
khí đều dừng, cho nên phải chấm dứt phù hỏa (âm phù, dương hỏa).
57/ Lại hỏi: Sao gọi là hắc bạch?
- Sách Tham Đồng Khế nói: Tri bạch thủ hắc, Thần minh tự lai.
Bạch là kim, hắc là thủy. Lấy căn của kim thủy, để làm căn cho đại
dược.
58/Lại hỏi: Sao gọi là hàn thử?
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
56
- Chân Nhất Tử nói: Chẳng được ứng hiệp với cơ khắc lậu, thì gió
mưa không điều hòa, lũ lụt và hạn hán thường xảy ra. Hoặc dương
hỏa quá khắc, hoặc âm phù thất tiết, thì mùa Đông thịnh lại biến ra
nắng lớn, Thanh hạ lại có nồng sương. Hỏa hầu quá sai thì Linh
hống phi tẩu. Các tu sĩ vận hỏa phải nên chú ý cẩn thận.
59/Lại hỏi: Sao gọi là hối sóc?
- Sách Tham Đồng Khế nói: Hối sóc chi gian hiệp phù hành trung,
nãi kim thủy phù hiệp chi tế.
60/Lại hỏi: Sao gọi là kim ô, ngọc thố?
- Trong mật nhật có một điểm đen, ví con quạ. Là mượn để nói kim
dịch trong tâm.
Trong mật nguyệt có một điểm trắng, ví con thỏ. Là mượn để nói
khí trong thận.
61/Lại hỏi: Luyện hình là gì?
- Luyện hình tức là luyện tinh hóa khí.
62/Lại hỏi: Tại sao Trương Tử Dương nói tâm thận không phải
Khảm Ly?
- Tâm với thận là đặc thể của Khảm Ly. Có thể thì có dụng.
63/Lại hỏi: Sở dụng là thế nào?
- Thiên tâm là sở dụng của tâm. Thuộc Ly thì hình là sở dụng của
thận. Thuộc Khảm là khoản giao tế vận dụng.
64/Lại hỏi: Công phu là gì?
- Biết thời mà giao cấu, tấn hỏa mà phòng nguy, dương sanh mà dã
chiến, hình đức mà mộc dục, cho đến ôn dưỡng thành đơn.
65/Lại hỏi: Thế nào là dã chiến?
- Long hổ kinh nói: Văn hỏa để luyện nhu, võ hỏa để chinh chiến
với kẻ trái nghịch.
Tử Dương nói: Thủ thành dã chiến hung cát. Tăng đắc Linh sa
mãn đảnh hồng.
66/Lại hỏi: Sao gọi là ôn dưỡng?
- Ôn dưỡng là dùng văn hỏa, mà tuyệt đối không dùng võ hỏa, ví
như nấu cơm đã cạn nước, chỉ dùng lửa riu riu, không được dùng
nhiệt độ cao.
67/Lại hỏi: Sao gọi là phanh luyện?
- Có khẩu quyết: Luyện ngọc lư, phanh kim đảnh.
68/Lại hỏi: Thái ất hàm chân là gì?
- Thủ chân nhất ư Thiên cốc, Chân khí nhập Huyền quan, tức là đạt
được bổn lai Thiên chân.
Thái Thượng nói: Chân đạo dưỡng Thần. Nếu giữ được Chân khí
Tiên thiên nơi quan ải của thân ta, khiến cho Thất tổ được phục
hườn sanh khí. Sanh ra ta là do Thái cực, làm cho ta được linh hoạt
là do Thần. Cho nên đem Thái cực để dưỡng Thần, là nói Thái ất
hàm chân.
69/Lại hỏi: Tam thi là gì?
- Trung Huỳnh kinh nói: Nhất giả thượng cổ cư não trung, nhi giả
trung cổ cư Minh đường, tam giả hạ cổ cư phúc vị. Tên là bành cư,
bành chất và bành kiều. Chúng có đặc tánh ghét những người tinh
tiến về Đạo, mừng rỡ khi thấy người thối chí. Thượng điền là chốn
sở cư của Nguyên thần. Chỉ vì người không biết mở mang quan ải
nầy, nên bị thi cổ chiếm cứ, khiến nên mãi bị sanh tử luân hồi
không dứt. Nếu Nguyên thần được trụ nơi bản cung, tức thi cổ tự
diệt, Chân tức tự định, nên gọi một khiếu hai trăm khiếu đều khai,
ải quan lớn thông thì trăm đốt xương đều thông, tức Thiên chân
giáng linh, hóa thành bất Thần chi Thần, sở dĩ Thần dã.
70/Lại hỏi: Thai tức là gì?
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
57
- Thường giữ được ngôi Chân nhất, thì hơi thở không còn vãng lai,
tợ như lúc ta còn trong bụng mẹ, gọi là đại định vậy.
71/Lại hỏi: Ngọc trì là gì?
Huỳnh Đình Kinh nói: Ngọc trì thanh thủy quán Linh căn.
72/Lại hỏi: Thác thược là gì?
- Thác là ống không có đáy. Thược là cái ống sáo có ba lỗ. Lại ví
như hai ống bể thổi lò của thợ rèn, đức Lão Tử nói: Thiên địa chi
gian kỳ dư thác thược hồ.
Sách Thăng giáng luận nói: Nhơn năng hiệu (bắt chước) Thiên địa
thác thược chi dụng, khai tắc khí xuất. Hạp (đóng lại) tắc khí nhập.
Xuất tắc như địa khí thượng thăng. Nhập tắc như Thiên khí hạ
giáng. Nhất thăng nhất giáng, tự khả dữ Thiên địa tề kỳ trường cửu.
73/Lại hỏi: Thể nhật tinh, nguyệt hoa là gì?
- Chẳng ngoài nhật với nguyệt. Là thể loại Chân dịch trong tâm,
loại Chân khí trong thận.
74/Lại hỏi: Trong ngoài bát quái như thế nào?
- Cái đầu là Càn, cái bụng là Khôn, bàng quang là Cấn, đảm là Tốn,
thận là Khảm, tâm là Ly, can là Chấn, phế là Đoài.
75/Lại hỏi: Tu luyện chờ thời, sau mới hạ thủ là như thế nào?
- Có thời trung công phu, có khắc trung công phu. Tỳ Lăng nói:
Luyện đơn bất dụng tầm Đông chí. Thân trung tự hữu nhất dương
sinh.
Chỉ chờ dương sinh là hạ công thể thủ.
76/Lại hỏi: Kim đơn hình tượng như thế nào?
- Tượng hình kim đơn tợ như viên ngọc tròn; màu sắc đỏ rực. Bảo
Phát Tử nói: Đại như dạng hoàn, huỳnh như quít. Sa môn đắc chí dĩ
Thiền định. Huỳnh quan đắc chi tắc siêu dật.
Thẩm chi hành chi Thiên địa cử.
Sách Nguyên xu có bài ca: Quân bất kiến nhất liệp (hoàn) kim đơn
hà hích xích. Đại như dạng hoàn, huỳnh như quít, Nhơn nhơn phận
thượng bổn viên thành. Dạ dạ hào quang thường mãn thất.
Linh vật nầy người người đều có, ai ai cũng có thể viên thành.
Nên biết Linh vật nầy không phải loại vật hữu hình. Lữ Công nói:
Hườn đơn bổn vô chất.
77/Lại hỏi: Huyền quan nhất khiếu, chính tại chỗ nào?
- Có ba chỗ nơi trong con người, cầu Chân sư khẩu truyền mới hiểu
rành vị trí.
78/Lại hỏi: Xuất Thần như thế nào?
- Thường thủ Chân nhất, Chân khí tự ngưng, Dương thần tự tụ. Chỉ
dùng Chân ý vận Chân khí, khí trụ thì Thần trụ. Chí thành súc tích
lâu ngày. Công thành, hành mãn. Nhiên hậu điều Thần xuất xác.
79/Lại hỏi: Siêu thoát như thế nào?
- Siêu là siêu xuất Thần. Thoát là hoán đổi xác phàm. Cả hai hướng
đều ra cửa Thiên môn. Cổ Thánh có hiệu nghiệm về công phu thoát
xác. Lục Tổ có xuất thần bảy tầng bửu tháp, Chung Ly có tam cấp
hồng lâu xuất, Hải Thiềm và Công Hạc thì xung Thiên môn xuất.
Có bài thi:
Công thành tu thị xuất Thần kinh,
Nội viện phồn hoa vật hệ thân,
Hội thủ ngũ Tiên siêu thoát pháp
Luyện thành Tiên chất li phàm trần.
80/Lại hỏi: Thi giải như thế nào?
- Thi giải có năm, là kim mộc thủy hỏa thổ. Lại có tích công, lụy
hạnh, mà bạch nhật siêu thăng.
Vi Tôn hoàng đế có nói: Từ xưa đến nay, phi thăng có trên ngàn
người, bạt trạch có ngoài tám trăm.
81/Lại hỏi: Cái đạo Kim đơn tu có khó không?
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
58
- Chẳng có gì là khó. Tử Dương nói: Hữu dược thì giản thì dị. Còn
mê thì càng phiền phức càng khó khăn.
Hạnh Lâm nói: Lời nói giản dị, chẳng qua nửa câu. Còn về chứng
nghiệm, chỉ tại một giờ.
Túy Hư nói: Dược chi bất viễn thể, bấn nan.
Tỳ Loăng nói: Chí đạo bất phiền, nhơn tự muội.
Tử thanh nói: Chỉ một lời nói mà suốt vạn quyển Đơn kinh. Chỉ
một thuở công phu, mà vô cùng sung sướng.
---oOo---
6. KIM DỊCH ĐẠI HƯỜN ĐƠN
Bát dịch thượng Côn sơn.
Công phu tín bất nan.
Vãng lai sao ngọc động.
Hườn phản luyện kim đan.
Tây thể tồn tam dược.
Trung qui thủ nhất đàn.
Phiến thời gian hạ thủ.
Thất phản hậu thành đoàn.
Cổ động Càn Khôn thác.
Tuần hoàn nhật nguyệt nan.
Huyền quan Chân nhất khiếu.
Trực lộ triệt Thiên đoan.
Tạm dịch:
Thể thủ kim dịch từ ngôi đầu.
Chí thành tu luyện khó chi đâu.
Lại qua khuấy động nơi cung Ngọc.
Là để luyện thành đóa minh châu.
Tây phương chọn lấy toàn ba báu.
Qui nạp về Trung luyện một hầu.
Cổ động Càn Khôn cỏ thác thược.
Tuần hoàn nhật nguyệt chốn tang dâu.
Huyền quan Chân nhất một Tổ khiếu.
Thẳng đường lên đến cõi Thiên lâu.
Bài thứ nhất:
Lão Tự minh khai chúng diệu môn.
Nhất khai nhất hạp ứng Càn Khôn.
Quả ư Võng Tượng vô hình xứ.
Hữ cá trường sinh bất tử côn (căn).
Tạm dịch bài một:
Lão Tử dạy rành huyền tẩn môn.
Một đóng một mở ứng Càn Khôn.
Nếu tâm vô niệm vô vọng động.
Có thuốc trường sinh mãi mãi còn.
Bài thứ hai:
Đắc đạo na kham chánh thiếu niên.
Ngọc lư dưỡng hỏa bất tằng nhàn.
Côn lôn sơn thượng hoàng hoa lộ.
Thời dẫn Nguyên thần khứ phục hoàn.
Tạm dịch bài số 2:
Đắc đạo không phân lứa tuổi nào.
Ngọc lư ôn dưỡng Chí thành cao.
Côn lôn có một đường hoàng đạo.
Nguyên thần nay được hưởng tiêu dao.
Bài số 3:
Đại đạo nguyên lai nhất dã vô.
Nhược năng thủ Nhất ngã Thần cư.
Thử tâm huỳnh nhược đàm tâm nguyệt.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
59
Bất trệ ti hào Chân tự như.
Tạm dịch bài số 3:
Đại đạo từ xưa vốn Chân vô.
Cốc linh giữ vẹn Thần an cư.
Lòng sao sáng tợ Trung thu nguyệt.
Chẳng vướng ti hào hiện Chân như.
Bài số 4:
Diệu bửu vô quá hống dữ diên.
Y thời thể thủ tự phanh tiên.
Tùng lai Chí đạo vô đa sự.
Tự thị thời nhân thức bất tuyền.
Tạm dịch bài số 4:
Cơ mầu chẳng qua hống với diên.
Chân thời thể thủ luyện nên huyền.
Từ xưa Chí đạo trong giản dị.
Chỉ tại người nay hiểu nhất biên.
Bài số 5:
Diệu vận tam điền tu thượng hạ.
Tự tri nhất thể hiệp tây đông.
Kỷ hồi tiếu chỉ Côn sơn thượng.
Giáp tích phân minh hữu lộ thông.
Tạm dịch bài số 5:
Chuyển vận tam điền rõ dưới trên.
Suốt thông Thái cực hiệp tây đông.
Lòng ta hớn hở lên Côn thượng.
Giáp tích phân rành có lối thông.
Bài số 6:
Bát vận Thiên luân triển nhật nguyệt.
Tu du hải kiều khỉ vân lôi
Phong đào hùng dũng ba trừng hậu
Tán tác cam tuyền nhuận cửu cai.
Tạm dịch bài số 6:
Chuyển bánh xe Trời xoay nhật nguyệt.
Thì nơi Khí hải sấm mây vươn.
Sóng gió cuộn trào rồi lại lặng.
Phát sinh suối ngọt khắp thân hương (thơm)
Bài số 7:
Nhất quyết phân minh thuyết dữ hiền.
Đông trung cầu tịnh diệu trung huyền.
Ngã gia hượt kết tùng lai biệt.
Dạ dạ tài bồi hỏa lý liên.
Tạm dịch bài số 7:
Bí quyết phân minh nói với hiền.
Trong động cầu tịnh, diệu trong huyền.
Nhà ta kế sống từ lâu khác.
Suốt đêm vun đắp mảnh tâm điền.
Bài số 8:
Thử dạo huyền trung diệu cánh huyền.
Cổ kim phủ tử bất tương truyền.
Mạc tương hỏa hầu vi nhi hí.
Tu cọng Chân sư tử tế nghiêm.
Tạm dịch bài số 8:
Đạo nầy trong huyền diệu lại huyền,
Cha con xưa nay chẳng cùng truyền.
Chớ đem hỏa hầu đùa với trẻ.
Cùng bậc Chân sư tỉ mỉ nghiên.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
60
Bài số 9:
Đại dược tam ban tinh khí Thần.
Thiên nhiên tử mẫu hỗ tương thân.
Hồi phong hỗn hợp qui Chân thể.
Hà luyện côn gphu nhật nhật tân.
Tạm dịch bài số 9:
Đại được ba loại tinh khí Thần.
Thiên nhiên con mẹ giúp nhau thân.
Chuyển vận hà xa về Chí thiện.
Ra công huân luyện thảy tân dân.
Bài số 10:
Thủy hỏa tùng lai nhất xứ cư.
Khán thời tơ hữu, mích thời vô.
Tế tâm điều biến văn kiêm võ.
Phiến hướng giao quân kết ngọc hòa.
Tạm dịch bài số 10:
Lửa nước từ xưa vốn ở chung.
Lúc xem tợ có, lúc tầm không.
Chú tâm điều chế văn và võ (văn võ hỏa)
Chốc lát khiến ngươi kết ngọc hồng.
Bài số 11:
Vi vi tiểu hỏa dưỡng tiềm long,
Hiện tại điền thời dả nhất đồng.
Giao đắc tam dương phùng Thái quái.
Thủy kham tấn hỏa pháp Thần công.
Tạm dịch bài số 11:
Lửa nhỏ riu riu nuôi tiềm long.
Long hiện tại điền lửa cũng đồng.
Tam dương giao hội là thời Thái.
Mới nên tấn hỏa pháp Thần công.
Bài số 12:
Huyền tiền huyền hậu biện Truân, Mông.
Tấn thối trục thiêm vận hỏa công.
Lự hiểm phòng nguy tu mộc dục.
Kim đơn thoát thể nhập Khôn cung.
Tạm dịch bài 12:
Trước huyền sau huyển rành Truân Mông (mẹo dậu)
Chiết Khảm điền Ly vận hỏa công.
Lo hiểm phòng nguy nên mộc dục.
Kim đơn thoát thể nhập Khôn cung.
Bài số 13:
Mộc dịch, kim tinh cư mẹo dậu.
Dĩ nghi mộc dục đại đơn đầu.
Tam tam quán sái tư Thần thủy.
Bất dụng công phu vận hỏa ngưu.
Tạm dịch bài 13:
Luyện dịch, luyện tinh giờ mẹo dậu
Cần nên mộc dục tại đơn đầu.
Tam điền tắm rửa nhờ Thần thủy.
Chớ dùng võ hỏa khỏi lo rầu.
Bài số 14:
Dĩ thời dịch nhật pháp Thần công.
Tử tế suy cùng tổng nhất đồng.
Cửu tố cửu hồi vị cửu chuyển.
Kim đơn hườn phản nhập Khôn cung.
Tạm dịch bài 14:
Lấy giờ đổi ngày theo Thần công.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
61
Suy cho tỉ mỉ vốn tương đồng.
Chín tới chín lui là chín chuyển.
Kim đơn trở lại chốn Khôn cung.
Bài số 15:
Nhất thời thần nội hườn đơn kết.
Đoạt đắc Càn Khôn đại tạo công.
Kim dịch dư tàn thâu thập thủ.
Mạc giao tùy vỏ cánh thùy phong.
Tạm dịch bài 15:
Chỉ trong một giờ kết đơn hồng.
Cướp được Càn Khôn tạo hóa công.
Kim dịch dư tàn thâu thủ lấy.
Chớ nên theo giớ với mưa dông.
Bài số 16:
Mộc kim gián cách yếu tương giao.
Bạch tuyết huỳnh nha cọng nhất bao.
Định ý như như hành hỏa hầu.
Tiện tùng Phục quái vận Sơ hào.
Tạm dịch bài 16:
Thần khí cách nhau phải hợp giao.
Chân hống Chân diên vốn một bao.
Luyện kỷ viên thành khai hỏa pháp.
Lại theo quẻ phục vận Sơ hào.
Bài số 17:
Vân thâu vỏ tán đơn ngưng hậu,
Cầm sắc hài hòa liễu đương thời.
Thiết kị bất tu hành hỏa hầu
Bất tri chỉ túc tất khuynh nguy.
Tạm dịch bài 17:
Luyện kỷ phục thuần đơn sẽ ngưng.
Là điều Sơ chứng của Thần công.
Lúc nầy phải nên dứt võ hỏa.
Chẳng biết tri túc ắt nhọc lòng.
Bài số 18:
Diên lư hống đảnh thiểu nhân tri
Mộc dịch kim tinh vượng hữu thi.
Dã chiến cánh tu hành hỏa hầu.
Trục thiêm vận dụng mạc linh trì.
Tạm dịch bài 18:
Lò diên vạc hống ít người rành.
Mộc dục kim tinh có thuở sanh.
Diên hống giao chinh nên dụng hỏa.
Tấn dương thối âm gấp thực hành.
Bài số 19:
Nhị bát môn trung đạt giả hi!
Huyền tiền huyền hậu chánh đương thì.
Tế tâm điều khiển văn kiêm võ.
Đoan đích vô trung dưỡng tựu nhi.
Tạm dịch bài 19:
Tám diên tám hống mấy người thông.
Trước huyền, sau huyền hạp thiền tông.
Công phu điều chế văn gồm võ.
Chỉ thiệt tâm không dưỡng tiểu đồng.
Bài số 20:
Kim ô dạ túc Tây xuyên.
Ly Khảm giao thời diệu cánh huyền.
Ôn dưỡng anh nhi duy tá mẫu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
62
Ngoại lư tăng giảm tượng Châu thiên.
Tạm dịch bài 20:
Chân hống đêm đêm trú Tây xuyên.
Khảm Ly giao cấu diệu thêm huyền.
Công dưỡng anh nhi nhờ Chân khí.
Lò ngoài thêm bớt tượng Châu thiên.
Bài số 21:
Thận trung cách Phục vi đông chí.
Tiện hiếu lâm lư luyện đại đơn.
Thác trượng huỳnh bà dữ mai hiệp.
Phu thê cọng thất trấn động hoan.
Tạm dịch bài 21:
Trong thận một động dương phát sinh.
Lấy đem về lò luyện đơn trình.
Cũng nhờ Chân ý công dìu dẫn.
Diên hống chung nhà, nhà quang vinh.
Bài thứ 22:
Luyện đơn tử tế biện công phu.
Trú dạ ân cần thủ dược lư.
Nhược ngộ nhất dương tài khí Phục.
Noãn thời vật thể, lão thời hưu.
Tạm dịch bài 22:
Luyện đơn cẩn thận biện công phu.
Đêm ngày chăm lo giữ dược lư.
Nếu gặp một dương vừa dấy Phục (quẻ)
Thuốc non và già đều chớ thu.
Bài số 23:
Sanh diên sanh hống vi đơn tổ.
Sính tác phu thê cọng nhất tâm.
Tùng thử trục thiêm phương tấn hỏa.
Ngọc lư luyện tác nhất đoàn kim.
Tạm dịch bài 23:
Sanh diên sanh hống làm đơn tổ.
Sánh đôi chồng vợ chung một lòng.
Theo đó bớt thêm rồi tấn hỏa.
Lò ngọc luyện nên một cục vàng.
(Thi chi vô tận)
---oOo---
7. Chú giải: THÔI CÔNG NHẬP DƯỢC:
Tiên thiên khí, hậu thiên khí: Tiên thiên khí là Thiên nguyên
nhất khí, trú tại trên Thiên xu.
Hậu thiên khí là địa nguyên nhất khí, trú dưới địa xu. Người nào
đắc được cơ đẩu bỉnh cán vận, tức thăng giáng vãng lai, châu nhi
phục thủy, cùng với Trời đồng vận.
Nguyên Hòa Tử nói: Nhơn thân đại để đồng Thiên địa.
Đắc chi giả, thường tơ túy: Người đắc được cơ đẩu bỉnh, rồi cán
vận hai khí âm dương, tức phát sinh hiện tượng hoảng hoảng hốt
hốt, tra tra minh minh. Tự nhiên thân tâm hòa sướng, như mê như
say, da thịt sảng khoái, có tại nơi trong.
Nhật hữu hiệp, nguyệt hữu hiệp: Mặt trăng tiếp thu ánh sáng của
mặt trời, sau đó mới có hiệp cơ hối sóc. Trong phách sanh hồn, là
lấy âm biến ra dương. Mặt trăng tối tượng cho niên chung. Mặt
trăng sáng (sóc) tượng cho đầu năm. Từ ngày sóc, mặt nhật chịu cơ
phù của nhật thần, là do thủy sanh kim.
Cho đến cuối tháng hối thì dương khí tiêu hết, tức kim thủy là tánh
tình của hai vật, tự cùng nhau bao bọc nơi trong.
Sách Tham Đồng Khế nói: Nguyệt phách nhật tương bao, ẩn tế kỳ
khuông quách.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
63
Cùng mậu kỷ, định canh giáp:
Kim dịch hườn đơn, nếu không có hành Thổ, tức không thể nào
tạo hóa được. Cho nên phải cùng cứu về Chân thổ.
Cổ nhân có lời ca: Ngũ hành xứ xứ hữu, hà xứ vi Chân thổ.
Tử Dương có lời thi:
Ly Khảm nhược hườn vô mậu kỷ
Tuy hàm tứ tượng bất thành đơn.
Canh là Tây phương kim, với Đông phương mộc, hai vật gián
cách, không được giao hợp, nên phải nhờ mai nhân Huỳnh bà, kim
mới sinh thủy, mộc mới sinh hỏa. Thủy hỏa đã vượng thì kim (khí)
mộc (Thần) giao hợp.
Cao Tượng Tiên có lời ca: Canh yếu sanh. Giáp yếu sanh. Sanh
giáp sanh canh. Đạo thủy manh (manh nha: nảy mầm).
Tây Hoa Thánh Mẫu nói: Sanh giáp sanh canh, khảm vi đại đơn
chi Tổ.
Chân thổ tức là ngôi Khôn.
Thượng thước kiều, hạ thước kiều:
Là lời của Thôi Công chỉ về hai nguồn cội. Thước kiều là cái cầu
bắt qua sông Thiên hà, là cơ vận dụng của con người. Thiên hà nếu
được lưu chuyển, thì trên dưới không cùng.
Thiên ứng tinh, dị ứng triều:
Tại nơi Trời thì ứng tinh, như cán vận đẩu bỉnh. Tại nơi đất thì
ứng triều, như trăng tròn khuyết. Thiên xu ca: Địa hạ hải triều,
Thiên thượng tinh.
Khỉ Tốn phong, vận Khôn hỏa:
Tức (hơi thở) là gió. Lửa không hừng lên nên phải dùng gió thổi.
Chung Ly đơn quyết có nói: Luyện dược bằng Tốn phong.
Hạnh Lâm có lời thi: Xuy khư địa xứ tại tây nam, là nguồn gốc
của thủy hỏa tụ hội.
Nhập huỳnh phòng thành chí bửu:
Sau khi đã trải qua đợt công phu về hỏa phù, tức là vận nhập vào
trong huỳnh phòng, kết thành một Linh vật vô cùng quí giá. Huỳnh
phòng còn gọi là huỳnh hoa.
Huyền quan nhất khiếu cũng là Chân thổ, nên gọi huỳnh phòng.
Thủy phạ càn, hỏa phạ hàn:
Tu luyện kim đơn, toàn mượn hỏa công điều biển. Lúc cần thêm
nước là để cứu cái lửa nóng bức. Lúc vận hỏa lại sợ hỏa hàn. Cho
nên nước vừa sợ rót tưới đi, lại sợ khô. Còn lửa cũng sợ nóng bức,
lại sợ lạnh. Cho nên mới có cân lượng pháp dọ, phải điều hòa cho
quân bình. Chẳng nên thái quá, cũng không được bất cập.
Sai hào phát, bất thành đơn:
Lúc vận hỏa phải thật cẩn thận trong công phu điều hòa biến hóa.
Sai một li thì Trời đất sẽ huyền cách.
Tử Dương có lời thi:
Hào phát sai thù bất kết đơn.
Diên long thăng, hống hổ giáng:
Diên đi tìm rồng, hống đi tìm cọp, để kết duyên giai ngẫu, để chiết
Khảm điền Ly, cho Càn khôn định vị, như thuở Tiên thiên.
Thái Bạch Chân nhân nói: Ngũ hành bất thuận hành, hổ hướng
thủy trung sinh. Ngũ hành điên đảo xung, long tùng hỏa lý (trong)
xuất, dĩ pháp chế chi, tắc tự nhiên thăng giáng.
Khu nhị vật, vật túng phóng:
Đúng lúc long hổ thăng giáng, phải nên bắt giữ lại, không cho
chúng phóng túng.
Tử Dương có lời thi:
Ký khu nhị vật qui huỳnh đạo.
Trầm (vừa) đắc kim đơn bất giải sinh.
Sản ở Khôn, chủng tại Càn:
Dược sản tại tây nam. Tây nam là Khôn địa. Sản ở Khôn cung, thì
phải đem trồng lên cung Càn. Trên dưới hai nguyên vị, lý đã rõ
ràng.
Đản Chí thành, hiệp tự nhiên:
Chân Nhất Tử nói: Chí thành tu luyện Linh dược nầy, đó là cái
đạo bạch nhật phi thăng.
Âm Chân Quân nói: Bất đắc địa mạc vọng vi. Ta ẩn mật, thẩm phò
trì. Thiện bảo thủ Thiên địa ki (cơ).
Đạo Thiên địa, đoạt tạo hóa:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
64
Tu luyện mà không trộm lấy bộ máy của Trời đất, chẳng cướp lấy
cơ mầu nhiệm của Tạo hóa, mà vận dụng công phu, tức giống như
cơ bỉ thái của Càn Khôn, rồi thêm rồi bớt, tượng như mặt trăng khi
tròn khi khuyết. Định cơ khắc lậu, phân rõ hai huyền, cách tí ngọ,
tiếp âm dương, thông hối sóc, hiệp long hổ, nương theo đại số của
Thiên địa, hiệp cơ biến hóa của âm dương. Âm phù dương hỏa y
ước quái hào. Châu nhi phục thủy, tuần hoàn hỗ dụng.
Nếu không sai thất về Chân thời, thì trong đảnh sẽ tạo hóa ra, cả
thảy đều sáng tỏ cái tượng của Trời đất, và vận động mà phát sinh
ra vạn vật.
Nếu bị hỏa hầu lỗi thời, hoặc trục thiêm quá độ, lạnh nóng chẳng
ứng, tấn thối sai thù, tức Trời đất kia nương vào đâu mà hóa sinh
vạn vật! hai khí âm dương nương vào đâu mà sanh long hổ.
Tán ngũ hành, hội bát quái:
Năm phương lấy Trung ương làm chủ.
Ngũ hành lấy Thổ làm chủ. Vị cư nơi trung mà có Thổ đức tôn vi.
Cho nên thủy đắc thổ thì được tiềm ẩn lấy mình, hỏa đắc thổ thì ẩn
ánh sáng, kim đắc thổ thì thêm tươi nhuận. Thổ vốn không có
chánh hình, mà đun đẩy mà an bài tứ tượng.
Ngũ hành đã tụ, thì bát quái tự nhiên tương hội.
Thủy Chân thủy, hỏa Chân hỏa:
Lý trung có âm, tức trong tâm có thủy dịch, đó là Chân thủy.
Khảm trung có dương, tức trong thận có khí đó là thân hỏa. Là
Chân thủy hỏa của cơ thân.
Thủy hỏa giao, vĩnh bất lão:
Loại khí của đất xông lên thành sương mù, loại khí của trời giáng
xuống thành móc thành hơi nước. Âm dương giao nhau rồi hóa
mưa, khiến cho vạn vật tươi nhuần và tạm sống.
Còn hai khí âm dương trong con người tương giao thì thành thân
dịch, tư nhuận ngũ tạng của con người không có tân dịch thì sanh
bệnh.
Cho nên, nếu vạn vật không có hai khí âm dương thì không sống
được, lục phủ, ngũ tạng của con người không có tân dịch thì sanh
bệnh.
Tại thận trung, tự Khả nghiệm:
Thận thủy và thận hỏa tại trong một cơ thân con người, ứng dụng
vào công phu tu luyện.
Cho nên người tu cần phải suy nghiệm.
Thị tánh mạng, phi Thần khí:
Bên tả là tánh, tánh thuộc Ly.
Bên hữu là mạng, mạng thuộc Khảm.
Trung âm của Khôn nhập vào Càn mà thành Ly.
Trung dương của Càn nhập vào Khôn mà thành Khảm.
Nên hiểu: Khảm Ly là tánh mạng, là huyệt của thần khí.
Thủy hương diên, chỉ nhất vị ( mùi)
Thủy là khảm, diên là kim. Còn gọi là Thủy trung kim.
Vân phòng đơn quyết nói: Diên cư thủy hương, linh nguyên canh
tân, thất vị thuộc Càn, thương cư Khảm hộ, ẩn tại Đoài biến.
Lưu Hải Thiềm có lời thi: Luyện đơn tu thị thủy hương diên.
Chỉ có một vị này, là căn đế hườn đơn.
Qui căn khiếu, phục mạng quan:
Đã đắc trên dưới hai căn nguyên, đó là Căn khiếu qui căn phục
mạng.
Quán Vỹ lư, thông Nê hoàn:
Trên thông với Nê hoàn cung, dưới quán suốt Vỹ lư quan. Là nói
về một khí tuần hoàn trên dưới và vô cùng.
Chân thác thược, Chân đảnh lư:
Thăng giáng luận nói: Con người mà bắt chước được sở dụng về
thác thược của Trời đất, nên lúc mở thì khí xuất, lúc đóng lại thì khí
nhập.
Khí xuất như địa khí thượng thăng. Khí nhập như Thiên khí hạ
giáng. Chân khí được châu lưu, tự có thể cùng Trời đất đồng trường
cửu.
Trên gọi là Kim đảnh, dưới gọi là Ngọc lư.
Tu được như trên, con người đó cũng là Chân tạo hóa.
Vô trung hữu, hữu trung vô:
Kim bích kinh nói: hữu vô hỗ tương chế, trên có Thanh long cư.
Lưỡng vô tông nhất hữu Linh hoa và mầu nhiệm khó dò.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
65
Sách Tham Đồng Khế nói: Thượng bế tắc xưng hữu, hạ bế tắc
xưng vô. Vô giả dĩ phụng thượng. Thượng hữu Thần đức cư. Thử
lưỡng khổng huyệt pháp, kim khí diệc tương tu (cần).
Thác Huỳnh bà, mai Trạch nữ:
Trạch nữ tại Ly cung, Khảm nam chẳng được cùng nhau giao hội,
nên nhờ Huỳnh bà (Chân ý) làm mai mới được hiệp.
Khinh khinh vận, mặc mặc cử:
Lúc tấn dương hỏa nên khinh khinh vận hành lặng lặng cử động.
Hạnh Lâm có lời thi: Như như hành hỏa hầu, mặc mạc vận Sơ
hào.
Nhất nhật nội, thập nhị thần:
Trong năm dùng tháng. Lấy một tháng 360 giờ làm chuẩn cho một
năm.
Trong tháng dùng ngày. Tức mỗi ngày đêm là 12, làm chuẩn cho
một tháng.
Trong ngày dùng giờ. Trong giờ dùng khắc. Khắc này là vi diệu,
chỉ do khẩu khẩu tương truyền.
Ý sở đáo, giai khả vi:
Trong mỗi ngày đêm, suốt 12 giờ, hễ lúc nào dương động đều phải
hạ thủ.
Tử Dương nói: Nhất nhất chi công phu, tự hữu nhất niên chi tiết
hầu. Thử nãi khoảnh khắc chi công phu.
Mã Tự Nhiên có lời thi:
Bất khắc thời trung phân tí ngọ.
Vô hào quái nội biệt Càn Khôn.
Ẩm đao khuê, khuy Thiên xảo:
Cái gươm từ trên nồi bay lên, thể thủ để uống, nên gọi ẩm đao
khuê. Trên và dưới là hai nguồn cội, đều là Chân thổ.
Khuy là dòm ngó, là quán.
Âm phù kinh nói: Quán Thiên chi đạo, chấp Thiên chi hành. Là
trọn hết vậy.
Biện sóc vọng, tri hôn hiểu:
Có thể biện minh về sóc vọng trong thân con người.
Tri hôn hiểu, là biết được về buổi ban mái thuộc về quẻ Truân
(hiểu: sáng), buổi chiều thuộc về quẻ Mông (hôn: tối).
Thức phù trầm, minh chủ khách:
Diên trầm mà ngân (kim: khí) lại phù.
Diên chìm nên lặng xuống dưới.
Ngân phù nên nổi bổng lên trên.
Cần minh chủ khách: Tử Dương có lời thi: Nhiêu tha vi chủ, ngã
vi tân. Không khác. Đó là cái lý trước thăng sau giáng.
Yếu tụ hội, mạc gián cánh:
Lửa với nước thường phải tụ hội, chớ để cho chúng gián cách.
Thể dược thời, điều hỏa công:
Lúc thể dược, toàn mượn công hỏa để điều biển, một cương một
nhu, một văn một võ, nhị bát phong (niêm) môn, lục nhất cố (bền)
tế (giúp). Tuần (noi theo) quái hào, duyên (men theo) khắc lậu,
phân nhị huyền, cách (phân biệt) tý ngọ, thủy ư Phục, nhi chung ư
Khôn.
Sách Tham Đồng Khế nói: Đã được Chân diên, lại khó Chân hỏa.
Có thể không cần phải để ý, mà khiến cho không bị nỗi lo thái quá
hay bất cập.
Thọ khí túc, phòng thành hung:
Tử Dương có lời thi:
Thọ khí chi sơ dung dị (dễ ) đắc
Trục thiêm hỏa hầu yếu phòng nguy.
Lúc đầu thọ khí là khiến cho Thần khí giao hợp, thủy hỏa đồng
hương. Nếu được như vậy rất tốt. Cho đến khi thoát thể về Khôn
cung để mộc dục phải phòng nguy hiểm.
Chỉ lo thủ cố thành trì thì khỏi lo nguy hiểm.
Hỏa hầu túc, mạc thương đơn:
Cửu chuyển hỏa túc, nên dứt hỏa phù.
Nếu không biết chỉ túc, ắt Linh hống sẽ bay tẩu tán.
Thiên địa linh, tạo hóa quái:
Lời nầy nói về sự quái lẫn, Tu sĩ cần phải cẩn mật, chớ nên để ý
buông lung.
Sơ kết thai, khán bản mệnh:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
66
Lúc sơ kết Thánh thai, phải xem xét về sơ khí của bản mệnh lúc
thọ khí.
Sơ khí đó là bản mệnh.
Chung thoát thai, khán tứ chánh:
Chung là lúc cuối cùng phải xem xét về ngôi Tứ chánh là Huyền
quan Tổ khiếu.
Chung thoát thai là lúc qua quan phục thực.
Mật mật hành, tuần tuần ứng:
Phải thường nương theo cơ mật mật nầy mà dụng công, tất nhiên
dần dần có ứng nghiệm.
Lữ Công có lời thi:
Nhân khán Thôi Công nhập dược cảnh.
Linh nhơn tâm địa chuyển phân minh.
---oOo---
8. Chú giải LỮ CÔNG THẤM VIÊN XUÂN
Thất phản hườn đơn:
Hỏa sanh số 2, thành số 7.
Phản là từ dưới mà trở lại lên trên.
Hườn là từ bên trên mà trở lại xuống dưới.
Có lời nói: Mộc 3 kim 4, hiệp thành số 7.
Cho nên nói: Thất phản.
Thuyết này cũng huyền diệu.
Bởi vì kim mộc là cha mẹ của thủy hỏa, là tông tổ của ngũ hành, là
căn cơ của hườn đơn.
Huỳnh Phòng có lời thi:
Thất ban linh vật tận vi âm.
Nhược tương thử vật vi đơn chủng.
Trẩm đắc phi thăng Huỳnh ngọc kinh.
Thất ban là 7 loại tân dịch trong con người, như nước mắt, nước
dãi, tân, tinh, khí, huyết, dịch Tử đình kinh nói: Thất kiện âm vật hà
thủ yên.
Có nhiều danh tự nói về hườn đơn như: Đại đơn, Nội đơn, Ngọc
hồ đơn, Gián tuyết đơn, Hích xích kim đơn, long hổ đại dược, Cửu
chuyển hườn đơn, Vư trụ chi chủ, Thần phù bạch tuyết, qui tinh
phụng ủy, Thố tủy ô can, Tiên thiên địa tinh.
Cả thảy các danh từ đó đều nói về Chân diên và Chân hống, giao
kết mà thành. Chẳng phải là loại phàm diên, phàm hống, hay là loại
dược kim thạch thảo mộc hữu chất.
Hống là loại Chân hống cửu chuyển.
Diên là loại Chân diên thất phản.
Chỉ có hai vị nầy mới là Chân khí của Thiên địa, là vật Chí tinh
của nhật nguyệt, phối với bên ngoài thì làm sáng tỏ khí tượng của
Càn Khôn, phối với bên trong thì thành cơ tạo hóa của phù hiệp. Có
sanh có sát, là hổ là long. Giấu kín tinh khí để lại tạo thành phu thê.
Nối dòng tổ tông nên gọi Cha con. Hai vị đã rõ, hai tánh đã rành.
Cũng vì nhờ mai nhân mà nam nữ hòa hài. Cũng nhờ mẹ mà con
chúa lớn khôn.
Thánh nhân chí bí, là huyền chi hựu huyền.
Tu sĩ luyện đơn nên trở lại cầu tầm nơi ta.
Tại nhân, tiên tu Luyện kỷ đãi thời:
Đạo chẳng xa người, trăm họ nhật dụng mà không biết.
Luyện kỷ cũng là cái đạo Luyện hình.
Cả mọi người tu, không ai là chẳng lo cắt phá khối hồng mông,
dục khai khối hỗn độn, để thể thủ cho được loại tinh Chân nhất, và
ôm lấy Chân khí Tiên thiên mà làm đơn cơ. Tu sĩ không thể nào
dùng loại nào khác để tạo tác.
Sách Tham Đồng Khế nói: Yến tước bất sánh Phượng, hồ thố bất
nhũ mã. Đồng loại dị thi công, phi chủng nan vi xảo.
Chim én, chim sẻ, không bao giờ đẻ ra con chim Phượng. Con
chồn, con thỏ, chẳng bao giờ bú sữa nhờ nơi con ngựa. Cùng đồng
một loại mới dễ thi công. Chẳng phải cùng loại khó tạo nên khéo.
Kim Hoa động chủ giải đáp lời hỏi của Thái Thất sơn nhân: Tích
kỳ dương hồn, tiêu kỳ âm phách. Là dùng dương binh để chiến thối
âm tặc. Cũng như khiến cho bát quái chuyển động, ngũ hành tương
khắc, đều được qui căn phục mạng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
67
Hườn đơn được rực rỡ, là do dùng tinh để luyện hình. Linh dược
sản nơi tây nam Khôn địa. Chủ yếu là phải biết rõ về Chân thời.
Trời đất nương theo tiết hầu nào để sanh vạn vật.
Khí âm dương nương theo tiết hầu nào để sanh long hổ.
Sau huyền trước huyền là thời trung của Tạo hóa.
Khảm Ly giao cấu là công phu khắc lý (bên trong).
Công phu đến đây rất vi diệu, phải có khẩu khẩu tương truyền.
Chánh nhất dương sơ động, trung tiêu lậu vĩnh:
Vũ trụ tại nơi tay, vạn hóa sanh thân người.
Tỳ Lăng nói:
Luyện đơn bất dụng tầm Đông chí.
Thân trung tự hữu nhất dương sinh,
Thời trung hữu thời chi công phu.
Khắc trung hữu khắc chi công phu.
Ôn ôn diên đảnh, quang thấu liêm vi:
Diên đảnh là tạo hóa diên đảnh.
Ôn ôn là hỏa lực vi vi và không hề gián đoạn. Tức do ôn dưỡng
mà thành đơn.
Tỳ Lô sư nói:
Kim đảnh thường lưu thang dụng noãn.
Ngọc lư mạc yếu hỏa giao hàn.
Liêm vi: là hai rèm chân mày. Vân Phong có nói: Bế hộ thùy liêm
mặc mặc khuy. (Lặng lẽ ngó xuống, nhưng mắt không mở)
Chỗ hạ thủ công phu Thần quang sáng ngời chiếu thẳng lên trung
gian của hai chân mày.
Tạo hóa tranh trì, long hổ giao hội:
Lúc tạo hóa tranh trì, thì rồng ngâm mây đáy, cọp hú gió sinh,
khiến cho thủy hổ bắt giữ hỏa long, và hỗ tương giao hội.
Sách Nhập dược cảnh nói: Diên long thăng, hống hổ giáng (?),
huyền nhi vật, vật túng phóng.
Nếu vận hỏa lỗi thời, tức long hổ không giao, hống diên đều phi
tẩu.
Tử Dương có câu thi:
Tây sơn bạch hổ chánh xương cuồng.
Đông hải thanh long bất khả dương.
Lưỡng thủ tróc lai linh tử (chết) đấu.
Hóa thành nhất khối Tử kim sương.
Lưỡng thủ tróc lai, là mượn để nói cho hùng mạnh, nhưng vốn do
Chân ý hiệp vận, mới được kết thành Linh vật vô giá bửu.
Tấn hỏa công phu Ngưu Đẩu Nguy:
Hỏa là Chân tinh của Thái dương, có danh mà không có hình.
Cho nên sách Tham Đồng Khế có nói: Ký đắc Chân diên, hựu nan
Chân hỏa. Vậy sao dám khinh nghị được.
Lửa mà lại phát khởi nơi trong nước, là lẽ gì?
Vì là Khảm thuộc thủy, mà trong Khảm lại có khí Chân dương, đó
là Chân hỏa.
Long hổ giao hội, thì kim mộc giao cấu, tức trong Chân hỏa cũng
có viêm độ.
Công phu tấn dương hỏa có cương nhu văn võ, có cân lượng pháp
độ, nhị bát (diên = hống) lâm môn, thi lục nhất (thận căn) cố tế (bền
vững). Tuần (tuân theo) quái hào duyên (lượng theo) khắc lậu, liễu
(trọn công) Truân (mai) Mông (chiều), minh Bỉ Thái, phân nhị
huyền, biện hối sóc, thủy Phục chung Không, khỉ thần (ban mai)
chỉ hối (ngưng vào ban tối), tắc âm dương thái hòa.
Nếu hỏa hầu lỗi thời, thì mưa nắng không điều độ, mùa đông
chính mà đại hán, mùa chính hạ mà lũ lụt. Đó là mượn để nói về
hiện tượng loạn lạc nơi trong con người, là do vận hỏa quá sai.
Ngưu, Đẩu và Nguy là ba ngôi sao, mượn để nói về thời của hạ
thủ công phu.
Khúc giang thượng, kiến nguyệt hoa huýnh tịnh, hữu cá ô phi:
Tiểu trường của con người, (thể có 12 khúc, gọi là khúc giang).
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
68
Nguyệt là sở dụng của dược, là nói về sự rất tinh khiết của dược,
là linh vật chí bửu.
Có con quạ bay là nói trong dương có hàm âm.
Lưu Hải Thiềm có câu thi:
Kỷ độ ô phi túc quế kha (nguyệt).
Cổ nhân cũng có một câu thi:
Hữu cá ô phi nhập thố cung.
Đương thời tự ẩm đao khuê:
Lúc đương hành công giao hội, hạ thủ từ Thổ phủ thể rồi uống.
Cho nên sách Nhập Dược Cảnh có nói: Ẩm đao khuê. Thức thổ
phủ khả dữ phối đao khuê chi diệu.
Thủy tín vô trung dưỡng tựu nhi:
Cái đạo hườn đơn là vô trung sinh hữu, dần dần thể thủ, dần dần
phanh luyện, mới có thể kết thành Thánh thai. Vốn vô chất mà sinh
chất, để nuôi dưỡng thành anh nhi.
Cho nên Tử Thanh Tiên sinh có bài thi:
Quái sự giao nhơn tiếu kỷ hồi.
Nam nhi kim dã thọ hoài thai.
Tự gia tinh huyết tự gia cấu.
Thân lý (trong) phu thê thị diệu tai.
Biện thủy nguyên thanh trược:
Thanh Tịnh Kinh nói: Thiên thanh địa trược, nam thanh nữ trược,
Thanh giả trược chi nguyên, vô tha. Dương thanh nhi âm trược.
Khinh thanh giả phù nhi tại thượng. Chân thủy ngân thị dã.
Trọng trược giả trầm nhi tại hạ, Chân diên thị dã.
Nhất vật nhị dụng, khả bất biện minh. Thanh trược thăng giáng chi
đạo dã hồ?
Mộc kim gián cách:
Mộc cư đông phương giáp ất, tại tượng là Thanh long, tại quẻ là
Chân, là trưởng nam của Càn, là mẹ sinh ra hỏa, là bích nhãn hồ
nhi, là mộc dịch.
Kim cư tây nam canh tân, tại tượng là Bạch hổ, tại quẻ là đoài, là
thiếu nữ của Khôn là mẹ sinh ra thủy, là kim tinh.
Cách là cách cư mẹo dậu, không noi theo đâu để tụ hội. Chỉ nhờ
có Chân ý nên mới được hiệp làm một.
Tổ Dương Ông nói: Mộc kim gián cách hội vô nhân. Chỉ tượng
mai nhân câu dẫn, nhiên hậu mộc sanh hỏa, kim sanh thủy. Thủy
hỏa đồng hương, nên mộc kim giao hợp.
Bất nhân Sư chỉ, thử học nan tri:
Kim đơn đại dược, Cổ nhân nói: vạn kiếp chỉ truyền có một người.
Ngọc tư linh thiên nói:
Số người theo học mê hết chín, Thánh sư khẩu khẩu, lịch đại tâm
tâm.
Nếu chẳng phải tâm truyền khẩu thọ, đều khiến cho những người
dù là trí tài tam kiệt, linh mẫn hơn người, cũng phải trăm mối lần
dò, có khi cuối cùng cũng chưa hạ thủ được, để có thể kết thai
Thánh tử. Cho nên có lời nói: Ví ngươi thông tuệ hơn Nhan Mẫn,
chẳng có Chân sư chớ cưỡng hành. Chỉ vì kim đơn vô khẩu quyết.
Khiến ngươi chỗ nào kết Linh thai.
Lưu Hải Thiềm nói: Thử đạo huýnh xa (xa lắc) chiêu chương, Như
hà loạn tư lương. Kim đơn chi Chân đạo, Nhược bất ngộ Chân sư.
Thực nan tri chí diệu.
Đạo yếu huyền vi, Thiên cơ thâm viễn:
Đại đạo vô hình, sinh dục Thiên địa.
Đại đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt.
Đại đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật.
Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng danh viết Đạo
Tra tra minh minh, kỳ trung hữu tình
Hoảng hoảng, hốt hốt, kỳ trung hữu vật.
Thị chi bất kiến, thính chi bất văn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
69
Đàn chi bất đắc, vô trung sanh hữu.
Thiên cơ thâm viễn, huyền diệu nan trắc.
Âm phù kinh nói: Thiên hữu ngũ tặc, kiến chi giả xương. Tri chi
tu luyện, vị chi Thánh nhân.
Cẩu phi đổng (rộng) hiểu âm dương, thâm đạt tạo hóa, yên năng
tạc (đục) khai hỗn độn, thế Thiên địa phu mẫu chi căn, nhi vi đại
đơn chi cơ, kích liệt (đánh xé) hồng mông, dĩ thủ âm dương thuần
túy chi tinh, nhi vi Đại đạo chi cơ. Tán thốc (qui hiệp) ngũ hành,
hòa hiệp tứ tượng, tam hoa tụ đảnh, linh (khiến) nhất khí bất hôn
(tối). Ngũ khí triều nguyên, sử dương hồn bất loạn. Phóng túng ư
tra minh chi trung. Lai vãng ư hoảng hốt chi nội. Bát vận xuất nhập,
di (dời) Thần dương xá. Công thành hành mãn, vị chứng Thiên tiên.
Huống kim dịch hườn đơn chỉ có một cửa, há đâu như bàng môn
tiểu pháp, làm sao nói được.
Hạ thủ tốc tu, vật thái trì:
Thiên kinh vạn luận, đều chưa nói rõ chỗ bí quyết của hạ thủ công
phu, mà chỉ truyền nơi khẩu quyết.
Lúc mới hạ thủ, là lúc máy động nơi cơ thác thược của Càn Khôn,
là lúc thể thủ đao khuê của Khảm Ly, là lúc di chuyển Chơn thần
trong thân, là lúc qui vào trong huyệt Thiên cốc. Lấy Chân hỏa mà
dung dưỡng, tức Thần khí qui căn, nên gọi Hồi phong hỗn hiệp, mật
cố căn nguyên. Đó là cái đạo bảo giữ lấy ngôi Chân nhất.
Long hổ kinh nói: Thần thất có hai vị trí của phủ vạc là trên với
dưới. Còn cơ biến hóa thì ở trong tay. Cho nên Chánh Nhất Chân
nhân mới luận về cây kiếm thanh xà, còn Tây Thục Lão Ông thì đắc
cái kim chùy huyền diệu, Lữ Công lại ví đó là hỏa trượng. Thanh
thành Không Giác gọi kiếm này chẳng phải là cái Đạo. Đó là đã nói
ra cùng tận tông tích, cắt xẻ đến vô căn.
Nếu không hạ thủ, mà cứ sống mãi luống luận kim đơn thì vạn vô
nhất thành!
Cổ nhân có hai câu ca:
Thánh nhân thức đắc Tạo hóa ý.
Thủ đàn nhật nguyệt an lư lý (trong lò).
Âm phù kinh nói: Vũ trụ tại hồ thủ (tay), vạn hóa sinh hồ thân.
Còn những kẻ học mà không chứng ngộ được, tức phải cầu bậc
Chí nhân.
Còn những kẻ đã hiểu được Chánh đạo mà không chuyên cần
công phu, cuối cùng cũng không thành Chánh giác!
Đức Lão Tử nói: Thượng sĩ văn đạo, mẫn nhi hành chi. Tiên đạo
có thành là do người có tu.
Cổ nhân nói: Thần Tiên chỉ thị phàm nhân tố.
Cần phải biết: Cơ luân hồi sự tức tốc. Cuộc sống thác không tránh
được. Giàu sang vinh hoa chẳng phải là kế lâu dài. Hãy gấp gấp hạ
thủ tu luyện, mà còn sợ là quá chậm rồi.
Bồng Lai lộ, trượng tam thiên hành mãn, độc bộ vân trình:
Bồng Lai ba đảo, là núi Tiên trên biển, nơi con người là tam điền.
Tử Thanh Tiên sinh có câu thi:
Nhơn thân tự hữu nhất Bồng Lai.
Tam thiên công hạnh là số Cửu niên bảo Nhất.
Chín năm công mãn, rồi hoặc phân hình tán ảnh, hoặc xuất hữu
nhập vô, hoặc khinh cử viễn du, ẩn hiện không lường, hoặc thay đổi
cân cốt rồi bay lên cõi Tiên, hoặc Thái Ất kiến triệu.
Diêu Đầu Phiêu có bài ca:
Cửu niên công mãn đô kinh quá.
Lưu hình trụ thể bất như Xuân.
Hốt nhĩ Thiên môn đảnh trung phá.
Chân nhân xuất hiện đại thần thông.
Tùng thử Thiên Tiên lai tương hạ (mừng).
Sách Tham Đồng Khế nói: Đạo thành đức tựu, tiềm phục sĩ thời,
Thái ất nãi triệu. Di cư trung châu, công mãn thượng thăng.
Bành Chân Nhân nói: Thái Ất Chân Nhân là nội luyện Chủ tư.
Người thế gian lúc mới đắc Đạo, tên họ được ghi nơi bộ vàng và
sẽ được siêu thăng về cõi Tiên.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
70
---oOo---
9. KIM ĐƠN BÁCH TỰ
Chân thổ cầm Chân diên. Chân diên chế Chân hống.
Diên hống qui Chân thổ. Thân tâm tịch bất động.
Hư vô sinh bạch tuyết. Tịch tịnh phát huỳnh nha.
Ngọc lư hỏa ôn ôn. Kim đảnh phi tử hà.
Hoa trì Liên hoa khai. Thần thủy kim dịch tịnh.
Dạ thâm nguyệt chánh minh. Thiên địa nhất luân cảnh.
Châu sa luyện dương khí. Thủy ngân phanh kim tinh.
Kim dinh dữ dương khí. Châu sa nhi thủy ngân.
Nhật hồn Ngọc thố chỉ. Nguyệt phách Kim ô tủy.
Chuyết lai qui đảnh trung. Hóa tác nhất hoằng thủy.
Dược vật sinh huyền khiếu. Hỏa hầu phát dương lư.
Long hổ giao hội thời. Bửu đảnh sản huyền châu.
Thử khiếu phi phàm khiếu. Càn Khôn cọng hiệp thành.
Danh vi Thần khí huyệt. Nội hữu Khảm Ly tinh.
Mộc hống nhất điểm hồng. Kim diên tứ cân hắc.
Diên hống kết thành châu. Cảnh cảnh tử kim sắc.
Gia viên cảnh vật lệ. Phong vỏ chánh xuân thâm.
Lê sừ bất phí lực. Địa địa giai huỳnh kim.
Chân diên sinh ư Khảm. Kỳ dụng tại Ly cung.
Dĩ hắc nhi biến hồng. Nhất đảnh vân phí nồng.
Chân hống sản tại Ly. Kỷ dụng khước tại Khảm.
Trạch nữ quá Nam viên. Thủ trì ngọc cảm lảm.
Chấn Đoài phi đông nam. Khảm Ly bất nam bắc.
Đẩu bỉnh vận Châu Thiên. Yêu nhân hội tán thốc.
Hỏa hầu bất dụng thời. Đông chí bất tại chí.
Cập kỳ mộc dục pháp. Mẹo dậu thời hư tỷ.
Ô can dữ thố tủy. Cầm lai cọng nhất xứ.
Nhất liệp phục nhất liệp. Tùng vi nhi chí trước.
Hỗ độn bao hư không. Hư không quát tam giới.
Cập tầm kỳ tâm nguyên. Nhất liệp tấc mễ dại.
Thiên địa giao Chân dịch. Nhật nguyệt hàm Chân tinh.
Hội đắc Khảm Ly cơ. Tam giới qui nhất thân.
Long tùng Đông hải lai. Hổ hướng Tây sơn khỉ.
Lưỡng thú chiến nhất trường. Hỏa tác Thiên địa tủy.
Kim hoa khai hống diệp. Ngọc đề trưởng diên chi.
Khảm Ly bất tằng nhàn. Càn Khôn kinh kỷ thì.
Mộc dục phòng nguy hiểm. Trục thiêm tự cẩn trì.
Đô lai tam vạn khắc. Sai thất khủng hào li.
Phu phụ giao hội thì. Động phòng vân vu tác.
Nhất tải sanh cá nhi. Cá cá hội kị Hạc.
THÍCH NGHĨA:
Tây triết Long môn tông tử Mẫn Dương Lâm thích nghĩa.
Chân diên cầm Chân hống. Chân Hống chế Chân diên.
Diên hống qui Chân thổ. Thân tâm tịch bất động.
Con người lúc mới bắt đầu sinh, Thiên nhất sanh Khảm thủy là
thận. Thận thủy trầm trọng tượng là diên. Thận sanh khí, trong khí
có một điểm Chân nhất tinh, đó là Chân diên.
Địa nhị sinh Ly hỏa là tâm. Tâm hỏa phi dương tượng là hống.
Tâm sinh dịch, trong dịch có một điểm Chân dương khí, đó là Chân
hống.
Khảm trung có mậu thổ. Ly trung có kỷ thổ.
Thủy vốn là âm, mà trong âm có Chân dương.
Hỏa vốn là dương, mà trong dương có Chân âm. Đó là Chân thổ.
Âm giao với dương, dương giao với âm, đều nương theo Chân thổ.
Chân diên tức nguyên khí trong thận.
Chân hống tức nguyên thần trong tâm.
Chân thổ tức Chân ý của con người.
Chân ý thường khiến hống nghinh diên, diên thường chế hống.
Sau khi diên và hống đã qui về Chân thổ, tức Thần khí hỗn dung,
tánh tình hiệp nhất, và thân tâm tịch nhiên bất động. Tuy nói:
Chẳng động, nhưng trong Chân tâm đã suốt thông tất cả. Lại trong
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
71
cõi mờ mờ có ánh sáng, vọng tâm đã trừ, linh tâm bất muội, nhục
thân tợ như đã chết, Pháp thân (Cốc thần) thường tồn.
Chẳng còn bị đọa vào ngoan không, để cam chịu như cảnh xương
khô cốt tàn.
Chỉ có Chân ý trong Chí thành, để dụng công Thiền định, để thâu
phóng tâm, tức được ngũ hành qui căn, tứ tượng hòa hiệp, ngũ khí
triều ngươn, tam hoa tụ đảnh. Tất cả đều suốt thông, không còn
phiền toái khó khăn.
Hư vô sinh bạch tuyết. Tịch tịnh phát huỳnh nha.
Ngọc lư hỏa ôn ôn. Kim đảnh phi tử hà.
Luyện tâm đến độ hư vô tịch tịnh, tức có Chân dược sinh, phải lo
hạ thủ công phu thể dược.
Bạch tuyết, huỳnh nha, là cảnh tượng dược sinh trong thân ta.
Nhưng lấy bạch tuyết qui hư vô, lấy huỳnh nha qui tịch tịnh, cũng
tự có sự phân biệt:
Bạch tuyết vốn từ hư vô sinh, huỳnh nha phải dưỡng hỏa mới sinh.
Đó là hỏa năng sanh thổ.
Thời đúng quẻ Cấu thì Thiên giao với địa.
Hư vô thì bạch tuyết tự sanh, thời đúng quẻ Phục thì địa giao với
Thiên.
Tịch tịnh thì huỳnh nha tự phát, chính là trong Trời đất.
Lúc dương cực âm sanh, là bạch tuyết từ nơi Trời bay xuống. Lúc
âm cực dương sanh, thì huỳnh nhà từ nơi đất được trưởng vượng.
Ngọc lư tức Huỳnh đình. Hỏa tức là Thần, là dĩ Thần chế ngự khí.
Lửa tại ngọc lư là ôn ôn, là hành hỏa hầu.
Đảnh là nói về cung Càn, là bản cung của Thần. Chân hỏa huân
chưng cho âm hắc biến ra dương hồng dương tía. Lửa bay lên trên
hóa thành loại ráng, lửa với ráng là một vật.
Ngọc lư hỏa ôn ôn, thị Thần nơi cung Càn chiếu xuống cung
Khôn. Cho đến lúc nào trên đảnh có ráng tía, tức là Khôn thọ Càn
hỏa, phát hiện ra ngoài Khôn cung, có dạng bay lên.
Tâm định được thân lâu ngày, tức là thận căn được tâm trị, là sự
hiệu nghiệm đầu tiên của công phu tu luyện.
Hòa trì Liên hoa khai. Thần thủy kim dịch tịnh.
Dạ thâm nguyệt chánh minh. Thiên địa nhất luân cảnh.
Tử Dương trong lời tựa có nói: Lấy diên diện kiến với hống, gọi là
Hoa trì. Đem hống đầu nhập vào diên, gọi là Thần thủy. Lấy đó mà
quán xét thì Hoa trì là mạng đế. Thần thủy là tánh căn.
Muốn cho tánh với mạng được hỗn dung, thì trước tiên chuyển
hống cầu diên, thứ đến mới lấy diên chế hống.
Khảm cung Chân nhất tinh, tàng tải khí Chân dương, rồi đưa lên
trên, khí tượng tợ Liên hoa khai nở.
Ly cung Chân dương khí, theo Chân nhất tinh mà hạ giáng an tợ
kim dịch thanh tịnh.
Cho đến lúc giờ tí thì thủy thanh, kim bạch, và Tánh mạng, Thần
khí, hai thành phần cùng nhau hỗn hợp, cho nên nói: Thiên địa nhất
luân cảnh. Chỉ tại lấy tánh hiệp vào mạng, ngưng Thần nhập Khí
huyệt.
Cổ nhân gọi luyện đơn không có pháp nào khác, chỉ là dẫn Thần
thủy nhập Hoa trì, thì vạn sự sẽ được hoàn tất.
Tâm với thận hiệp nhất, là được thuần theo Thiên lý.
Cứ tự nhiên mà vận hành, tất nhiên sẽ có dược thời hạ thủ.
Châu sa luyện dương khí. Thủy ngân phanh kim tinh.
Kim dinh dữ dương khí. Châu sa nhi thủy ngân.
Châu sa là khí Chân dương trong dịch.
Thủy tinh là tinh Chân nhất trong khí.
Muốn bổ âm trung của Ly cung, phải thể thủ loại tinh Chân nhất
trong dịch, để bổ.
Muốn luyện kim tinh và dương hỏa, phải dùng loại Chân hỏa để
huân luyện.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
72
Còn loại châu sa, phải dùng âm phù để nuôi, cũng như nuôi thủy
ngân như là một vật.
Lúc dược hạ thủ phải cực luyện cực phanh.
Còn lấy tâm trị thận, lấy thận nuôi tâm, để chờ, ngoài ra còn pháp
nào khác.
Nhật hồn Ngọc thố chỉ. Nguyệt phách Kim ô tủy.
Chuyết lai qui đảnh trung. Hóa tác nhất hoằng thủy.
Thái dương mộc hỏa là Nhật hồn. Hồn tàng Thần mà trong dương
có âm. Âm tức Nguyệt phách, mặt nguyệt nếu không có mặt nhật,
thì lấy gì để sanh quang, nên nói Ngọc thố chỉ. Chỉ từ nơi tinh sanh
ra.
Thái âm kim thủy là Nguyệt phách. Phách tàng tinh mà trong âm
có dương. Dương tức Nhật hồn, mặt nguyệt nếu không có mặt nhật,
thì lấy gì để thành thể, nên gọi Kim ô tủy. Tủy từ nơi Thần mà ra.
Cũng như châu sa là loại tinh trong mặt nhật, vì trung cảm với
Nguyệt hoa mà sanh Chân khí.
Thủy ngân là loại hoa trong mặt nguyệt, vì trung cảm với Nhật
tinh mà sinh Chân diên.
Thượng sĩ tu hành thì luyện khí hóa Thần.
Trung sĩ tu hành thì luyện tinh hóa khí.
Hạ sĩ tu hành thì lấy khí lưu tinh, lấy khí lưu Thần. Lúc tinh với
Thần được hỗn hợp, và sẽ điều hòa nơi trong bửu đảnh, tức Cam lồ
tự giáng mà làm nhất hoằng thủy.
Ôn dưỡng dung hòa, thì thân tâm mới hóa, vậy sau đó mới quán
kỳ khiếu.
Dược vật sinh huyền khiếu. Hỏa hầu phát dương lư.
Long hổ giao hội thời. Bửu đảnh sản huyền châu.
Huyền khiếu là Huyền quan Tổ khiếu, là Cốc thần, do hai thành
phần huyền tẩn nhiệp nhất. Huyền thuộc dương, tẩn thuộc âm, nên
gọi là Huyền khiếu.
Nhơn thân Hạ điền là lư, là nơi Thần gởi nương, hỏa phát từ nơi
đây nên gọi Dương lư.
Trên lư là đảnh.
Lúc tịnh cực thì động, dược vật tự sanh, là lúc nên lập tức thể thủ.
Sau khi đã đắc dược, nếu không có hỏa hầu để phanh luyện, thì
dược vật sẽ bị tán thất, thì huyền châu lấy đâu mà sản. Cho nên phải
vận chuyển nơi đảnh môn quan (Càn cung) rồi cướp lấy hạt ngọc
Châu dưới hàm của con rồng đen.
Dược tức là hỏa, hỏa tức là dược.
Dược với hỏa hiệp nhất thì long hổ giao hội, và thai được treo nơi
bửu đảnh. Nhưng vốn dược vật sinh Huyền khiếu, và Huyền khiếu
cũng sanh dược vật, mới có thể dương lư phát hỏa. Nếu Thiên cơ
chưa đến mà trước lo trợ tưởng, tức ngoại hỏa tuy có lưu hành,
nhưng nội phù bất ứng, chẳng qua là sự thiêu đốt thận căn mà thôi.
Đại để là Thần khí phải hòa dung, thì huyền châu mới tự hiện.
Huyền khiếu đã hiện thì hỏa hầu tự tri. Hỏa hầu đã biết thì long hổ
tự giao hợp. Long hổ đã giao hợp thì huyền châu tự thành. Cơ mầu
nhiệm nơi trong động tịnh, chẳng sai hào phát là tốt đẹp.
Chân tam thuần nhất, chẳng có gì xen tạp thì hoát nhiên quán
thông. Chỉ đều do Chân ý chủ trì. Công phu thận độc rất chủ yếu.
Trước 5 tiết chỉ nói rõ chữ “Tịnh”, đến đây thêm một chữ “Kính”
làm chủ trì.
Công phu chủ kính tồn thành tại đây.
Thử khiếu phi phàm khiếu. Càn Khôn cọng hiệp thành.
Danh vi Thần khí huyệt. Nội hữu Khảm Ly tinh.
Khiếu nầy tức Huyền khiếu, vốn không hệ thuộc hữu vô, chẳng rơi
vào phương thể, vượt ra ngoài thân tâm, xuất hiện lúc hoảng hốt
nên nói: Chẳng phải phàm khiếu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
73
Thân con người, trên Càn dưới Khôn. Trung hào của Càn đi tìm
Khôn nên thành Khảm, Khảm cư Khôn vị nên khí cũng cư ngụ nơi
đó.
Còn trung hào của Khôn đi tìm Càn nên thành Ly. Ly gởi nơi Càn
vị nên Thần cũng cư nơi đó. Thần này là khí hống trong tâm. Khí
nầy là khí diên trong thận. Tâm là Thần thất, thận là khí phủ, nên
nói: Thần khí huyệt.
Trong thận có một điểm Chân dương khí. Trong tâm có một điểm
Chân âm tinh. Cho nên nói: Nội hữu Khảm Ly tinh.
Thân tâm hồn nhiên, tịnh quán thì đắc khiếu. Khiếu này không
phải là khiếu của nhục thể phàm thân. Từ đây về sau nên giới thận
thân tâm, chớ li gián, chớ phóng túng. Chủ yếu là phải Chí thành kỷ
ý, khắc chế tư dục, nghiêm khắc với lỗi lầm.
Mộc hống nhất điểm hồng. Kim diên tứ cân hắc.
Diên hống kết thành châu. Cảnh cảnh tử kim sắc.
Trong tâm có một điểm Chân âm tinh, tên gọi Mộc hống. Mộc số
tam, nội hàm Chân dương khí là nhất, nên gọi: Nhất điểm. Mộc
năng sinh hỏa, hỏa sắc hồng, nên gọi: Nhất điểm hồng.
Trong thận có một điểm Chân dương khí, tên gọi Kim diên. Kim
số tứ, kim sắc hắc, nên nói: Tứ cân diên sắc hắc. Kim thủy đồng
cung, nên gọi: Tứ cân hắc.
Lúc đầu lấy hồng nhập vào hắc. Thứ đến luyện hắc nhập hồng.
Hồng với hắc giao cấu với nhau, nên kết thành một hạt Châu nơi
bửu đảnh, ánh sắc sáng chói chan tợ như màu sắc tía. Loại hồng và
loại hắc xen lẫn nhau thành sắc tía, nên gọi: Tử kim sắc.
Nhưng diên với hống chẳng có định vật, hồng với hắc chẳng có
định sắc. Một điểm bốn cân cũng không phải định số.
Chính tại thâm tâm hỗn hóa, công phu chủ kính tồn thành, Chân
tích lâu ngày, là lúc Chí đạo đại ngưng. Sau đó tâm thân mới sảng
khoái, có thể đạt đến cảnh trí thanh tịnh tự nhiên, và đoạt cơ diệu
dụng.
Gia viên cảnh vật lệ. Phong vỏ chánh xuân thâm.
Lê sừ bất phí lực. Địa địa giai huỳnh kim.
Gia viên là Chân thổ trong thân. Cảnh vật là cảnh tượng của dược
vật trong thận.
Lúc gặp được nhất dương lai phục, nên cố Tốn phong để thổi
Khôn hỏa, tức dẫn Thần. Thần thủy nhập Hoa trì và tư nhuận cơ
thận.
Cho đến thời tam dương khai thái, cũng phải cẩn thận, chớ nên
phung phí tâm lực thể thủ, lại còn vật trợ vật vong, tức huỳnh nha
từ nơi đại địa sẽ được phát sinh, gọi là kim, là đơn đã kết thành.
Cái khí do tập nghĩa sở sanh vốn chí đại chí cương, chỉ có dùng
phương trực dưỡng mới vô hại.
Chân diên sinh ư Khảm. Kỳ dụng tại Ly cung.
Dĩ hắc nhi biến hồng. Nhất đảnh vân phí nồng.
Thận sinh khí. Loại thủy Chân nhất trong khí là Chân diên. Loại
khí Chân dương của Ly cung hễ thấy dịch thì tương hiệp. Khí nầy
thâu thủ loại thủy Chân nhất, mà không phải trong dịch có cơ năng
thể thủ khí Chân dương. Khiến cho mẫu tử gặp nhau và luyện cố,
tức là kim ẩn trong thủy, không theo dấu mà thượng thăng.
Chỉ vì pháp môn Dĩ Thần ngự khí, là yếu quyết tâm truyền của
ngàn đời, nên nói kỳ dụng tại Ly cung.
Thể tại Khảm mà dụng tại Ly. Khí diên do hỏa nên xuất hiện. Còn
thủy hắc cũng do hỏa mà hóa hồng. Chỉ thấy từ tam quan ló đầu rồi
thượng xung lên trên Cửu trùng thiên, ùn ùn mà hưng phát, lần lượt
mà đi lên, hợp nhau mà huân chưng, rạng vậy mà ngưng tụ, và khí
nầy tợ như mây nồng bay lên trong đảnh.
Tiết này nhân theo tiết trên, đặc biệt nêu lên phần công dụng thân
tâm hỗn hóa, đều là dùng tâm để chữa trị thân với phương tiện dùng
Thiền định làm công lực.
Chân hống sản tại Ly. Kỷ dụng khước tại Khảm.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
74
Trạch nữ quá Nam viên. Thủ trì ngọc cảm lảm.
Chân hống tuy sản lại Ly cung, nếu không có Chánh khí Bắc
phương chế phục, tức thường muốn phóng ngoại, mà không được
ngưng tụ, nên nói: Kỳ dụng tại Khảm.
Trạch nữ là khí hống, Nam viên là Ly cung. Khí hống trong Ly
mỗi khi thấy diên của Khảm, thì hai gã liền giao hiệp: hống từ nhà
Ly mà xuống nhà Khảm của diên, nên gọi quá Nam viên. Mỗi lần
quá Nam viên thì hống thành bạch tuyết.
Ngọc là tượng cho sắc trắng. Cảm lảm là tượng cho hình thể
không vuông cũng không tròn.
Tiết này cũng nêu lại về công dụng thận tâm hỗn hóa, đều tại lấy
thận nuôi dưỡng tâm, với lòng Chí thành mà nên.
Chấn Đoài phi đông nam. Khảm Ly bất nam bắc.
Đẩu bỉnh vận Châu Thiên. Yêu nhân hội tán thốc.
Chấn tại phương đông, Đoài ở phương tây.
Ly tại phương nam, Khảm ở phương bắc.
Đó là phương vị của bát quái hậu thiên.
Thiên đạo vận hành, không giờ ngừng nghỉ. Còn về sự chuyển di
của đẩu bỉnh, thì theo mặt trăng và đều chỉ cho một phương. Cũng
như âm dương nóng lạnh, không sai kỳ hạn.
Con người là một tiểu Thiên địa, từ Huyền cốc lên nê hoàn, rồi
xuống Trùng lầu để về Bắc hải, gọi là Châu thiên.
Cơ cán triền cũng do nơi đẩu bỉnh. Một năm 12 tháng, mỗi tháng
30 ngày, cọng lại 360 ngày. Mỗi ngày có một trăm khắc, nên mỗi
năm có 36,000 khắc.
Công phu chỉ trong một ngày, có thể cướp được 36,000 khắc. Đó
là nói về tu sĩ đơn vận Châu thiên hỏa hầu trong một ngày.
Lấy một ngày đổi một năm. Lấy 12 giờ đổi 12 tháng, gom cả năm
làm một ngày, nạp cả tháng vào trong một giờ. Chỉ là tùy đẩu bỉnh
để làm cơ chuyển vận, còn đông tây nam bắc bất tất phải nói.
Cán cân đẩu bỉnh nếu sai thất, thì thời cơ sẽ bị ngang trái. Cần cẩn
thận, cần cẩn thận.
Hỏa hầu bất dụng thời. Đông chí bất tại chí.
Cập kỳ mộc dục pháp. Mẹo dậu thời hư tỷ.
Hỏa cũng là một loại vật, nếu lượng quá lớn thì nhiệt độ càng cao,
nếu lượng quá nhỏ thì hàn độ cao. Chỉ tại điều hòa đắc trung. Cho
nên hỏa hầu có nói hầu. Cứ mỗi giờ có sáu hầu. Hầu là tiết hầu
trong thân ta, lúc nào lại không có.
Thân ta tịnh cực thì động. Tại tháng tức là Đông chí. Tại ngày tức
là giờ Tí. Nghinh đón lấy Thiên cơ nầy mà tham dự theo, tức là
điều động, và hỏa hầu tại đây.
Đại để, nhất dương thăng là Tí, một âm giáng là Ngọ. Dương
thăng âm giáng là Mẹo. Âm thăng dương giáng là Dậu. Cho nên,
mới nói: Bất khắc thời trung phân tí ngọ. Cũng chẳng phải lấy
Đông chí làm Tí, Hạ chí làm ngọ, hay tháng thỏ tháng gà là mẹo
dậu.
Như ngoại đơn tấn hóa là Tí, trục (xua đuổi) hỏa là Ngọ.
Chẳng thêm hỏa, chẳng bớt hỏa, là mộc dục.
Chẳng nên câu chấp ở tí ngọ, cũng không nên câu chấp ở mẹo dậu.
Hai tiết nầy đều nói về công dụng của thân tâm hỗn nhất, chuyền
nhờ ở Chân ý chủ trì, nhờ lòng Chí thành tạo nên tịnh lực miên
miên nhược tồn.
Ô can dữ thố tủy. Cầm lai cọng nhất xứ.
Nhất liệp phục nhất liệp. Tùng vi nhi chí trước.
Con người bẩm thụ loại khí Chân nguyên của Trời đất là 384
châu, cọng trọng lượng là một cân, Nhật tinh có tám lượng, gọi là ô
can mộc dịch.
Nguyệt tinh cũng có tám lượng, gọi là Thổ tủy kim tinh.
Vì kim mộc gián cách, nên mới mượn mậu kỷ thổ là Chân ý làm
mai nhơn. Lại dùng Chân hỏa hà luyện, nên rồi ngày kia sanh ra
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
75
một hạt, tợ như hạt ngọc Châu, trọng lượng một chu tám li, từ tế vi
đến hiển rõ. Lần lần tích chu thành lượng, 30 ngày trọng lượng
được 38 chu 4 ti, 300 ngày trọng lượng 384 chu, vuông vức một
tấc, trọng lượng một cân.
Tiết này nói rõ, chỉ cần thận tâm giao hiệp, ngoài ra không còn
vận dụng pháp nào khác.
Chỉ dùng trực dưỡng vô hại, và dụng công Thận dộc, cho đến tâm
quảng thể bàng, Chân khí lấp đầy Trời đất.
Hỗ độn bao hư không. Hư không quát tam giới.
Cập tầm kỳ tâm nguyên. Nhất liệp tấc mễ dại.
Có thế giới tức có tam tài. Có tam tài tức có hư không. Có hư
không tức có hỗn độn.
Trước khi chưa có Trời đất, vốn trong hiện tượng hỗn hỗn độn
độn. Hỗn độn bao hư không. Hư không bao quát tam giới. Cho đến
sự tìm hiểu về lúc ban sơ thân ta mới thụ khí, chẳng qua cũng là
một hạt châu (hạt tinh). Đó là căn cội của nhân sinh, mà người tu
đơn cần phải biết. Cho nên mới nói: Hữu nhân ( ) yếu mích
trường sinh quyết. Chỉ khứ sưu tầm tạo hóa căn.
Cơ hỗn độn là nói về thân. Còn hư không là nói về tâm. Nhất là
đức Chí thành. Thân bao lấy tâm, tâm trùm lấy thân.
Sở dĩ đạt được hiện tượng đó là do Chân ý. Chân ý tại Thiên địa là
guồng máy của tạo hóa. Tại con người là Chủ tể của cơ sanh hóa.
Tu sĩ cần phải biết rõ, nếu thấy được công dụng của Chân thổ, thì
sẽ được Chân quả.
Thiên địa giao Chân dịch. Nhật nguyệt hàm Chân tinh.
Hội đắc Khảm Ly cơ. Tam giới qui nhất thân.
Tâm dịch hạ giáng, thận khí thượng thăng. Dịch với khí đều gọi là
dịch. Trời với đất giao nhau sinh Chân dịch. Hồn là ô tinh, phách là
thố tủy, đều gọi là tinh. Trong nhật nguyệt có hàm chứa Chân tinh.
Khảm thuộc âm, trong Khảm có ẩn tàng Mậu. Mậu là dương thổ, là
cơ chỉ của Khảm.
Ly thuộc dương, trong Ly có ẩn tàng Kỷ. Kỷ thuộc âm thổ, là có
chỉ của Ly.
Hiểu được Khảm trung mậu thổ cơ, sơ thủy ở dương, và Ly trung
kỷ thổ cơ, sơ thủy ở âm, đó là Thiên địa trong thân ta. Nhật nguyệt
trong thân ta, đều do cơ vận dụng của Chân thổ, và tam giới qui về
một thân.
Tam giới là dục giới, sắc giới, và vô sắc giới. Còn gọi là cõi Ta bà.
Khảm là thận, Ly là tâm. Cơ chỉ của Khảm Ly là ý.
Khảm tại Tiên thiên cư tại hướng tây, là phách. Qua hậu thiên thì
cư tại hướng bắc, cũng là phách, theo nguyên-lưu là tinh.
Nay thống nhất Tiên hậu thiên, hòa trộn tinh với phách làm một
nhà là thân.
Ly thời Tiên thiên cư tại hướng đông, là hồn. Đến thời hậu thiên
thì vị cư tại nam, là hồn, theo cơ hiển hiện là Thần.
Nay thống nhất Tiên hậu thiên, hỗn hợp hồn với Thần lại một nhà
là Tâm.
Chỉ có hành thổ vị cư trung ương, hội hiệp tứ tượng. Chính thực là
cơ sở của Khảm Ly ở cơ thống nhất Tiên hậu thiên. Chưa từng do
Tiên hậu thiên mà biến đổi cơ sở, là Chân ý. Chỉ có thượng thổ cử ý
trạch thân để thâu tâm, khiến cho thân tâm và ý hỗn qui về một chỗ.
Chẳng có hai, chẳng ngừng nghỉ, bồng bế nuôi nấng mà thành
Chân. Cho đến lúc thịnh đại thì hay sinh vật. Há chẳng phải vạn vật
đã cụ bị nơi ta, và tam giới qui về một thân sao.
Đây là cực công của Đơn đạo, và là một việc rất đầy đủ của Thánh
nhân.
Long tùng Đông hải lai. Hổ hướng Tây sơn khỉ.
Lưỡng thú chiến nhất trường. Hỏa tác Thiên địa tủy.
Chân dương khí trong tâm là Long. Mộc năng sinh hỏa, Chấn
thuộc mộc nên long từ phương đông lại.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
76
Chân nhất tinh trong thận là hổ, kim năng sanh thủy, Đoài thuộc
kim, nên hổ hướng tây sơn mà dấy lên.
Nếu như được rồng ngâm mây phát và hạ giáng, hổ gầm gió sinh
mà bay lên, hai thú nọ gặp nhau, giao chiến nơi trước cửa Huỳnh
thất, thì rồng nuốt lấy tủy cọp, rồi gió mây hỗn hợp làm thành một
vật, là hóa ra tủy của Trời đất.
Tiết này nói về thời hạ thủ, là lúc ban sơ tâm và thân đắc dược
hiện tượng hỗn ngưng, mà chẳng phải thực có chiến tượng.
Lời nói chiến là lời nói về con người thuận tùng theo cơ hậu thiên,
muốn phản phục lại Tiên thiên, tất nhiên Trời với người có một
trường giao chiến, nếu Thiên lý thắng nhơn dục thì tinh ma tận diệt,
nếu nhơn dục thắng Thiên lý, thì Chánh lý bị chướng ngại và sẽ tiêu
dung.
Nhưng nếu con người hậu thiên mà được hỗn hợp, thì thận tâm sẽ
được hỗn hóa.
Lời tựa của Tử Dương có nói: Tâm hậu thiên tợ như con cuồng
long, thân hậu thiên tợ như con mãnh hổ. Tiết này nói rồng từ biển
đông lại, là nói về cái hồn của nhà tâm. Còn cọp hướng từ núi tây
vùng lên, đó là nói về cái phách của nhà thận. Sự thực lời tựa nói:
Trong thận có một điểm Chân dương khí, trong tâm có một điểm
Chân âm tinh, gọi là hai vật, tức hai con thú.
Lời tựa lại nói: Tâm thuộc Càn, thận thuộc Khôn. Tiết này lại nói:
Chiến nhất trường.
Trần Nê Hoàn nói: Dĩ chế phục thân tâm vi dã chiến. Là nói về
chỗ nầy.
Có lời nói là hóa tác ra Thiên địa tủy, là nói về hiện tượng lúc Trời
đất và nhật nguyệt mềm như lụa.
Kim hoa khai hống diệp. Ngọc lạc trưởng diên chi.
Khảm Ly bất tằng nhàn. Càn Khôn kinh kỷ thì.
Kim hoa vốn là do Chân diên mượn hống khí mà thành thai. Ngọc
đế vốn là do Chân hống mượn diên khí mà thành hình.
Con người, hống khí là Thần, diên khí là tinh.
Kim hoa khai hống diệp, là hiện tượng hoảng hoảng hốt hốt, trong
thủy sinh Thần.
Ngọc đề trưởng diên chi, là hiện tượng tra tra minh minh, trong
hỏa sanh tinh.
Đắc quyết là tọa Thiền cho đến lúc kim hỏa hiển lộ, thì cái căn của
Ngọc mới manh nha, tức nhành lá của diên hống được tốt xinh. Lúc
nầy chính là lúc nên thể dược tấn hỏa, khiến cho Khảm ly vận hành
khắp đông tay, Càn khôn châu hồi khắp trên dưới. Cứ một vòng thì
một phục, một thăng thì một giáng, tuần hoàn không mối mang,
chẳng nên có một khoảnh khắc đình đốn.
Lúc chưa đắc dược, nên phải nhận lấy sự mở khai của hống diệp.
Sau khi đã đắc dược, lại phải biết về cơ diệu của vãng phục.
Thăng giáng được thích nghi, mới là thủy chung kim tận, và Thánh
thai viên thành.
Nếu như Càn Khôn Ly Khảm không được tuần hoàn nơi trong
mười tháng, thì đảnh khí dược vật tạm bị tán thất, Kim hoa cũng
không giữ được sự thối hóa. Ngọc đề cũng không giữ được sự bất
điều.
Tiết này nêu về cái lý, tất cả đều do Chân ý chủ trì, chủ yếu là
khiến cho thận và tâm khắc khắc giao dung, không một ti hào gián
đoạn.
Cũng chỉ là lấy tâm để thể hiện sức đại kiện của Càn đạo, lấy thân
để nương theo cơ đại thuận của Không đạo, thì tự nhiên Châu vận
không dừng, hầu biến hóa Khảm Ly trở thành Càn Khôn như thuở
Tiên thiên.
Mộc dục phòng nguy hiểm. Trục thiêm tự cẩn trì.
Đô lai tam vạn khắc. Sai thất khủng hào li.
Một năm 12 tháng, cọng là 36,000 khắc. Trong một ngày qui nạp,
tợ như 12 tháng.
Mười tháng vận hành hỏa hầu, dương sanh thì thể dược nơi Tí
cung, khiến cho nghịch thăng, gọi là trục diên. Lúc âm sanh thì thối
hỏa nơi Ngọ vị, và khiến cho thuận giáng, gọi là thiêm hống.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
77
Cửu niên sinh cửu cá, nên nói: Cá cá.
Trăm ngàn ức hóa thân, là do cơ biến hóa của dương thần.
Phu phụ giao hội thì. Động phòng vân vu tác.
Nhất tải sanh cá nhi. Cá cá hội kị Hạc.
Chồng vợ là nói về hai khí Chân âm và Chân dương. Chân âm
Chân dương được Chân thổ mai sính, kết thành vợ chồng, rồi động
phòng giao kết, nên mây rợp mưa tuôn.
Trong một năm mười hai tháng hoài thai, hai tháng mộc dục, thai
hoàn khí túc, sản cá anh nhi, bèn cỡi chim hạc xuất ngoại từ cửa Nê
hoàn.
Chín năm sinh chín, nên gọi: Cá cá.
Trăm ngàn ức hóa thân, cũng chỉ một cá anh nhi nầy.
Chồng là Càn, vợ là Khôn. Động phòng là nói về sự dắt ý, để cầm
để chế, để hỗn hợp, để cùng Trời đất sánh tày, đều do công dụng
của lòng Chí thành.
Chân diên của Thận ví như người chồng. Chân hống của tâm ví
như người vợ.
---oOo---
10. Ngộ Chân Thiên ĐẮC ĐƠN THẦN TỐC
Hích hích kim đơn nhất nhật thành.
Cổ Tiên thủy ngữ thực kham thinh.
Nhược ngôn cửu tải tam niên dả.
Tiên thị thôi diên hưởn nhật trình.
Kim đơn một hạt, một ngày có thể thành.
Sách Tham đồng khế nói: Sở vị thủ vỹ võ, trung gian văn.
Kim đơn đại dược, hạ công chẳng quá nửa giờ, liền được phục
thực.
Lời nói một ngày là Thánh nhân rút ngắn khí hầu của một năm.
Trong một tháng rút lại thành một ngày, trong một ngày rút lại một
giờ. Cho nên nói một ngày có thể thành.
Tiên Ông có nói: Dĩ thời dịch nhật pháp Thần công. Là nói về chỗ
này.
Kim đơn đã phục thực, cõi Thánh sẽ thung dung. Là hiệu nghiệm
thực trong thần tốc, hà tằng ba năm với chín năm, cứ mãi kéo dài
năm tháng lụn.
Cổ Tiên Trương Quả Lão có bài thi:
Hích hích kim đơn nhất nhật thành.
Huỳnh nha bất lị thủy ngân khanh.
Công thành tuy vị tam châu biến.
Khai lư dĩ giác phóng quang minh.
Bất lị thủy ngân khanh: Chẳng rời thủy ngân lấp kín.
Tuy vị tam châu biến: Chưa đủ ba năm.
Chánh pháp tạo đơn, chủ yếu là hống với diên hiệp, chỉ trong
khoảnh khắc thời gian, đơn đầu liên kết. Chỉ cần cứu xét về thời
diên sanh. Đó là lúc vạn vật sắp manh nha, vốn có khí mà không có
chất, và thủy ngân tột thanh khiết là có huyền diệu.
Luyện đơn pháp phải biết rõ hượt tí thời.
Chỉ trong một ngày thành công, là kết quả về sự nghiệp hườn đơn.
Chín năm ba năm, chỉ là công phu Bảo ngươn thủ nhất.
Tiết này nói về sự thần tốc đắc đại dược, để người tu không nghĩ
về thời gian dài là ba năm chín năm.
---oOo---
Chương mười hai
CHÂU THIÊN VẬN
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
78
NHÂM ĐỐC NHỊ MẠCH
Hiện xuất Nguyên quan tiêu tức lộ.
Hưu vong bạch mạch Pháp luân hành.
Thương giáo hỏa dưỡng trường sinh quật.
Kiểm điểm minh châu bất tử quan.
---*---
Cơ mầu nhiệm của Chân đạo không gì bằng Pháp luân. Sự vận
hành thông suốt không gì bằng đạo lộ. Chậm nhanh theo đẳng cấp
không gì bằng qui tắc. Số hạn chẳng sai lầm không gì bằng hầu
pháp.
Đồ hình nầy trọn đủ Chánh pháp Tây lai Chân diện mục, tất cả đều
gồm đủ.
Còn cơ huyền diệu bên trong, về công phu hành trì không gì qua
hô hấp. Tiêu tức vãng lai, không gì qua hạp tịch. Châu thiên vận
đúng đạo lộ, cũng không ngoài Chân ý. Có chỗ khí chỉ không gì
qua giới địa.
Chỉ vì lòng vị tha nên ta mới làm ra đồ hình này, và đã tiết lậu
Thiên cơ, dù cho là hạng phàm phu, nếu được đồ hình nầy tu luyện
cũng có thể thành công. Còn đối với những kẻ dù thiếu đức mà
được đồ hình, rồi đặt hết lòng chí thành tu hành, Trời cũng không
phụ. Là tại sao vậy?
Đức với Đạo như chim có cánh, nếu thiếu một ắt là vô dụng. Cho
nên trung, hiếu, nhân, nghĩa, ngũ giới, đều được tinh tu, sau mới có
hy vọng.
Sở dĩ có bản đồ hình nầy, vì sợ người tu hành không biết trong con
người mình có con đường đạo lộ Pháp luân.
Người nào hiểu rõ về hai mạch nầy, và khai thông được hai mạch
này, thì trăm mạch đều thông.
Công phu tu hành, nên bắt chước con rùa mà luyện Qui tức, là tập
thở như con rùa. Con rùa thở rất chậm, mỗi phút nó chỉ thở có 2
hơi, còn người phàm phải thở đến 20 hơi. Con rùa thở tận bao tử,
còn người phàm thở vào chỉ tới cổ họng. Nhờ đó mà con rùa sống
đến ngàn năm. Người tu hành nếu hô hấp giống như con rùa, lại nếu
biết vận hành Chân tức, thì sẽ được sống trường thọ và ít tật bệnh.
---*---
2. Tiêu dương kinh có bài TÂM TỨC TƯƠNG Y:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
79
Tế Dương Tử nói: Tâm nầy không phải là trái tim thịt, mà là
Thiên tâm bổn tánh Chân như.
Nho gia nói: Nhơn dục tịnh tận, Thiên lý lưu hành. Được như vậy
mới thấy được Thiên tâm.
Tây du kinh của Khưu Chân nhân trước tác, trong đó có nhân vật
Ngộ Không là vai chính, đó là Ngộ Không bổn tánh kiến Chân như.
Cho nên nói: Như lý nhi lai, như lý nhi khứ. Như lý nhi lai, là tâm
đã hư không, không có phàm tâm, tức được thấy Thiên tâm. Thấy
được Thiên tâm tức được thấy Như Lai. Thấy được Như Lai rồi
phải chờ thời.
Thiệu Khương Tiết tiên sinh nói: Nguyệt đáo thiên tâm xứ, phong
lai thủy diện thời.
Tâm kinh nói: Thời. Thời nầy là thời thấy Thiên tâm, là thời
dương khí phát sinh, là thời Nhất nguyên phục thủy.
Thời nầy đã đến thì Chân ý phải biết, gọi là Thời chí thần tri, thì
Thiên tâm hiện, là thấy được như lai. Lúc nầy đơn điền ấm ấm, toàn
thể châu thân khoái lạc. Thật là mầu nhiệm.
Còn tức ở đây không phải là loại hơi thở hữu hình của miệng mũi,
mà là loại Chân tức phát xuất từ nơi trong Khí huyệt. Cho nên
người tu cần phải biết rành loại Chân tức nầy, cần phải tuyệt trừ tạp
niệm, cần phải luyện cho tâm tột hư, hằng giữ được sự thanh tịnh,
thuần đốc. Tâm có được hư không, thì Chân tánh mới hiện. Lúc nầy
khẩu tỷ vô khí, là phàm tức đình mà Chân tức động. Tự nhiên có
hiện tượng hoảng hốt tra minh, nơi Khí huyệt phát hiện ra một
khiếu, có dạng như vướng víu, tên gọi: Khiếu trung khiếu.
Chủ yếu là ngưng Thần nhập Khí huyệt, tức tức qui căn, tợ như
quên, tợ như còn.
Lúc dược đã qui lư phải lo phanh luyện. Tâm với tức nương nhau,
không được lìa nhau dù một sát na. Tâm đây là Chân ý. Chân ý đi
đâu thì Chân khí theo đó, nên gọi Tâm tức tương y.
Cổ nhân có nói: Thần hành khí hành, Thần trụ khí trụ. Trụ hành
tương y, Chí thành kiên chí, thể thủ, phanh luyện, hô hấp thăng
giáng, động tịnh, vãng lai, tấn thối đều do Tâm tức tương y. Công
phu được như vậy, thì thân tâm thái hòa đại định, và thiên nhiên
Chân hỏa hầu được vô cùng diệu dụng.
Kim đơn từ sơ thủy cho đến chung cuộc, thảy đều thường tồn pháp
môn Tâm tức tương y, mới mong thành tựu.
Lớn lao như vậy thay về cơ diệu chỉ của Tâm tức.
Châu thiên vận có hành trụ, có khỉ chỉ, đều do tâm tức tương y.
Vận hành khỉ hỏa tại hư nguy rồi lên tào khê lộ, lên Thiên môn,
xuống Trùng lầu rồi trở về vị trí cũ, đều do Tâm tức tương y.
Cổ nhân có hai câu thi:
Nội giao Chân khí tồn hô hấp.
Tự nhiên tạo hóa phản đồng nhan.
Tồn hô hấp là dụng tâm điều tức, không nên để một hơi thở đi
ngoài tâm.
Trần Trí Hư có bài thi:
Nhất điều đại lộ thiểu nhân tầm.
Phong hổ, vân long, tự tá ngâm.
Tọa định yếu tri hành khí chủ,
Chân nhân chi tức tự thâm thẩm.
Sách Tánh mạng khuê chỉ có bài:
Bất thị huyền môn tiêu tức thâm.
Cao sơn lưu thủy thiểu tri âm.
Nhược năng tầm trước lai thời lộ
Xích tử y nhiên hỗn đoạn tâm.
Nếu hỏi về lúc nào đến đâu?
Tức là lúc dương sinh là một khiếu Huyền quan, là nơi ngưng kết
thành đơn, là thời nhũ bộ hườn hư, và thăng Thiên môn.
Xích Đô Tử nói: Trong Khí huyệt, người xưa mệnh danh là Sanh
môn tử hộ, lại gọi là Thiên địa căn. Ngưng Thần tại đây thì Chân
khí sẽ được tràn đầy nơi khí huyệt, thì Nguyên thần càng ngày càng
vượng. Thần vượng thì khí sướng. Khí sướng thì huyết lưu thông.
Huyết được lưu thông thì cân cốt được kiên cường. Cân cốt kiên
cường thì tủy sung mãn. Tủy sung mãn thì bụng đầy Chân khí, thì
hành bộ khinh kiện, động tác không hề mỏi mệt, tứ chi khương
cường, nhan sắc như quả đào, cách Tiên không xa.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
80
3. Ngộ Chân Thiên có bài VẬN KHÍ THÔNG QUAN
Quan khiếu chưa thông, khó có thể đắc dược, nên mới nói: Nội
thông ngoại diệc tu thông.
Thông suốt được con đường vãng lai của quan ải, là thông hành từ
dưới lên trên, từ sau đến trước.
Lúc khởi hành tại trung gian của hai huyệt hư và nguy, rồi ra Tam
kỳ lộ, lên Vỹ lư, lên Giáp tích, lên Ngọc chẩm, qua Thiên môn,
vượt Thước kiều, xuống Trùng lầu, xuống Gián cung, đến Khí hải.
Nếu vận khí thông quan được thành tựu thì có Chân khí tích tụ.
Lữ Tổ có hai câu thi:
Khai quan ty yếu đảnh huân chưn,
Thấu Tổ cơ, vưu vi giản thiệp.
4. Kim đơn đại thành có bài: THÁC THƯỢC CA:
Càn khôn thác thược cổ hữu số.
Ly khảm đao khuê thể hữu thì.
Diên long thăng hề, hống hổ giáng
Qui xà thượng hạ lưỡng tương trì
Thiên thượng nhật đầu địa hạ chuyển
Hải để thiền quyên Thiên thượng phi.
Càn khôn nhật nguyệt bổn bất vận.
Giai nhân đẩu bỉnh chuyển kỳ cơ.
Nhân tâm nhược dữ Thiên tâm hiệp.
Điên đảo âm dương chỉ phiến thì.
Hổ long chiến bãi tam điền tịnh.
Thập thủ huyền châu chủng tại Ni.
Huỳnh bà mai hiệp nhập trung cung.
Anh nhi, Trạch nữ tương truy tùy.
Niên trung dụng nguyệt, nguyệt dụng thì.
Khắc lý công phu diệu cánh kỳ.
Ám hiệp đẩu ngưu cọng hoan hội.
Thiên cơ thâm viễn thiểu nhân tri.
Tấn hỏa phanh tiên Thiên địa tủy.
Khai lư mộc dịch thể tinh huy.
Cửu hườn thất phản tại phiến hướng.
Chân khí huân chưn đạt tứ chi.
Ôn dưỡng anh nhi duy tá mẫu.
Thủ thành dã chiến yếu phòng nguy.
Nhất thời bát khắc nhất Châu thiên.
Thập nhị thời thần chuẩn nhất niên.
Thủy ư Phục quái di ư Bác.
Triêu truân, mộ Mông hữu hậu tiền.
Xuân hạ thu đông y thứ đệ.
Luyện chí Khôn cung thủy ngưng kiên.
Bất tu cứu Dịch hành quái khí.
Thân trung tự hữu nhất Khôn Kiền.
Thiên địa nhật nguyệt nhược giao hội.
Đả phá hư không chỉ nhất quyền.
Vũ trụ tạo hóa tại ngô thủ.
Hướng thượng Thiên cơ bất vọng truyền.
Duy nhân chí tôn nhi chí bửu.
Khả luyện kim dịch đại hườn đơn.
Hườn đơn khẩu quyết vô đa tử
Luyện tựu di thân nhập động Thiên.
THÍCH NGHĨA
Càn khôn thác thược cổ hữu số.
Ly khảm đao khuê thể hữu thì.
Công phu Thiền định có hai thời kỳ: Tiểu châu thiên có hạn số,
như giờ tí là 180 Châu thiên, giờ ngọ 120 Châu, giờ mẹo 36 + 12 =
48 Châu, giờ dậu 24+12 = 36. Tộng cộng là 384 Châu. Lại phải văn
võ kiêm dụng cho lứa tuổi trung niên đến thiếu niên. Còn các bậc
Lão thành chỉ dụng văn hỏa mà không dùng võ hỏa.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
81
Càn khôn thác thược là nói về con đường đạo lộ âm dương, Chân
khí thăng giáng tợ như hai ống bể của người thợ rèn.
Châu thiên vận theo đường đạo lộ âm dương, để tấn dương hỏa
thối âm phù, để nối liền hai đường đạo lộ Nhâm đốc, để chiết Khảm
điền Ly, để điều hòa ngoại dược, để tích tụ Chân khí về Đơn điền,
và để hỗ trợ cho Pháp Qui tức và Qui túc.
Ly khảm đao khuê là khí Chân diên và khí Chân hống, là hai Linh
vật vô giá bửu.
Diên long thăng hề, hống hổ giáng
Qui xà thượng hạ lưỡng tương trì
Lời ca tuy nói diên long hống hổ, nhưng đại đa số trong Đơn kinh
lại nói diên thuộc hổ, hống thuộc long, Chúng ta nên theo đại đa số.
Châu thiên vận có bí quyết: Thủy tắc hống đầu diên quật, chung
tắc diên nhập hống gia.
Hải Thiềm Tổ Sư có nói:
Tiên hiền minh lộ đơn đài chỉ.
Kỷ độ Linh ô tác Quế kha.
Linh ô là hống khí, đến ngụ nơi cành quế, là nói đến ngụ nhà của
diên.
Quế kha là cung Trăng, là Khảm nhà của diên.
Qui xà cũng là mượn để nói về diên hống.
Sinh Dương Tổ Sư còn nói:
Dữ quân thuyết phá ngã gia phong.
Thái dương di nhập nguyệt minh trung.
Lời thi nầy cũng không ngoài lời thi của Hải Thiềm Tổ Sư đã nói
ở trên.
Long giáng hổ thăng, là để cùng nhau giao hội, cũng là phương
tấn dương hỏa và thối âm phù. Tấn dương hỏa phải nhờ sức của con
cọp. Thối âm phù phải nhờ sức con rồng.
Thiên thượng nhật đầu địa hạ chuyển
Hải để thiền quyên Thiên thượng phi
Con người hậu thiên sanh tử, Càn trú tại ngôi đầu, Ly chiếm tâm
vị, đều là phần trên của cơ thể, phải chịu vị trí thất chánh. Nay đây
phải ứng dụng về Trung thiên đạo, để làm cho Càn và Lý đắc
chánh, hầu thoát cơ sanh tử, là Ly (mặt nhật) phải giáng xuống hạ
địa để đưa nàng hằng nga là thiền quyên nơi cung trăng lên Trời, để
được gặp Hậu Nghệ là người chồng đã bị xa cách mấy muôn kiếp
rồi.
Chung qui cũng là phương pháp khiến cho diên và hống kết lại
thành một Chân chủng tử.
Càn khôn nhật nguyệt bổn bất vận.
Giai nhân đẩu bỉnh chuyển kỳ cơ.
Chẳng phải Càn Khôn nhật nguyệt không vận hành, nhưng 5/6
thời gian của ngày đêm khí dương của Trời giáng hạ không tới
trung tâm của đất. Còn khí âm của đất thượng thăng không đến
trung tâm của Trời. Vì lẽ đó nên con người hậu thiên phải chịu sự
sanh tử.
May nhờ có 1/6 thời gian là thời Thái cực, nên con người mới
được sống tạm tiếp nối.
Qui luật của vũ trụ hậu thiên là như vậy, hai mạch Nhâm đốc và
hai khí âm dương của Càn và Khôn cũng như vậy. Cho đến các
kinh các mạch trong con người cũng như vậy.
Thánh nhân vì lòng thương đời, nên mới lập ra Càn đạo, tức là
Thiên đạo, trong đó có pháp vận Châu thiên, để làm cho hai thành
phần trong con người là Càn Khôn, Ly Khảm, là âm dương, Tánh
mạng, là Thần khí, v.v.. đều được giao hiệp và hiệp nhất, để giải
thoát cơ sanh tử.
Cơ đẩu bỉnh là nói về người chủ chốt vận hành Châu thiên, tợ như
bánh xe có trục xe.
Nhân tâm nhược dữ Thiên tâm hiệp.
Điên đảo âm dương chỉ phiến thì.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
82
Câu thứ nhất cũng là lý Thiên nhân hiệp nhất. Sở dĩ con người
được cùng Trời hiệp nhất, là do người đó đã đắc Nhất, tức là đắc
Thái cực tánh. Cổ Thánh có nói: Nhân đắc nhất vi đại. Đại đắc Nhất
vi Thiên .. là nói về:
Lòng người đến được cùng lòng Trời hiệp.
Câu thứ hai nói về phương pháp để đạt cơ đắc Nhất, là điên đảo
âm dương.
Con người hậu thiên, Thánh nhân tượng là quẻ Hỏa Thủy Vị Tế, là
lửa ở trên nước ở dưới nên cả hai đều bị hữu lậu sanh tử. Muốn
thoát khỏi sanh tử, phải đem lửa đặt xuống dưới, nước đặt lên trên.
Lửa đun nước thành hơi, cả hai đều vô lậu, là quẻ Thủy Hỏa Ký Tế,
gọi âm dương điên đảo.
Hổ long chiến bãi tam điền tịnh.
Thập thủ huyền châu chủng tại Nê.
Nói là rồng cọp giao chiến, nhưng không giao chiến, mà chỉ là
hiện tượng hiệp nhất của hai thành phần âm dương, Thần khí …
trong con người. Dịch kinh có nói: Long chiễn vu dã kỳ huyết
huyền hoàng. Cũng như Thánh nhân nói: Nhất chiến nhi thiên hạ
bình, Chỉ có một lần âm dương giao chiến, là hiệp nhất về Thái cực,
mà toàn vũ trụ bên trong được thái bình.
Sở dĩ nói giao chiến, còn có một lý nữa là lúc âm dương chưa hiệp
nhất, hai thành phần âm dương trong con người như dương vi sinh
và âm vi sinh thường hay giao chiến với nhau. Nếu dương thắng âm
thì vũ trụ bên trong tạm được thái bình một thời gian. Thời gian này
giống thiện chủng được tăng trưởng, còn giống ác chủng được giảm
thiểu. Ngược lại thì hiện tượng của vũ trụ cũng ngược lại.
Câu thứ hai nói: Sanh tại Khôn cung, chủng tại Càn, là Nê hoàn
cung.
Huỳnh bà mai hiệp nhập trung cung.
Anh nhi, Trạch nữ tương truy tùy.
Huỳnh bà là Chân ý. Công phu Thiền định từ sơ thủy đến chung
thành, đều do Chân ý chấp chưởng và điều hành.
Câu thứ nhất nói mai nhân Huỳnh bà khéo hướng dẫn cho diên và
hống cùng nhau về Trung cung để giao hiệp, cũng là phương phục
qui Thái cực.
Anh nhi là ví dụ cho khí Chân diên.
Trạch nữ là ví dụ cho khí Chân hống.
Tương truy tùy, là cùng dắt nhau về Trung cung.
Sở dĩ diên và hống đều được thành Chân, là do hai thành phần đó
đều được đắc Thái cực tính.
Niên trung dụng nguyệt, nguyệt dụng thì.
Khắc lý công phu diệu cánh kỳ.
Câu thứ nhất nói về trong năm dùng tháng. Lấy một tháng 360 giờ
làm chuẩn cho một năm. Trong mỗi tháng thì dùng ngày, tức mỗi
Ám hiệp đẩu ngưu cọng hoan hội.
Thiên cơ thâm viễn thiểu nhân tri.
Cơ qui nhất âm dương Thần khí về cung Thái cực, đạt được là
điều vui sướng nhất. Thiên cơ qui nhất đó ít người biết được.
Tấn hỏa phanh tiên Thiên địa tủy.
Khai lư mộc dịch thể tinh huy.
Tấn hỏa ở đây không phải là tấn dương hỏa.
Tấn hỏa phanh diên, là dùng Chân hỏa để nung nấu dược vật, gọi
là khử trược lưu thanh, hay là thuần dương hóa dược vật.
Dịch kinh có nói: Quân tử chung nhật, Càn Càn tịch dịch, nhược
lệ vô cửu.
Quân tử là nói về bậc Chân tu, suốt cả ngày đêm chăm lo thuần
dương hóa thân tâm, nếu cố gắng ắt không có lỗi.
Thiên địa tủy: Cũng là diên với hống.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
83
Câu thứ hai là nói về dụng công tịch chiếu, về thâu thị phản thính,
để tích tụ Chân khí được sáng rực.
Cửu hườn thất phản tại phiến hướng.
Chân khí huân chưn đạt tứ chi.
Cửu là số thành của kim. Cửu hườn là phục hườn Chân khí về
cung Thái cực.
Thất là thành số của hỏa. Thất phản là phản phục dương thần về
cung Thái cực.
Tại phiến hướng, là cửu hườn thất phản công phu chừng một khắc.
Câu hai là Chân khí nhờ Chân hỏa huân chưn mà được thấm khắp
tứ chi.
Ôn dưỡng anh nhi duy tá mẫu.
Thủ thành dã chiến yếu phòng nguy.
Chân khí là mẹ của Thần, là nói về công phu nghịch phản.
Còn Chơn thần là mẹ của khí, là nói về qui luật thuận hóa của vũ
trụ hậu thiên.
Châu thiên vận cũng là công phu nghịch chuyển, là vận hóa hậu
thiên sanh tử trở về Tiên thiên bất sanh bất tử.
Ôn dưỡng anh nhi cũng là cơ nghịch hóa, là dùng Tiên thiên Chân
khí nên nói tá mẫu.
Lúc hai thành phần âm dương đã hiệp nhất tức kết thành Chân
chủng tử, tu sĩ cần phải dùng văn hỏa để huân chưn, Chân khí để
bồi dưỡng, tuyệt đối không được dùng võ hỏa, gọi là đề phòng nguy
hiểm.
Nhất thời bát khắc nhất Châu thiên.
Thủy ư Phục quái di ư Bác.
Trong một giờ có tám khắc. Trong mỗi ngày đêm có 100 khắc.
Trong một năm có 36,000 khắc. Lấy một ngày đổi một năm, như
vậy trong mỗi ngày đêm có 360 Châu thiên, cộng với số nhuận dư
đúng 384 Châu thiên theo Dịch số.
Thủy ư Phục quái, chung ư Bác: Câu này nói về sự tiêu hao dương
khí của hạng người hạ đẳng, và hàng Cao nhân tiệm phục dương
khí. Phục từ một dương khí cho đến sáu dương khí, là Thời thừa lục
long dĩ ngự thiên.
Triêu truân, mộ Mông hữu hậu tiền.
Xuân hạ thu đông y thứ đệ.
Tiết này nói về công phu mộc dục vào giờ mẹo và giờ dậu. Triêu
truân là sự gian nan trong giờ mẹo. Mộ Mông là nói về sự mờ mịt
trong giờ dậu. Công phu mộc dục chính yếu là ở hai giờ mẹo dậu,
còn phụ là vận hành. Còn giờ tý và giờ ngọ vận hành là chính, mộc
dục là phụ. Cứ mỗi giờ cho đủ 16 khắc.
Thiền gia có nói: Lục tự Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo
Tây phương.
Lao đàn chỉ: Là nhọc khảy móng tay. Cũng là nói về công phu tịch
chiếu mộc dục. Suốt năm bốn mùa cứ theo đó mà công phu.
Luyện chí Khôn cung thủy ngưng kiên.
Bất tu cứu Dịch hành quái khí.
Tiết này đại ý nói: Luyện cho ba báu về Khôn cung, Chân chủng
tử mới được ngưng kết kiên cố. Lúc nầy công phu thời Tiểu châu
thiên đã viên mãn, nên không hành theo độ số quái khí.
Thân trung tự hữu nhất Khôn Kiền.
Thiên địa nhật nguyệt tự giao hội.
Trong thân con người: Càn là ngôi đầu, Khôn là phần bụng, Chấn
là 2 chân, Tốn là 2 đùi vế, Khảm là 2 tai, Ly là 2 mắt, Cấn là 2 tay,
Đoài là cái miệng.
Quan trọng nhất là Càn với Khôn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
84
Khôn là Đơn điền, là Cốc thần, là ngôi Chí thiện, là nơi sanh Tiên
sanh Phật.
Càn là Thượng đơn điền, là Thiên cung, là Thiên môn, là nơi xuất
nhập Dương thần và chín năm đại định.
Càn cung và Khôn cung là nơi giao hội của Thiên địa, nhật
nguyệt, long hổ, diên hống, âm dương, Thần khí.
Đả phá hư không chỉ nhất quyền.
Vũ trụ tạo hóa tại ngô thủ.
Sự quan tọng nhất của người tu học là học vấn.
Công phu học vấn vốn khó khăn, người tu học phải có chí lớn, đặt
hết lòng Chí thành vào công phu học vấn, mới có thể đạt được Chân
tri, mới có thể cướp máy Thiên cơ, đoạt quyền Tạo hóa, chỉnh định
Càn Khôn, tái tạo dinh hoàn, đả phá hư không, vượt lên trên chín
tầng Trời cao vọi …
Hướng thượng Thiên cơ bất vọng truyền.
Thiên cơ bí mật của phẩm Tối thượng nhất thừa không được
truyền cho kẻ thiếu đức.
Chỉ có nhân vật nào đạo đức được người đời cho là bậc chí tôn chí
bửu thì có thể luyện kim dịch đại hườn đơn đoạt ngôi Chánh giác
được.
Hườn đơn khẩu quyết vô đa tử
Luyện tựu di thân nhập động Thiên.
Trong giới tu hành có mấy ai đắc trọn khẩu quyết hườn đơn, để
luyện thành phương pháp bỏ phàm thân mà nhập vào Thiên động.
---oOo---
5. PHONG HỎA KINH
TRONG HUỆ MẠNG KINH
Hoa Dương tập thuyết Phong hỏa kinh viết:
Tiên Phật thành đạo thị bổn tánh Nguyên thần, bất đắc nguyên tinh
lậu tận, bất năng liễu đạo hườn chí hư vô nhi siêu kiếp vận.
Nguyên tinh lậu tận, bất đắc Phong hỏa, tắc bất năng biến hóa nhi
thành đạo.
Cố viết: Tu luyện toàn bằng Phong hỏa nhĩ. Vãng cổ Thánh chân
cấm nhi bất lộ. Trung cố Thánh chân lược ngôn kỳ thủy, nhi nhân
bất cứu kỳ thủy, vãng vãng sưu tầm kỳ trung, đồ lao tinh lực!
Bất tri Trung cung Châu thiên chi thuyết, hoặc hiển ư Châu thiên
luyện pháp, nhi ẩn ư thể thủ Trung cung; hoặc hiển ư thể thủ Trung
cung, nhi ẩn ư Châu thiên luyện pháp; hoặc hiển ư hỏa nhi bí ư
phong; hoặc hiển ư phong nhi bí ư hỏa; hoặc hữu ngôn chi giản nhi
luận chi tường giả, giai nghi nhất nhất thể luận, bất khả thiển thị dả,
sử đồ lao thất kỳ thiên khiến, thủ tông ư vọng nhân chi khẩu, hà kỳ
du da! Dư viết:
Mích pháp tầm Sư vấn Chánh truyền.
Nhược vô Chân quyết bất thành Tiên.
Cốc tinh hỏa đáo phong xuy hóa.
Tủy khiếu dung thông khí cổ tiên.
Vật cử triều lai Thần phục định.
Tinh cường, tánh liệt, ý hòa khiên.
Thanh dương động lý tu điều luyện.
Lư nội diên phi hỉ tự nhiên.
Ức văn chi Ngọc chi thơ viết:
Nguyên hoàng nhược dả vô giao cấu.
Tranh đắc dương tùng Khảm hạ phi.
Xung Hư Tử viết: Hữu cơ tiên nhất trước, nhi hậu sanh dược dĩ
hành hỏa.
Châu Nguyên Dục nói: Hối sóc chi giao tức hượt tí thời.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
85
Mích nguyên Tử viết: Ngoại thận dục cử chí thời, tức thị thân
trung hượt tí thời.
Du Ngọc Ngô viết: Nội luyện chi đạo chí giản chí dị, duy dục
giáng tâm hỏa nhập ư Đơn điền. Hựu viết: Thận thuộc thủy, tâm
thuộc hỏa, hỏa nhập thủy trung tấc thủy hỏa giao cấu.
Lục Tổ Đàn Kinh viết: Hữu tình lai hạ chủng.
Nguyên Dục viết: Yếu mích Tiên thiên Chân chủng tử, tu cùng
hỗn độn lập căn cơ.
Chánh Dương Tổ sư viết: Nam thần di nhập Bắc thần vị.
Thuần Dương Tổ sư viết: Ngã ngộ trường sinh lý: Thái dương
nhập Thái âm.
Mích Nguyên Tử viết: Thủy tắc hống đầu diên quật.
Hải Thiềm Ông viết:
Tiên hiền minh lộ đơn đài chỉ.
Kỷ độ Linh ô túc Quế kha.
Sinh Dương Tổ sư viết: Dữ quân thuyết phá ngã gia phong. Thái
dương di tại nguyệt minh trung.
Lý Chân nhân viết: Kim đơn đại yếu bất nan tri, diệu tại nhất
dương hạ thủ.
Trùng Dương Tổ sư viết: Thuần âm chi hạ, tu thị dụng hỏa hà
luyện, phương đắc dương khí phát sinh, Thần minh tự lai.
Long My Tử viết: Phong luân kích động sản Chân diên, đô nhân
tịch tịnh hườn sinh động.
Nhập dược cảnh vân: Khỉ Tốn phong, vận Khôn hỏa.
Huỳnh đình kinh viết: Hô hấp nguyên khí dĩ cầu Tiên.
Lý Thanh Am viết: Đắc ngộ Chân truyền, tiên tri hạ thủ, thành
công bất nan, cổ động Tốn phong, phiến khai lư diện.
Lý Đạo Thuần viết: Luyện tinh kỳ tiên dĩ khí nhiếp tinh.
Vô danh Tử viết: Tinh điều khí hầu.
Xung Hư Tử viết: Điều định kỳ cơ; hựu viết: Dược nhược bất tiên
điều, lão noãn vô phân biệt.
Lý Hư Am viết: Man lý du nhan điều ngoại dược.
Xung Hư Tử viết: Điều dao Chân giác tắc đắc Chân khí.
Lăng nghiêm kinh viết: Nguyện lập đạo tràng tiên thủ Tuyết sơn
đại lực bạch ngưu.
Niết bàn kinh viết: Tuyết sơn hữu đại lực bạch ngưu thực phi nhị,
thảo phẩn giai đề hồ.
Thê Vân Tiên sinh viết: Nhân khiết ngũ cốc hóa vi âm tinh, bất
tằng hà luyện, thử vật tại lý diên tác quái. Chỉ dụng Đơn điền tự
nhiên hô hấp chi khí, kỳ khí thượng đằng, huân chưn truyền thấu
nhất thân chi quan khiếu, lưu thông bách mạch, thiêu đắc lý đầu,
Thần hào quỉ khốc. Tương âm tinh luyện tận, âm ma tiêu tán hỉ.
Mích Nguyên Tử viết: Âm tinh giả ngũ cốc ẩm thực chi tinh, cẩu
phi Tốn phong Khôn hỏa mãnh phanh cực luyện thử tinh, tất tại
thân trung tư tưởng dâm dục bát loạn quân tâm. Vụ yếu ngưng
Thần điều tức, sử thác thược cổ phong, nhi phong xuy hỏa phanh
luyện âm tinh hóa nhi vi khí. Kỳ khí hỗn nhập nhất thân chi khí.
Thử khí tái hiệp Tiên thiên chi khí, tái tùng khiếu nội phát xuất nhi
vi dược.
Châu Nguyên Dục viết: Hối sóc chi gian nhật nguyệt tịnh hội Bắc
phương Hư Nguy chi địa. Thiên nhập địa trung, nguyệt bao nhật
nội. Tư thời nhật nguyệt đình luân, phục phản hỗn độn, tự tượng
giao cấu. Cửu nhi tiệm tiệm ngưng tụ. Chấn chi nhất dương nãi
xuất, nhi thọ phù hỉ.
Thử tượng số giả Kim Tiên chứng luận chi diệu quyết Phong hỏa
hóa tinh chi bí cơ, cụ tại tư dư. Nhi kỳ điều dược chi pháp, diệc bất
ngoại thị hi.
Dư Cố viết: Tự thủy hườn hư nhi đại nguyên tinh sanh dĩ Thần
hỏa nhi hóa, dĩ tức phong nhi xuy, dĩ tịch nhi hồn, dĩ động nhi ứng,
dĩ hư nhi dưỡng, tắc điều dược chi pháp đắc hỉ.
Bất văn Thiệu Khương Tiết chi ngôn hồ:
Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa,
Nhân uân Thiên địa sạ hồi triều.
Doãn Chân Nhân viết: Nga khoảnh dưỡng sinh hào khiếu chi thể
như miến, tâm giác hoảng hốt.
Tử Dương Chân nhân viết: Dược vật sinh Nguyên khiếu.
Lục Tổ Đàn Kinh viết: Nhân địa quả hườn sinh.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
86
Thái Sơ Cổ Phật viết: Phân minh động tịnh ưng vô tướng. Bất giác
Long cung hống nhất thinh.
Huyền học Chánh tông viết: Thời chí khí hóa, cơ động lại minh,
hỏa tùng tê hạ phát.
Xung hư Chân nhân viết: Giác nhi bất giác, phục giác Chân
nguyên. Hựu viết: Thể dược qui lư. Hựu viết: Phong cố đình tức, dĩ
phục thần khí.
Ngọc Đảnh Chân Nhân viết: Nhập đảnh nhược vô khắc lậu, Linh
nha bất sinh.
Thượng Dương Tử viết: Ngoại hỏa tuy động nhi hành nội phù, bế
tức bất định, uổng phí Thần công.
Thủ Dương Chân Nhân viết: Khí hỏa luyện dược.
Hỗn Nhiên Tử viết: Hỏa bức kim hành, đương khí hỏa chi sơ, thụ
khí nghi nhu. Hựu viết: Thể thời, tu sĩ bồ hồi chi ý dẫn hỏa bức
kim. Hựu viết: Vận độn Khôn chi hóa trầm tiệm ư hạ.
Hỗn Nhiên Tử viết: Đàn chỉ Tốn hoát thai.
Hỗn Nhiên Tử hựu viết: Cổ ngô chi thác thược, thể dược chi thời
gia võ hỏa chi công, dĩ tánh cán vận ư nội, dĩ mạng thi hóa ư ngoại.
Khưu tổ viết: Thể nhị khí thăng giáng chi tế, nhược bất dĩ ý thủ
Trung cung, dược vật như hà vận đắc chuyển.
Hỗn Nhiên Tử viết: Nội phục Thiên can cán vận, ngoại dụng đẩu
bỉnh thôi thiên.
Hứa Sinh Dương Lão Tổ viết: Xung khai đẩu bỉnh yếu tuần hoàn.
Kim đơn phú vân: Tí thời hà xa túng giá hỏa tiêu kim, nhi Thần
khí bất bại.
Thuần Dương Tổ sư viết: Bằng quân tí hậu ngọ tiền khan.
Nhất mạch Thiên tân tại Tích đoan. Hựu viết: Hàn tuyền lịch lịch
khí miên miên. Thượng thấu Côn lôn hườn Tử phủ. Phù trầm thăng
giáng nhập trung cung.
Quảng Thành Tử viết: Nhân chi phản phúc hô hấp triệt ư đế, nhất
hấp tắc Thiên khí hạ giáng, nhất hô tắc tắc địa khí thượng thăng,
ngã chi Chân khí tương tiếp.
Mích Nguyên Tử viết: Càn khôn hạp tịch, âm dương vận hành chi
cơ, nhất hấp tắc tự hạ nhi thượng tí thăng, nhất hô tắc tự thượng nhi
hạ ngọ giáng.
Thử nhất tức chi thăng giáng.
Xung Hư Tử viết: Đương hấp cơ chi hạp, ngã tắc chuyển nhi chí
Càn, dĩ thăng vi tấn. Đương hô cơ chi tịch, ngã tắc chuyển nhi chí
Khôn, dĩ giáng vi thối.
Tiêu Tử Hư viết: Càn Khôn thác thược cổ hữu số.
Tiết Đạo Quang Thiền Sư viết: Hỏa hầu trục thiêm tư tuyệt trần.
Nhất hào khán quá nhất hào sanh.
Trần Nê Hoàn viết:
Thiên thượng phân minh thập nhị thời,
Nhân gian phân tác luyện đơn trinh.
Nhược ngôn khắc lậu vô bằng tín,
Bất hội huyền cơ dược bất thành.
Chung Ly Tổ Sư viết: Sanh thành hữu số.
Kim Cốc dã nhân viết: Châu thiên tức số vi vi số.
Trần Nê Hoàn viết: Ất dương Phục quái Tý thời sanh Ngọ hậu
nhất âm sinh ư Cẩu, tam thập lục, hựu nhị thập tứ.
Thủ Dương Chân Nhân viết: Tý hành tam thập lục, tích đắc dương
hào nhất bách bát thập số. Ngọ hành nhị thập tứ, hiệp đắc âm hào
nhất bách nhị thập số.
Ngộ Chân chú sơ viết: Tý tấn dương hỏa, tức hỏa vị chi mộc dục.
Ngọ thối âm phù, đình phù vị chi mộc dục.
Tào Hườn Dương Chân Nhân viết: Thập nhị thời trung thời thời
giai hữu dương hỏa âm phù. Phàm tấn tắc viết Tấn dương hỏa,
phàm thối tắc viết: Thối âm phù. Diệc dĩ dương dụng giả viết Hỏa,
dĩ âm dụng giả viết Phù.
Xung Hư Tử viết: Phàm nhất động tắc nhất, luyện nhi châu. Sử cơ
chi động nhi phục động giả, tắc luyện nhi phục luyện, châu nhi
phục châu.
Hựu viết: Tích chi bất quá bách nhật, tắc tinh bất lậu nhi phản khí
hỉ.
Chánh Dương Tổ Sư viết: Quả nhiên bách nhật phòng nguy hiểm.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
87
Tiêu Tử Hư viết: Phòng hỏa hầu chi sai thất, kị mộng mị chi hôn
mê.
Thạch Hạnh Lâm viết: Định lý kiến đơn thành.
Chánh Dương Tổ Sư viết: Đơn thục bất tu hành hỏa hầu. Cánh
hành hỏa hầu tất thương đơn.
Tiêu Tử Hư viết: Thiết kị bất tu hành hỏa hầu. Bất tri chỉ túc tất
khuynh nguy.
Thử giai ngôn Tiểu Châu thiên chi tạo hóa, hỏa đáo thục, chỉ hỏa
chi hầu dã.
Xung hư Chân nhân viết: Hữu chỉ hỏa chi cảnh.
Thủ Dương Chân Nhân viết: Thả dãi kỳ cảnh đáo chi da nhi chỉ,
đại dược tất đắc hỉ. Hựu viết: Sơ luyện tinh thời, đắc cảnh nhi bất
tri mãnh ngật nhất kinh nhi dĩ, nãi tái tịnh nhi cảnh tái chí,
Mãnh tĩnh viết:
Sư ngôn dương chỉ hỏa dã
Khả tích dương diện thác quá.
Hựu tịnh hựu chí, tắc tri chỉ hỏa, dụng thể nhi tức đắc hỉ.
Thị thể chí ư tam chí dã. Kim nhi hậu dương như chi, cập hậu tái
luyện bất ngộ.
Cảnh sơ nhi chí, thất chi tốc. Nhược dãi cảnh chi tứ nhi chỉ, thất
chi trì. Bất tốc bất trì chi trung nhi chỉ hỏa, đắc dược xung quan nhi
điểm hóa Dương thần.
Phàm hữu chân tu Tiên Chân, thiên tân vạn khổ, vạn vạn ban khả
liên.
Luyện thành kim đơn khởi khả khinh hốt, trí linh khuynh nguy tai.
Thử dĩ thượng giai ngôn luyện tinh hóa khí, thành kim đơn chi
nguyên công. Phong hỏa đồng dụng chi diệu chí tận tại tư hỉ.
Dư bất cảm vị thử tập, vi tự luận chi diệu đạo nhiên tắc hội tụy
tiên Thánh chỉ Chân truyền, tức hậu lai vạn kiếp Cao chân dụng
phong dụng hỏa chi căn bản. Sử kiến chi giả tức tự liễu ngộ khế hạp
Tiên Phật chi Chân chỉ, thành kỷ thành nhân, Tiên Phật chi quả
chứng.
CHÚ THÍCH
Tiên Phật thành đạo, thị bổn tánh Nguyên thần, bất đắc
nguyên tinh lậu tận, bất năng liễu đạo, hườn chí hư vô nhi siêu
kiếp vận:
Bổn tánh và Nguyên thần về danh tuy có hai, nhưng nguồn gốc chỉ
có một, Thích gia gọi Tánh, Tiên gia gọi Thần.
Nguyên tinh lậu tận là biệt danh của tu mạng, tức Tiên thiên nhất
khí.
Tiên tu gọi là Luyện tinh hóa khí, lại gọi luyện hình. Phật tu gọi là
Lậu tận thành, lại gọi là Huệ mạng. Chẳng đắc được cái đạo này thì
không siêu được kiếp vận.
Có những người tu hành cũng vượt bậc, nhưng vẫn còn hữu lậu,
tức chỉ được quả Linh quỉ ngũ thông, làm sao khế hạp với diệu đạo
của Như Lai.
Nguyên tinh lậu tận, bất đắc Phong hỏa, tắc bất năng biến hóa
nhi thành đạo:
Nguyên tinh lậu tận tuy có sanh cơ, nếu không đắc Phong hỏa thì
không hóa thành khí.
Hỗn Nhiên Tử nói: Cái khí hô hấp của con người là Phong (gió) tợ
như ống bể của lò rèn, hễ trục động thì sanh gió nơi trong ống bể,
thì lửa nơi lò hừng lên. Công phu lâu ngày thì tâm và hơi thở nương
nhau, Đơn điền thường âm ấm. Ngày nay đa phần người tu không
biết Phong hỏa là gì, nên lậu tận không thành!
Có người nói Thiên đạo đâu có đề cập đến Phong hỏa. Chỉ ngộ
được tánh tức đạt cứu cánh. Lời nói nầy không theo sự thật là nếu
còn tẩu lậu tinh khí, thì khác gì kẻ phàm phu, mà dám nói được cứu
cánh.
Lăng Nghiêm kinh có nói: Dâm thận, dâm tâm và dâm căn chẳng
đoạn được mà nói tu hành khác nào nấu cát trông cơm.
Chỉ vì pháp Phong hỏa của Như Lai vốn thuộc Tâm ấn, nên không
chép nơi kinh thư.
Đức Thế Tôn có nói: Hỏa hỏa dĩ hậu thâu thủ xá lợi. Lại nói: Vi
phong xuy động tắc kỳ trung tự hữu thâm chỉ.
Tu luyện toàn bằng phong hỏa:
Quảng Thành Tử nói: Tức là phong.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
88
Bạch Ngọc Thiềm nói: Hỏa là Thần.
Vãng cổ Thánh chân, cấm nhi bất lộ:
Thiên đình cấm bí: Chân truyền không trao cho kẻ vô đức, mà chỉ
thực truyền cho người có đức, để được siêu thoát kiếp vận.
Trung cổ Thánh chân lược ngôn kỳ thủy, nhi nhơn bất cứu kỳ
thủy, vãng vãng sưu tầm kỳ trung, đồ lao tinh lực.
Thủy là vi dương sơ động, cổ Thánh ẩn mà không lộ, đó là căn
bản của tạo hóa. Người nào hiểu rành về cơ thủy đó, làm sao không
thành.
Cận đại cũng có nhiều người quyết chí tu hành, nhưng không cùng
lý về cơ thủy, nên có sự thể thủ sai lầm, hóa thành luống công!
Bất tri Trung cung Châu thiên chi thuyết, hoặc hiển ư Châu
thiên luyện pháp, nhi ẩn ư thể thủ Trung cung:
Trung cung là cơ sở luyện đơn, là nơi Thiên tâm sở cư. Người nào
hiểu được cơ tiêu tức của trung cung, thì luyện đơn có thể thành
công.
Trung đây không phải là một vị trí ở nơi trong, mà là trung tiêu
tức của Huyền quan. Trung này bao la Càn Khôn, vận hành nhật
nguyệt, Chân chủng do đây mà sinh, thăng giáng do đây mà vận, lư
đảnh do đây mà lập, thác thược do đây mà chuyển, dược vật do đây
mà hóa, Khảm Ly do đây mà hiệp, đẩu bỉnh do đây mà kiên tạo.
Có người biết Trung cung mà không biết Châu thiên, Chân khí
cũng tụ mà tạm tán, làm sao kết thành đơn được.
Xung Hư nói: Chân dược đã qui lư, mà không kịp thời hành hỏa,
thì bị cắt đoạn, và không thành đại dược.
Hoặc hiển ư thể thủ Trung cung, nhi ẩn ư Châu thiên luyện
pháp:
Châu thiên là cơ thăng giáng. Thời đến thì dược sản, rồi từ đất bay
lên trời. Trời là cung Càn, là ngôi đầu của con người.
Sách Âm phù chú giải: Thượng dũng triều nguyên, thông linh với
Dương cung, lại giáng hạ thông với Tốn Khôn.
Khôn nơi con người là cái bụng.
Hỗn Nhiên Tử nói: từ tí đến giờ tị, là thời của mậu thổ, theo Đốc
mạch mà tấn dương hỏa. Còn từ giờ ngọ đến giờ hợi, là thời của kỷ
thổ, theo Nhâm mạch mà thối âm phù.
Có người chỉ biết Châu thiên mà không biết Trung cung, nên bị sai
lầm về hành hỏa, khác gì nước lửa nấu nồi không!
Xung Hư Tử nói: Chân dược chưa qui lư, mà đã hành hỏa, thì
dược sẽ bị ngoại hao, chẳng còn là vật sở hữu của ta nữa.
Hoặc hiển ư hỏa nhi bí ư phong:
Luyện đơn phải nương theo gió để quạt lửa. Phong là hơi thở của
con người. Tốn phong là mẫu khí, là thái thược, là cơ hô hấp của ta.
Hoặc hiển ư phong nhi bí ư hỏa:
Nhược vô Chân quyết bất thành Tiên:
Cầu Sư phải xét kỹ là Chân sư hày tà sư. Nếu gặp sư nào không hề
đề cập đến Phong hỏa, là giả đạo, dù có chí muốn thành Tiên, cũng
không thể nào thành.
Cốc tinh hỏa đáo phong xuy hóa:
Tinh do lửa hóa, lửa do gió hừng. Người đời vì không biết pháp
chế phục, nên loại tinh nầy gây sự hao tổn Thiên mệnh. Chỉ có bậc
trí biết mượn loại tinh nầy để dưỡng thân trợ khí, trong đó có công
phu Phong hỏa.
Tủy khiếu dụng thông khí cổ tiên:
Khiếu đây là Thận phủ. Thận thuộc thủy, Thủy nhờ có hỏa mới
được dung thông.
Sở dĩ phần tinh hoa của con người, đa phần do thận mà hao tán.
Chỉ có bậc trí, đắc được công phu Phong hỏa, mới làm cho loại tinh
nầy được dung thông, mà không hề bi hao tán.
Cổ là nói về Tốn phong.
Vật cử triều lai Thần phục định.
Tình cường tánh liệt ý hòa khiên:
Vật này là nguyên tinh, do nội thận động nên ngoại cử, nếu tâm
không động là Chân dược.
Lúc mới động Chân ý liền chế phục thì dược dễ dàng. Nếu không
biết pháp chế phục, thì trở thành dương tráng, có đặc tính mãnh liệt.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
89
Chỉ là hồi quang phản chiếu, miên miên nhược tồn, khiến cho khí
với Thần hiệp làm một, và hiệp với ý.
Thanh dương động lý tu điều luyện.
Lư nội diên phi hỉ tự nhiên:
Động là Khí huyệt. Lúc điều dược Chân ý phải thường tại, thì tinh
mới được hóa làm khí, tức Chân diên nơi trong tự nhiên chầu về
thượng nguyên.
Nguyên hoàng nhược dã vô giao cấu,
Tranh đắc dương tùng Khảm hạ phi:
Nguyên là Trời, hoàng là đất, tức là Thần khí. Thần với khí không
giao, lấy đâu có dược để thể.
Hữu cơ tiên nhất trước, nhi hậu sanh dược dĩ hành hỏa:
Tiên nhất trước là vi dương sơ động.
Dược sanh phải hành hỏa, tức là hành hỏa Châu thiên.
Hối sóc chi giao, tức hượt tí thời:
Hượt tí thời là thời dương động.
Ngoại thận dục cử chi thời, tức thị thân trung hượt tí thời:
Ngoại thận cử, chẳng phải do niệm mà cử, đó là Chân dược, nên
thể thủ qui lư.
Nếu có niệm mà cử, đó là ảo đơn, không được thể thủ qui lư, mà
chỉ dùng phương nội tán phát bằng tịch chiếu.
Hoa Dương nói: Lúc ngủ mê thì cả thân tâm cũng đều không có tri
giác, thì niệm do đâu mà khởi.
Thận thuộc thủy, tâm thuộc hỏa, hỏa nhập thủy trung, tắc
thủy hỏa giao cấu:
Cổ nhân gọi: Tâm thận chẳng phải Khảm Ly. Thủ bất tri: Tâm
thận là thể của Khảm Ly. Thần khí là cơ dụng của Khảm Ly.
Thận đây là nội thận, chẳng phải loại tích thận.
Cổ nhân nói: Nội thận ở dưới rún.
Tiền thất hậu tam, trung gian lững lờ treo một huyệt. Là cơ sở điều
dược, luyện dược.
Hữu tinh lai hạ chủng:
Có tinh ở đây không phải là loại dục tinh, mà là cái tinh mới manh
động trong nguyên cơ diệu dạo.
Cho nên Long Nha Thiền Sư mới nói:
Nhơn tinh nồng hậu đạo tình si,
Đạo dụng nhơn tinh thế hãn tri.
Không hữu nhơn tinh vô đạo dụng,
Nhơn tinh năng đắc kỷ đa thì.
Nhơn tinh đây là nói về nguyên tinh của con người, người nào còn
nguyên tinh, có thể luyện đơn thành Chánh quả. Nếu người nào tinh
đã hao kiệt, phải chờ kiếp sau.
Còn đạo tinh vốn rất vi diệu, khó nói ra được, chỉ do Tâm lãnh
Thần hội mà thôi.
Chánh đạo vốn dùng loại tinh này, nhưng ít người biết được. Tinh
người phát sinh có lúc, là hượt tí thời.
Yếu mích Tiên thiên Chân chủng tử,
Tu tùng hỗn độn lập căn cơ:
Cổ nhân gọi Chân chủng có nhiều tên: Có khi nói Thần là Chân
chủng tử. Có lúc nói khí là Chân chủng tử. Lại không nói: Chân
chủng tử là lý cha mẹ sở sanh. Cho nên có nhiều người bị lời điên
đảo này mà ngộ nhận.
Nguyên học Chánh tông có nói: thủy là trên dưới giao nhau trộn
lại làm một.
Hỗn độn là hiện tượng Thiên địa hiệp bích, là lúc Thần với khí hội
họp. Nếu muốn tầm Tiên thiên Chân chủng tử, cần phải hiểu rõ về
loại chủng tử của cha mẹ.
Thần khí ví như Thiên địa. Thiên địa là chủng tử của cha me. Thần
nhập vào trong khí là hiện tượng Thiên nhập vào trong địa, tức là
thời hỗn độn. Chân chủng tử do Thần khí sanh. Thần khí nếu không
giao lấy đâu có Chân chủng tử. Đó là căn cơ, nên hiểu rành.
Nam thần di nhập Bắc thần vị:
Nam thần là cung Ly là tâm, là nơi Thần thường ẩn tàng. Bắc thần
là cung Khảm là thận là nơi khí tàng tụ.
Di nhập là Thần nhập Khí huyệt.
Hạnh Lâm Thiền Sư nói: Dĩ Thần qui khí nội, Đơn đạo tự nhiên
thành.
Ngã ngộ trường sinh lý: Thái dương phục Thái âm:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
90
Thủy tắc hống dầu diện quật:
Thiệu Tiên Sinh nói: Diên đắc hống tương thân, là vô trung nhập
hữu. Diên hống không phải vật nào khác, mà là Thần khí của ta.
Lữ Tổ nói: Chẳng dụng diên, không dùng hống, thì lấy gì để hườn
đơn. Cần phải được chủng tử gieo vào lư, là lấy Thần nhập vào khí,
thì tinh khí không hạ lậu, tợ thủy ngân với chì dung chế. Thân tâm
bất động, thì Chân khí trong lò tự sinh.
Lữ Tổ nói: An lư trí đảnh tận châu viên. Tu đắc hống khứ đầu
diên.
Nếu không dùng hống đầu nhập vào diêm, thì diên khí vô sở sinh.
Tiên hiền minh lộ đơn đài chỉ.
Kỷ đổ Linh ô túc Quế kha:
Linh ô ví Thần trong tâm. Quế kha ví khí trong thận.
Huyền học Chánh tông nói: Tâm là nhà của Thần. Thận là phủ của
khí.
Cổ nhân nói: Tâm lấy Khảm làm thể, lấy Ly làm dụng. Cho nên
tâm muốn hư để được lặng yên.
Thận lấy Ly làm thể, lấy Khảm làm dụng. Cho nên Đơn điền
muốn thực mà ôn ôn.
Ly hỏa thượng đằng nên bị tổn hao.
Ly hỏa hạ trụ nên được tăng ích.
Kỷ độ, là phàm dương sinh chẳng nên câu nệ về thời số. Linh ô tá
túc không nên câu nệ thời số. Thời lai là thời gian tá túc.
Tử hư nói: Dạ bán kim ô nhập Quảng hàn.
Dữ quân thuyết phá ngã gia phong.
Thái dương di tại nguyệt minh trung:
Vọng Giang Nam nói:
Nhật tinh nhược dữ nguyệt hoa hiệp.
Thái dương ví thần, nguyệt minh ví khí.
Di tại là Thần khí tương hội. Cổ nhân có nói:
Yếu tri Đại đạo hi vi lý.
Thái dương di nhập nguyệt minh trung.
Kim đơn đại yếu bất nan tri.
Diệu tại nhất dương hạ thủ:
Người tu học thường bị ngộ nhận về văn từ trong Đơn kinh, cũng
không biết được cái lý giản dị, rồi tâm phát hồ đồ, lại gọi Cổ nhân
không nói rõ, khi gặp được Chân sư lại tự cưỡng biện. Nào họ có
biết: Lúc dương sinh là thời khỉ thủ, nếu biết được Thiên cơ nầy
liền hạ thủ, nào còn ngờ vực.
Chân Dương nói: Chân khí Tiên thiên tàng tại Khí huyệt, tuy có
lúc động cũng vốn vô hình, mà là ứng dụng về cơ thủy trình phải
cần biết trước.
Thủ Dương nói: Ngưng Thần nhập Khí huyệt, là Thần khí qui hiệp
trung cung.
Toàn âm chi hạ, tu thị dụng hỏa là luyện phương đắc dương
khí phát sinh, Thần minh tự lai:
Khí âm này do Tiên thiên khôn địa biến ra Khảm hậu thiên, những
người dược vật thiếu kim, nên không lấy gì để thể thủ. Chân nhân
mới bảo: nên dụng hỏa hà luyện, sau đó sẽ có dược để thể.
Xung Hư nói: Có cơ vi dương sơ động mà có dược sinh, phải lo
hành hỏa.
Phong luân kích động sản Chân diên.
Đô nhân tịnh cực hườn sinh động:
Từ đây về sau đều nói về cơ diệu dụng của Phong. Thượng văn
một tiết chuyển nói về diệu pháp của Hỏa. Nhưng về khí hô hấp
chưa nói rõ về lý sở dụng, cho nên Chân nhân mới dạy: Chỉ dụng
hỏa mà không biết dụng phong, thì tinh chẳng hóa khí.
Thê Vân Tiên Sinh nói: Lửa không có gió chẳng hừng.
Bảo Nhất Tử nói: Nếu không có gió, hãy cổ động thác thược, tự
nhiên có gió sinh.
Khí Tốn phong, vận Khôn hỏa:
Tốn phong ví dụ cho cơ hô hấp. Hỏa là nguyên khí. Nguyên khí
nếu không có cơ hô hấp không thể thành dược vật. Là do âm không
có dương nên không tụ lại. Tức phải tồn âm thần trong tâm để chế
ngự cái hỏa dương cương trong thận, với phương pháp miên miên
tức tức qui căn, tức Khôn hỏa tự nhiên vận chuyển. Lại còn sợ
người dụng hỏa hoặc thái quá hoặc bất cập đều có hại, mà phải
dụng văn võ phanh luyện.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
91
Tiêu Tử Hư nói: Có lửa hừng lên, làm cho ấm lại cái lửa lạnh nơi
Khôn cung.
Hô hấp nguyên khí dĩ cầu Tiên:
Cơ hô hấp hệ thuộc hậu thiên.
Nguyên khí là khí Tiên thiên.
Hấp, khí sẽ tự cổ vũ, tự xuy khư, tự quạt phất, tự nghịch chuyển.
Chẳng cần dụng mà tự dụng, có nhọc nhằn gì đâu.
Hỗn Nhiên Tử nói: Thần hô khí, khí qui khiếu nội, rồi thổi ống sáo
không lỗ trong thân ta. Thường được hiểu tại nơi đó, hơi thở không
cần qui căn, mà vẫn qui căn.
Trang Tử nói: Kỳ tức thâm thâm. Lại nói: Chân nhân chi tức dĩ
chủng (gót chân).
Luyện tinh kỳ tiên dĩ khí nhiếp tinh:
Lúc tinh sanh vốn muốn hạ lưu.
Nếu muốn tinh qui nguyên, phải dùng khí chiêu nhiếp, tức không
có cái họa tẩu tiết.
Xung Hư Tử nói: dùng cơ hô hấp hậu thiên, để tầm cơ sở hô hấp
của Chân nhân.
Tinh điều khí hầu:
Điều: Lúc tinh sanh phải dụng điều pháp. Chẳng vậy thì dễ tẩu
tiết.
Tinh khí được kiên cố, không hề tẩu lậu, là căn bản của trường
sinh, đó là sự lầm lẫn rất lớn!.
Điều định kỳ cơ:
Cơ là động cơ của tinh sanh, nếu không điều khí sẽ tiết ngoại, và
dược vật không sinh.
Dược nhược bất tiên điều, lão noãn vô phân biệt:
Lão và noãn là nói về lúc thể dược bị già hay bị non. Có chăm
chăm về công phu điều lúc khí vi dương triền động, là thuốc không
già không non, mới biết để thể thủ qui lư.
Man lý du nhàn điều ngoại dược:
Dược là nguyên khí trong thân ta. Khí nầy tuy tàng tụ tại Khí
huyệt, lúc phát sinh thì hóa ra nguyên tinh và muốn hướng ngoại để
hạ lưu. Nếu để tinh này ngoại lậu, lấy vật gì làm dược vật? Cho nên
phải điều thủ lấy tinh nầy trở về Khí huyệt. Công phu như vậy được
lâu ngày, Thiên cơ sẽ hoạt động.
Chung Ly nói: Lặc dương quan. Đó là nói về chỗ nầy.
Điều đáo Chân giác, tắc đắc Chân khí:
Chân giác là thời khí Thần tri, là bản thể tâm linh bất muội, nên
gọi Chân giác.
Nếu công phu đúng pháp điều luyện, tức tự có cơ tạo hóa phát
hiện ra bên ngoài.
Nguyện lập đạo tràng, tiên thủ Tuyết sơn đại lực bạch ngưu:
Đạo tràng là cơ khí thủ của Thích gia.
Muốn thành Phật, trước phải lo bảo thủ con bạch ngưu nơi Tuyết
sơn, Lăng Nghiêm kinh gọi là ngũ âm.
Tuyết sơn là ví ngũ âm (Sơn Địa Bác) đã không còn âm.
Công phu huân hóa năm âm nầy phải lần lượt.
Cứ hễ huân tiêu được một âm, thì có một dương trở về, Thích gia
gọi tình lai, hay Chân như.
Thái Sơ Cổ Phật nói: Nhất dương phát hiện, chỉ thị minh tâm.
Đại lực là ví Pháp tượng.
Tâm kinh có nói: Có mấy ai biết được Chân tánh. Lúc khoan ra thì
bao tàng cả Pháp giới. Lúc thu hẹp lại không thấy ti hào. Lúc hiển
hiện thì khắp vũ trụ đều có. Lúc ẩn tành thì vô tông tích. Là bổn
nguyên con người.
Thê Vân Tiên sinh nói: Người ăn ngũ cốc hóa thành âm tinh. Nếu
không hà luyện vật này, nó sẽ tác quái bên trong. Chỉ dùng khí hô
hấp tự nhiên thổi động nơi trong Chân hỏa. Lửa ở dưới, nước ở
trên, nước được lửa tự nhiên hóa thành khí, khí nầy thượng đằng,
huân chưn truyền thấu các quan khiếu của cơ thân, lưu thông trăm
mạch.
Chân hỏa thiêu đốt bên trong con người, khiến cho Thần gào quỉ
khốc, âm tinh được luyện tận, âm ma cũng tiêu tán.
Âm tinh là loại tinh do con người ăn uống ngũ cốc. Nếu không
dùng gió Tốn và lửa Khôn để mãnh phanh cực luyện loại tinh nầy,
ắt tư tưởng dâm dục sẽ dấy lên, gây rối loạn quân tâm.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
92
Chủ yếu là ngưng Thần điều tức, khiến cho thác thược cổ động lấy
gió, gió thổi lửa phanh luyện âm tinh thành dương khí, hòa trộn với
khí trong thân. Khí này lại hiệp với khí Tiên thiên. Sau đó khí Tiên
thiên lại từ trong khiếu phát xuất ra làm dược vật.
Châu Nguyên Dục nói: Trong khoảng thời gian của hối sóc thì
nhật nguyệt đều hội, nơi Bắc phương của hai huyệt Hư Nguy.
Đó là Thiên nhập vào trong địa, mặt nguyệt bao lấy mặt nhật. Lúc
nầy nhật nguyệt dừng bánh, trở về cõi hỗn độn, rồi tự tương giao
cấu.
Công phu như vậy được lâu ngày, dần dần ngưng tụ, thì nơi hướng
Chấn có một tiếng phát lên và thọ phù.
Hối là thời gian mặt nguyệt hết ánh quang để ví lúc âm tịnh trong
con người.
Sóc là thời gian mặt nguyệt phát huy ánh sáng, là ví lúc dương
động trong thân con người.
Nhật nguyệt tinh hội là nói về pháp Thần khí đồng cung.
Bắc phương hư nguy là khí huyệt.
Thiên nhập địa trung là ví Thần nhập vào khí.
Nguyệt bao nhật nội là Thần chiêu nhiếp khí.
Nhất dương xuất là lúc dược sản, tức là thời thể thủ thời hầu.
Thọ phù là khí Châu thiên hỏa phù.
Phù còn là biệt danh của tức số.
---*---
Các tiết mục trên đều là diệu quyết của Kim Tiên Chứng Luận, là
bí cơ của Phong hỏa hóa tinh, đều đầy đủ. Còn pháp điều dược
cũng không ngoài các tiết mục trên.
Dư Cố nói: Công phu đầu tiên là hườn hư, để chờ nguyên tinh
sanh, rồi dùng Thần hỏa để hóa, dùng tức phong để thổi. Lấy tịnh
làm hồn nhiên, lấy động làm cảm ứng. Lấy hư tâm để nuôi dưỡng.
Tất sẽ đắc được pháp điều dược.
Thiệu Khương Tiết Tiên sinh có nói:
Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa.
Nguyên khiếu là cơ quan huyền diệu, là cơ sở khí phát, dưới thông
với dương quan, trên thông với Linh đài, sau thông với Đốc mạch,
trước thông với Nhâm mạch.
Nhân địa quả hườn sanh:
Địa: Tiên gia gọi Đơn điền. Thích gia gọi Tịnh độ, Khổ hải. Cũng
đều nói về địa xứ của quả sinh.
Quả hườn sinh, là trước đã được minh về cơ hữu tình lai hạ chủng.
Là phương quả sinh. Quả là Bồ đề tử, là Xá lợi tử. Là do công phu
tích tụ Chân khí lâu ngày dược kết thành đơn, tợ hạt ngọc minh
châu.
Phân minh động tịnh ưng vô tướng,
Bất giác Long cung hông nhất thinh:
Vô tướng: Tiên gia gọi hư vô. Thích gia gọi Chân không.
Linh vật này vốn vô tướng, vì do tịnh định mới sinh.
Long cung là nhân địa. Hông nhất thinh là quả sinh. Cho nên đức
Thế Tôn nói: Kiến minh tinh nhi ngộ đạo.
Nếu biết được cơ nhất thinh, tức Động thủy có thể cùng dòng, Tây
giang có thể hấp (hút), hải thủy có thể gội dầu.
Đàn chỉ Tốn hoát khai:
Đàn chỉ là đột nhiên tri giác. Là lúc phải cực tịnh, tợ như nửa tỉnh
nửa mê để chờ cho cửa Tốn mở hoát, là lúc thể thủ Chân dược.
Thời chí khí hóa, cơ động lại minh, hỏa tùng tê hạ phát:
Thời chí là thời dược sản. Lại minh là Huyền quan có cơ phát
động. Hỏa là khí. Tệ hạ là Đơn điền. Cổ nhân nói: Thời chí Thần
tri.
Tu sĩ nếu không biết được Thời chí, tức sẽ bị lầm lỗi trước mắt.
Giác nhi bất giác, phục giác Chân nguyên:
Giác là tri, bất giác là hồn nhiên. Dương khí vừa mới manh nha, tợ
có thể biết, gọi là Giác.
Dương khí chưa vượng, không nên gấp tấn hỏa. Cho nên lời nói
trên là phục giác Chân nguyên. Nguyên là Chân khí.
Dụng khí hỏa chi hầu thể chi:
Từ đây về sau, nói về khỉ hỏa thể dược qui lư.
Khỉ hỏa là dấy lên khí hô hấp hậu thiên.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
93
Lúc khí Tiên thiên sanh thường đi theo con đường thục lộ, nên
dùng pháp khỉ hỏa để thể Chân khí qui lư. Nhưng loại hỏa hô hấp
vốn từ hữu hình, mà sở dụng lại tợ vô hình. Nếu chấp hữu hình mà
dụng, tức tạo cho tà hỏa trưởng vượng. Quả là hữu, mà hữu như vô,
mới.
Đắc cơ diệu vô trung sanh hữu. Sự ứng dụng về hai khí đúng
pháp, tức dược tự qui lư.
Thể dược qui lư:
Lúc Chân khí phát sinh thường muốn hướng ngoại thận xuất, nên
dùng Chân ý thể thủ qui lư. Chân khí còn nhờ sức của Thần khí, tự
nhiên sẽ theo Chân ý mà qui lư.
Phong cố định tức dĩ phục Thần khí:
Câu nầy nói về Chân dược qui lư để mộc dục và cũng có cơ vận
hành của Châu thiên.
Đảnh là Khí huyệt. Chân khí đã qui đảnh nội, tức phải dùng loại
hỏa khắc lậu để luyện. Nếu không có loại hỏa khắc lậu, thì Linh nha
bất sinh.
Ngoại hỏa tuy động nhi hành nội phù.
Bế tức bất ứng, uổng phí Thần công:
Ngoại hỏa là khí hô hấp, nguyên khí do hô hấp mà dược thể qui
lư. Cũng do hô hấp mà dược luyện. Nhờ đó mà dược trong lư được
biến hóa. Tiên Ông nói: Hỏa tiêu kim mà Thần khí bất bại. Nếu
dược đã qui lư, mà khí hô hấp mới nửa đường quay lại, không ứng
tiếp với khí Tiên thiên, tức dược phải bị hao tán!
Khí hỏa luyện dược:
Khỉ hỏa là dấy động Châu thiên hỏa, vận hành theo 12 ngôi. Thực
vốn không có ngôi vị, chỉ mượn hỏa làm vị. Lại gọi 12 giờ, cũng
không phải giờ, chỉ mượn hỏa làm giờ.
Hỏa bức kim hành, đương khỉ hỏa chi sơ, thọ khí nghi nhu:
Hỏa ở đây là nói về khí hô hấp. Kim là nguyên khí.
Vì kim không được tự thăng, nên mượn hỏa để bức, khiến chi kim
đều chầu về Càn cung.
Lúc mới khỉ hỏa để thể dược qui lư, không được dùng võ hỏa, mà
phải dùng văn hỏa ôn nhu để củ dụ cho dược qui lư. Sau đó mới
dùng võ hỏa thể thủ cho đến lúc không còn dạng triền cơ mới hoàn
tất công phu thể dược.
Thể thời tu dĩ bồi hồi chi ý dẫn hỏa bức kim:
Bồi hồi là Chân ý vãng lai hoạt động. Dẫn hỏa là pháp Thần kêu
gọi khí.
Bức là thôi thúc. Thượng văn chỉ nói hô hấp để làm sở dụng cho
Chân khí, nhưng chưa hiển minh về sở dụng cho Chân khí.
Người chỉ biết sở dụng ở hai khí, nhưng không biết Thần là chủ
của hai khí. Chính ở thể dược và luyện dược, đều nhờ Thần của Khí
huyệt quyền ngự hai khí, Chân ý bồi hồi thì kim tự vận hành. Lời
văn ở trước có nói: Thần hô khí, khí qui khiếu nội, thổi ống sáo
không lỗ trong thân ta.
Vận động Khôn chi hỏa, trầm tiềm ư hạ:
Khôn là lư, hỏa là nguyên khí.
Lúc vận động Khôn hỏa vãng hạ để chu hành, là thông lên Đốc
mạch là tấn. Nếu đi con đường khác thì không lên được Càn đảnh,
và dược sẽ bị hao tán.
Nói về hỏa, có khỉ hỏa, dẫn hỏa, hỏa bức, hành hỏa, chỉ hỏa đều là
các loại hỏa của khí hô hấp.
Còn có ngưng hỏa, nhập hỏa, giáng hỏa, dĩ hỏa, di hỏa, Ly hỏa,
tâm hỏa, đều thuộc các loại hỏa của Thần.
Còn vận hỏa, thủ hỏa, đề hỏa, Khôn hỏa, Khảm hỏa, thủy trung
hỏa, Lư trung hỏa, đều là các loại hỏa thuộc Tiên thiên khí.
Phàm loại hỏa hô hấp, thường hóa loại cốc tinh của ẩm thực, để
trợ nguyên tinh.
Còn Thần hỏa thường huân hóa nguyên tinh để trở cho nguyên
khí.
Cổ nhân có nói: Nhất hạp nhất tịch vị chi biến. Là biết được sự
biết thông vốn vô cùng.
Thác thược sao lại tương tợ ngưu xa thủy vận hành một loại, vốn
đồng tiêu tức mà không đồng đường. Nếu đồng đường thì không
phải thác thược.
Lại như loại gió trong hòm, thì đồng hòm mà không đồng gió. Nếu
đồng gió thì không được vận chuyển. Lấy cái gió trong hòm ám
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
94
tàng nơi hòm con, là loại gió hướng về lư, thiệt là loại gió của hòm
con, chẳng phải loại gió của hòm mẹ, thực từ vô trung sanh xuất.
Còn loại nước của thủy xa, cùng với loại gió của hòm con, là ví loại
khí Tiên thiên. Ngưu xa cùng với hai tay của người thợ, là loại gió
trục động đó là ví loại khí hậu thiên.
Hòm con ví nguyên quan. Tiêu tức ví như hai loại trục gió, tức là
cơ quan của hai khí Tiên hậu. Loại gió của tử sương (hòm con) nếu
không có gió trục động, tức không thể não xuy khư dược. Còn loại
xe thủy xa (I), thì nước của thủy xa làm sao chuyển vận lên được,
(I) nếu không có trâu. Cho đến xe và hòm, nếu không có trâu và tay
thợ, thì nước với gió lấy đâu mà thổi mà vận. Võ hỏa là thiệt dược
vật đã từng hành động. Cho nên cơ tiêu tức hỏa của thác thược là để
ứng hiệp với độ số của khắc lậu. Nếu chỉ chuyên dụng văn hỏa, thì
dược vật không thể vận hành, Chân khí cũng hao tán!
Nội là trung cung. Luyện dược hành phù, chủ yếu là tánh chủ lập
nơi trung cung, và làm chủ tể cho cơ cán vận bức tẩu, tức thủy hỏa
mới theo ngoại đạo lộ mà thăng giáng.
Lại bên ngoài phải mượn nguyên khí của mạng để thi hóa, thì
mạch lạc mới được khai thơ sướng khoái. Nội ngoại dung thông tự
nhiên mạng nghe theo tánh, tánh bảo trì mạng.
Thể nhị khí thăng giáng chi tế, ngược bất dĩ ý thủ trung cung,
dược vật như hà vận đắc chuyển:
Nhị khí là Tiên thiên khí và hậu thiên khí. Tiên thiên khí nếu
không được khí hậu thiên, thì chẳng được chiêu nhiếp chuyển vận.
Còn khí hậu thiên nếu không được Tiên thiên cũng không có chỗ để
thi công.
Xung Hư nói: Về khí có hai sở dụng của Tiên hậu. Trong khoảng
thăng giáng nơi trung cung nếu không có Chân ý chủ tể thì dược vật
không thể vận chuyển được.
Nội phục Thiên can cán vận, ngoại dụng đẩu bỉnh thôi thiên:
Đẩu bỉnh di chuyển bên ngoài, mà Thiên tâm không lìa thường xứ.
Nếu lấy nội phục Thiên can, mà bên ngoài không thôi thúc đẩu
bỉnh, mà bên trong không tàng phục Thiên can, tức Chân chủng
không kết.
Thiền cơ phú có câu: Thiền chủ đẩu bỉnh, kính minh tinh nhi hồi
triền.
Xung khai đẩu ngưu yếu tuần hoàn:
Đẩu ngưu là huyệt hư nguy. Đẩu ngưu đã khai thì dùng pháp thăng
giáng để vận.
Xung Hư Tử nói: Hành số dương hành.
Hỗn Nhiên Tử nói: Chân diên gặp thời Quí sanh, phải nên cổ động
Tốn phong quạt hừng lư hỏa, vận động loại hỏa lặng chìm dưới
cung Khôn, trục thành phần dương trong Khảm ra, để bổ vào phần
âm của Ly, cho Ly trở lại thành Càn, cho Khảm trở lại thành Khôn,
như thuở Tiên thiên bất sanh bất tử.
Bằng quân tí hậu ngọ tiền khan,
Nhất mạch Thiên tân tại Tích đoan.
Tí hậu là âm phù. Ngọ tiền là dương hỏa. Nhất mạch là một con
đường vận hành Châu thiên. Lúc hành hỏa Thần khí phải đi theo
con đường nầy mà vận chuyển.
Tử hư nói: Kỷ hồi tiếu chí Côn sơn thượng. Giáp tích phân minh
hữu lộ thông.
Du Ngọc Ngô nói: Nguyên hải dương hòa động, hàn tuyền khí
mạch thông.
Thần khí nếu đi lạc đường, thì đạo lộ nầy cũng bất thành. Có lúc
Thần không biết đến khí. Có khi khí cũng chẳng theo Thần. Cứ
không không hà luyện, tức kim đơn bất thành.
Thủ Dương nói: Có hai loại vi ý tương tri.
Hàn tuyền lịch lịch khí miên miên.
Thượng thấu Côn lon hườn Tử phủ.
Phù trầm thăng giáng nhập Trung cung.
Viên Thông Thiền Sư nói: Quần âm bác (gọt) tận, nhất dương
phục sinh. Dục thức Thiên địa chi tâm, tu thức thừa âm chi pháp.
Hàn là nói về hiện tượng của cung Khôn.
Tuyền là Khảm thủy. Đều ví dụ thủy trong thận.
Công phu nơi thận thủy nếu đúng pháp, tự nhiên có hiện tượng
như nước rỉ rỉ mãi, là thời Chân dương khí sở sản.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
95
Tổ sư dạy: Công phu hành hỏa, trên phải đến Côn lôn, dưới phải
đến Tử phủ. Có thăng là phù, có giáng là trầm, cuối cùng cũng phải
qui nhập về Trung cung.
Nhơn chi phản phúc hô hấp triệt ư đế, nhất hấp tắc thiên khí
hạ giáng, nhất hô tắc địa khí thượng thăng, ngã chi Chân khí
tương tiếp dã:
Hấp giáng hô thăng, là cơ hoạt động của hai khí Tiên hậu. Nhưng
hậu thiên khí hấp thì Tiên thiên khí thăng, là thăng lên Càn cung,
cũng gọi thể thủ. Hậu thiên khí hô thì Tiên thiên khí giáng, là giáng
xuống Khôn cung, cũng gọi là phanh luyện. Nếu theo khí hô hấp
của mũi miệng, tức bị cách xa Chân khí Tiên thiên.
Càn Khôn hạp tịch, âm dương vận hành chi cơ, nhất hấp tắc
tự hạ nhi thượng Tí thăng, nhất hô tắc tự thượng nhi hạ Ngọ
giáng. Thử nhất tức chi thăng giáng dã.
Tiết này nói về cơ tiêu tức của hai khí Tiên thiên và hậu thiên. Hạp
tịch là nguyên cơ hô hấp của nội ngoại. Khí của ngoại diên giáng,
thì khí của bên trong thăng. Còn khí bên ngoài thăng, tức khí bên
trong giáng. Đó là bí cơ của Châu thiên, kể phàm phu làm sao biết
được. Cho nên Tiên Ông mới nói: Nếu như bọn mê đều thành đạo,
Thiên hạ Thần Tiên đi chật đường.
Thái Sơ Cổ Phật có bài:
Nhất phiến Đông hề, nhất phiến Tây,
Lưỡng đầu động xứ kỷ nhân tri.
Xuất hữu nhập vô chân tạo hóa,
Thần khí tương đầu thấu Tổ cơ.
Cần phải tiềm thần nơi trong, để chế ngự cơ vãng lai của hô hấp,
trên phải đến Nê hoàn, dưới phải đến Mệnh môn, khiến cho ngũ
hành điên đảo vận chuyển bên trong. Đó là Châu thiên nội ngoại cơ
động.
Đương hấp chi cơ hạp, ngã tắc chuyển nhi chí Càn, dĩ thăng vi
tấn. Đương hô cơ chi tịch, ngã tắc chuyển nhi chí Khôn, dĩ
giáng vi thối:
Cơ hấp của hạp vốn là hạ giáng, nhưng về cơ bên trong lại thượng
thăng. Thượng là từ hạ nhi thượng thăng lên Càn là tấn hỏa, là thể
thủ.
Còn hô cơ của tịnh vốn là trên nhưng cơ của bên trong lại giáng
hạ, giáng đến Khôn là thối âm phù, là phanh luyện. Đó là cơ hạp
tịch nội ngoại.
Càn Khôn thác thược cổ hữu số:
Từ đây về sau nói về tức số của Châu thiên.
Càn khôn là định vị của Thiên địa.
Thác thược là tiêu tức cổ vũ Tốn phong.
Chân khí không được phản phục nơi Càn khôn, nên phải dùng
pháp vi lai của thác thược, để xuy khư cho Chân khí vận hành.
Càn khôn là thể của thác thược.
Ly khảm là dụng của thác thược.
Cho nên Càn hô lại hấp đến Khôn. Khôn hấp lại hô đến Càn.
Càn khôn là thể của Khảm Ly. Nội hô hấp tức là sở dụng của Ly
Khảm.
Nếu người nào được minh về cơ nội hô hấp, thì thác thược tự cổ
vũ, Càn Khôn tự vận hành.
Số là độ số của âm dương thăng giáng. Là mượn tức số của hô
hấp, để định diệp số của quái hào.
Hỏa hầu trục thiêm tư tuyệt trần.
Nhất hào khán quá nhất hào sinh.
Trục thiêm là Chân khí thượng thăng hạ giáng.
Tuyệt trần là lúc lâm cơ, hiện tượng ảo hóa đột nhiên chấm dứt,
Chân ngã không lìa khí.
Hào quá hào sinh, là ví dụ miên miên bất đoạn.
Thủ Dương nói: Tùy cơ mặc vận nhập huyền huyền. Hô hấp phân
minh liễu khước Tiên.
Thiên thượng phân minh thập nhị thời.
Nhân gian phân tác luyện Đơn trình.
Nhược ngôn khắc lậu vô bằng tín.
Bất hội Huyền cơ dược bất thành.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
96
Trên trời có 12 chi thần vị. Luyện đơn cũng có 12 giờ hỏa hầu.
Cho nên sáu dương dụng tấn, sáu âm dụng thối. Trình là mỗi giờ có
định số nhất định. Nếu nói không dùng cơ khắc lậu của tức số, tức
thuộc bàng môn ngoại đạo, chẳng phải kim đơn. Dẫu cho cơ thăng
giáng cưỡng chế, cũng không thành đại dược. Còn không dùng
Châu thiên độ số, thì lấy gì để làm Châu thiên, trí giả mới hiểu rõ
được cơ khắc lậu. Còn kẻ mê không thể hiểu được.
Sanh thành hữu số:
Có số, là Càn dụng cửu, Khôn dụng lục.
Châu thiên tức số vi vi số:
Châu thiên là cơ vãng lai phản phúc.
Tam thập lục hựu nhi thập tứ:
Từ Tí đến giờ Tị là sáu giờ dương, dương hạp với Càn, nên dùng
Càn hào Càn sách.
Càn hào dụng cửu, nhân cho bốn là 36.
Còn giờ ngọ đến giờ hợi là sáu giờ âm, âm hạp với Khôn, nên
dụng Khôn hào Khôn sách. Khôn hào dụng lục, nhân cho bốn thành
24.
Còn giờ tí thuộc Càn sách: 9x4x5+4x6 : 216 – mẹo mộc dục: 36
còn lại: 180 Châu thiên. Giờ ngọ thuộc Khôn sách: 6x4x5-24 dậu
mộc dục, còn: 120 Châu thiên.
180+120+36+24 : 360 Châu thiên.
360+24 nhuận dư số: 384 Châu thiên.
Tí hành 36, tích đắc dương hào 180 số.
Ngọ hành 24, hiệp đắc âm hào 120 số.
Đã giải thích ở trên
Tí tấn dương hỏa, tức hỏa, vị chi mộc dục.
Ngọ thối âm phù, đình phù, vị chi mộc dục.
Tức hỏa, đình phù, là chấm dứt võ hỏa, là đình chỉ tấn hỏa thối
phù thuộc cơ hữu tác.
Cơ mộc dục là: Song mâu trực chiếu Huyền quan. Chân ý cũng
không lìa khiếu nầy.
Thập nhị thời trung, thời thời giải hữu dương hỏa âm phù.
Phàm tấn tắc viết: Tấn dương hỏa, phàm thối tắc viết: Thối âm
phù. Diệc dĩ dương dụng giả viết: Hỏa, dĩ âm dụng giả viết:
Phù.
12 giờ là thời gian vận Châu thiên. Cơ tấn và cơ thối đều có dương
hỏa âm phù.
Lúc vận hỏa, hậu thiên khí tấn gọi là dương hỏa.
Lúc hậu thiên khí thối gọi là âm phù.
Phàm nhất động tắc nhất luyện nhi châu, sử cơ chi động nhi
phục động giả, tắc luyện nhi phục luyện, châu nhi phục châu.
Có khí động phải luyện, thì hỏa Châu thiên mới dung dị và ngưng
chỉ. Nếu không luyện thì loại hỏa nầy không được nhanh chóng
ngừng chỉ, và đại dược cũng chẳng phát sinh.
Tích chi bất quá bách nhật, tắc tinh bất lậu nhi phản khí.
Trăm ngày chỉ là thời số ước lược. Lâu hay mau tùy thuộc đối
tượng và tâm lực.
Quả nhiên bách nhật phùng nguy hiểm:
Có sự nguy hiểm là thời chí mà Thần bất tri, tức tinh khí sẽ tẩu
lậu!
Có người không rành pháp khỉ hỏa.
Có người lúc dụng công bị hôn trầm.
Có người đúng lúc tấn hỏa mà không tấn, thối cũng không thối,
mộc dục cũng không mộc dục, chỉ hỏa cũng không chỉ, qui căn
cũng chẳng qui. Cả thẩy đều lỗi lầm với cơ tạo hóa.
Phòng hỏa hầu chi sai thất.
Kị mộng mị chi hôn mê.
Sai thất là do người tu học chưa đặt trọng lòng Chí thành, công
phu không được chuyên cần tinh tấn. Linh đài nếu được tinh khiết,
hỏa hầu minh bạch, như vậy làm sao sai thất.
Chánh lý chưa minh, lòng chưa chuyên chú, nên có sự sai thất.
Được như vậy, làm gì có mộng mị hôn mê.
Định lý kiến đơn thành:
Chân khí được sung mãn thì đơn sẽ thành. Ngoại thận bất cử, là đã
đạt được Qui túc, và có đơn quang thượng dũng, nên thấy được.
Đơn thục bất tu hành hỏa hầu.
Cánh hành hỏa hầu tất thương đơn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
97
Lúc đơn đã thục, là lúc Chân xá lợi đã kết, phải lập tức chấm dứt
võ hỏa. Nếu còn dùng võ hỏa thì xá lợi bị tán thất.
Thiết kị bất tu hành hỏa hầu:
Bất tri chỉ túc tất khuynh nguy:
Luyện đơn, nếu không biết chỉ túc, tức khuynh nguy. Sự nguy
hiểm có nhiều, quan trọng là xá lợi đã kết mà còn dùng võ hỏa.
Thử giai ngôn Tiểu châu thiên tạo hóa, hỏa đấo, đơn thục, chỉ
hỏa chi hầu.
Chỉ là không còn vận hành thăng giáng.
Tuy không vận hành thăng giáng, nhưng không được một thời
khắc lìa hỏa, thường thường dùng ôn hỏa để huân chưn. Lìa hỏa thì
đơn tự tẩu!
Hữu chỉ hỏa chi cảnh:
Chỉ hỏa là thời thể thủ đại dược. Cần phải cầu Chân sư khẩu
truyền, mới được xuất lư.
Cảnh đại dược thành, là từ nơi rún đến trung gian hai con mắt có
một luồng bạch quang, phòng tối có ánh sáng trắng.
Chờ cho cảnh đến dương quang tam hiện, thì thể đại dược rồi quá
quá quan, tức sẽ được thành công.
Lúc sơ luyện tinh, đã đắc cảnh mà không biết để phục thực, cho
nên phải tái tục Thiền định, đề chờ cảnh lại đến, và phát tâm dũng
mãnh:Thầy ta dạy nên chỉ hỏa vào lúc này.
Nếu sai lầm là điều đáng tiếc!
Cứ mỗi lần sai lầm lại phải thêm một lần tịnh, tức sẽ có cảnh đến
nữa, và lập tức chỉ hỏa, rồi thể đại dược ắt thành công.
Thể đại dược phải chờ cho đúng cảnh thứ ba đến. Nếu cảnh mới
đến lần thứ nhất, hay lần thứ hai mà vội thể, là điều lầm về dục tốc.
Nếu chờ cho cảnh đến lần thứ tư, là điều sai lầm về trì hưỡn.
Chẳng được dục tốc, cũng không được trì hưỡn mà chỉ hỏa, tức
đắc dược xung quan để điểm hóa Dương thần.
Những vị tu hành chân chánh phải chịu ngàn cay trăm đắng, vô số
khổ, thật đáng thương.
Luyện thành kim đơn nếu có khinh thường ắt phải khuynh nguy!
Từ đây về trước, đều nói về Huyền công luyện tinh hóa khí thành
kim đơn, và nói về diệu chỉ của Phong hỏa đồng dụng đã nói đầy
đủ.
Ta không dám nói tập này là diệu đạo tự luận, vì ta chỉ tập họp
Chân truyền của các vị Thánh trước, mà làm thành bài kinh nầy.
Về sau các vị Cao chân quán suốt bài kinh nầy, rồi dụng phong
dụng hỏa về phần căn bản, đều được thấy biết rõ ràng, và tự liễu
ngộ, khế hạp với Chân chỉ của Phật Tiên, cùng thành kỷ thành
nhơn, chứng quả Tiên Phật.
---oOo---
6. PHONG HỎA LUYỆN TINH PHÚ
Luyện giả tạo hóa chi công;
Tinh giả biến hóa chi nguyên.
Hỏa nhân phong nhi điểm chước;
Tinh đắc hảo dĩ dung diên.
Lặc dương quan vi chi điều dược;
Nhiếp khí qui tức thị hườn nguyên.
Sát kỳ cơ, hà cốc tinh nhi diều biển;
Biện kỳ hầu, vận bạch mạch dĩ quy nguyên.
Hội kỳ nguyên tắc Thần khí tương y;
Cổ kỳ phong tắc Chân tinh triều nguyên.
Phù tinh giã nãi: Thiên địa chi nguyên;
Tạo hóa chi bản.
Phùng thời tiết nhi triền cơ;
Động đắc hỏa dĩ tư luyến.
Đạt quan khiếu nhi lưu biến;
Tiết xuy phong tắc hườn hồ.
Thị cố:
Khảm cung sum bố, Nguyên thần nhiếp nhi bồi hồi;
Ly cung thác thược, Chân khí triền nhi vận chuyển.
Lư nội hỏa bức, bạch hổ triều ư Linh đài;
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
98
Đảnh trung thủy dung, thanh long du ư thâm uyên.
Dương quan cấm bế; Nguyên khiếu môn khai.
Quả nhiên phong hỏa ký đồng lư;
Cửu nhiên thủy noãn tự sinh hà.
Nguyệt hoa thổ tắc hống dẫn diên, nhi diên dẫn hống;
Nhật tinh xạ tắc xà giao qui, nhi qui giao xà.
Bổn vô danh nhi dụ danh.
Tri kỳ thời giả, năng đoạt Thiên địa chi Chân khí;
Thuận kỳ cơ giả, tức hữu thăng giáng chi pháp trình.
Huân chi luyện chi, tắc siêu phàm nhi nhập Thánh phẩm;
Thực chi đàn chi, hóa khô cốt nhi đăng Thái thanh.
Ta hồ kim chi học giả!
Bôn sơn quá hải, thản thản chi đại lộ thiên quá;
Lao hình ngột tọa, hích hích chi minh châu thao phồn.
Lợi trì nhi danh mạn; Đức bạt nhi cấu trùng.
Thức tánh dĩ vọng đàm; Khử chánh nhi qui tà.
Bỉ phù: Đạo bổn chí cận; Tình cách diêu thiên.
Lý tự bất hườn; Tánh tư di Đạo.
Thù bất tri: Tinh giả khí chi dung;
Phong giả tức chi nguyên.
Hỏa giả Thần chi linh; Luyện giả hội chi đàn.
Dĩ phong nhi phiến hỏa, tắc lão hườn thiểu nhi hình thường tồn.
Dĩ khí nhi lưu Thần, dĩ Thần vận tức, tắc tình phục tánh.
Nhi Thần tự hườn.
Tự nhiên khả dữ Xích Tòng, Bành Tổ chi ưu tông.
TẠM DỊCH:
Công tạo hóa luyện thành bất tử;
Cội nguyên tinh biến hóa âm dương.
Lửa kia nhờ gió mới phô trương;
Tinh kia nhờ lửa huân chưn diên hòa.
Đóng dương quan gọi là điều dược;
Thâu khí về ấy chước hườn nguyên.
Lửa kia nhờ gió mới phô trương;
Tinh kia nhờ lửa huân chưn diên hòa.
Đóng dương quan gọi là điều dược;
Thâu khí về ấy chước hườn nguyên.
Xét rõ cơ, đốt cốc tinh mà vận chuyển.
Phân biệt hầu, vận Chân khí để qui nguyên.
Hiểu cội nguồn, Thần khí mới giao duyên.
Cổ động gió, Chân tinh về triều Tổ.
Tinh vốn là: Cội nguồn của Trời đất;
Căn bản của Tạo công.
Gặp thời tiết, Chân dương mới xoay chuyển.
Động đắc hảo, Chân tinh thành lưu luyến.
Thông quan khiếu là do công nấu luyện.
Cổ Tốn phong mà Chân dược qui Lư.
Nơi Khảm cung, Chân khí đã tràn đầy,
Chân ý vãng lai mà thâu nhiếp.
Chốn Lư hỏa, Thần hóa đạt hư không,
Nguyên khí triền xoay theo vận chuyển.
Trong lư lửa bức, bạch hổ về Ly cung.
Nơi đảnh nước ấm, thanh long qui Khảm vị.
Dương quan cấm bế; Quan khiếu mới khai.
Quả nhiên phong hỏa đã đồng lư.
Lâu ngày nước nóng bốc thành khói.
Trăng nhả hoa, thì hống dẫn diên và diên dẫn hống. Mặt trời lên, thì
xà giao qui và qui giao xà.
Tạo hóa đã biến thiên, tịnh mà chờ động.
Thuốc báu có già non, chờ Thiên cơ nghe lệnh.
Cơ Thái cực mới dấy, lấy mê tỉnh đón nghinh.
Từ vô khí có khí, vốn không tên mà có tên.
Than ôi! Các học giả ngày nay.
Vượt núi băng sống, thỏa mãn theo nẻo vạy cô thiên.
Lao thân ngồi cứng, kiêu hãnh tưởng đã có minh châu.
Luông tuồng theo nẻo lợi, đắm đuối với đường danh.
Công đức lại mỏng manh, lại mê sa trần cấu!
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
99
Lấy thức tánh để quấy luận đàm.
Bỏ đường chánh lại theo nẻo vạy!
Kìa kìa! Đạo vốn rất gần; Tình cách dời xa.
Lý lại chẳng theo Chân; Tánh dối Trời ngang trái.
Thù bất tri: Tinh do khí hóa ra
Gió là nguồn hơi thở.
Lửa ấy là Thần linh; Luyện đem về hiệp nhất.
Lấy gió để quạt lửa, thì già hóa trẻ, mà hình thường còn. Lấy khí
lưu Thần vận khí, thì tinh trở lại tánh.
Luyện được như vậy thì Thần thuần dương.
Tự nhiên cùng với Xích Tòng và Bành Tổ kết nên dòng qui.
---oOo---
Chương Mười Ba
CƠ TỊCH CHIẾU
Ngộ Chân trực chỉ có bài:
Thố kê chi nguyệt cập kỳ thì
Hình đức lâm môn dược tượng chi.
Đáo thử kim đơn nghi mộc dục
Nhược hườn gia hỏa tất khuynh nguy
Tháng mẹo Xuân phân, khí dương thăng lên vào chỗ trung của
Trời đất.
Tháng dậu Thu phân, khí âm cũng xông lên chỗ trung của Trời
đất.
Xuân phân thuộc mộc, sinh khí, là đức.
Thu phân thuộc kim, sát khí, là hình đức.
Đức là cơ năng sanh vật, hình là cơ năng thành vật. Chẳng có hình
thì không thành đức. Chẳng có đức thì lấy gì toàn thành cho hình.
Có hình có đức, thì Thiên địa tạo hóa, mới đắc dược nhất khí rồi
lưu hành tuần hoàn không có lúc ngừng nghỉ.
Công phu tu luyện là dùng dương cương của Chân tri qui về trung
chánh, như Thu phân vậy.
Còn dùng âm nhu của Linh tri qui về trung chánh, như Xuân phân
vậy.
Chân tri và Linh tri đều qui về ngôi trung chánh, như Xuân phân là
đức như Thu phân là hình.
Cương kiện là đặc tính của Chân tri, có đặc năng chế ngự tà khí
của nhơn tâm. Còn nhu thuận của Linh tri là để nuôi dưỡng Chánh
khí của đạo tâm. Cần nên cương phải cương, Cần nên nhu phải nhu.
Chẳng sai thất về thời, thì cương nhu mới đắc trung chánh, như
Xuân …
Cương nhu như một, thì Chân linh không tán thất. Xuân đức, thu
hình, hai hiện tượng cùng vận chuyển và thay đổi nhau, nên nói:
Hình đức lâm môn dược tượng chi.
Đạo mà cương nhu đắc trung chánh, thì đạo tâm thường tồn, thì
nhân tâm chí tịnh.
Chân tri chí linh, Linh tri chí chân, thì Chân linh hiệp nhất, thì
Lương tri Lương năng thị hiện, kim đơn có tượng, mới có thể dùng
mộc dục để ôn dưỡng, ví như đáy bếp đã rút củi.
Chẳng hành đúng như vậy, vì không biết chỉ túc, mà còn gia hỏa
hà luyện, tức cương bị thái quá, còn nhu lại bị bất cập. Cương nhu
không đắc trung đắc chánh, khiến không khỏi cái nạn khuynh nguy
là dược khô, đơn bị tổn thương.
---*---
Lại có bài: 1. HỎA PHÙ ÔN DƯỠNG:
Lúc đã đắc đại đơn vẫn còn dùng dương hỏa, âm phù, mai chiều
trục thiêm. Là trục khí diên để thêm vào cho hống, gọi là : Chiết
Khảm điền Ly.
Trong đó có cơ vận hành điên đảo, nhưng phải biết về phù trầm,
về điều hòa thủy hỏa, về phân biệt quí nhâm, đại khái cùng với Trúc
cơ tương đồng, và giữ cho Chân khí được sung mãn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
100
Càng phải mười phần cẩn thận. Nếu có âm ninh dương kiêu, dục
vọng tạo tác không phải thời, tức sẽ bị cái họa tẩu đảnh phanh lư.
Cho nên mới nói: Trục thiêm vận dụng thiết phòng nguy.
Lại còn sợ sai thất về văn hỏa và võ hỏa. Là lúc chưa đắc đại dược
thì còn dùng võ hỏa. Lúc đã đắc đại dược tuyệt đối không dùng võ
hỏa.
Cũng như về dụng công còn lầm lẫn về thủy hỏa khiến nên có cái
họa mùa đông thì hạn, mùa hạ thì xuống tuyết. Cho nên nói: Hào
phát sai thù bất kết đơn.
---*---
Lại có bài 2.- NGƯNG THẦN ĐỊNH TỨC:
Sách Tham Đồng Khế nói: Nội dĩ dưỡng kỷ, an tịnh hư vô.
Là lời nói của đức Lão Tử: Trí hư cực, thủ tịnh đốc.
Muốn được hư tịnh, cần phải tâm tức tương y.
Tiết yếu thiên nói: Điều tỷ tức dĩ miên miên, nhập đa xuất thiểu,
định thân tâm hằng lặng, bên ngoài an tịnh, bên trong được lóng
trong, một niệm đúng trong qui củ, muôn duyên đều rũ xuống. Đó
là công phu ngọc dịch luyện hình.
Còn phải thẩm xét để được biết tận chỗ căn nguyên cố đế của
huyệt Thần khí.
Thường vào hai giờ tí ngọ, phải tắt đoài, phải vô âm thanh, hiệp
với mâu quang chuyên nhìn vào trong, khiến cho thượng huyền hạ
tẩn mẹ con thân nhau. Công phu chủng tức (thở đến gót chân) được
lâu ngày, tức dược qui Chân, có thể trường sinh bất lão. Sơ quyết
nhập môn đó là tuyệt diệu.
Quả dưa sanh trên cành, rễ cỏ cây ở phần dưới.
Khí là mẹ của Thần. Thần là con của khí.
---*---
Các phần công phu trước như luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa
Thần, đều là loại công phu hữu tác.
Đến đây là luyện Thần hườn hư, cùng Đạo hiệp Chân, là hầu tuyệt
tư lự, quên cơ động.
Lúc nầy là lúc hư cực tịnh đốc, trong ngoài đều quên, lấy cái thân
tiêu diêu tự tại, quán vào cơ mầu nhiệm lưu hành của đại hóa, tức là
con người đã hiệp với Trời.
Suốt trong chín năm công phu viên mãn, hóa ra trăm ngàn hóa
thân, tùy tầm mà biên hiện, tự được cỡi hạc bay lên, chẳng còn chịu
cơ sanh diệt của thế gian nữa. Gọi là vượt khỏi chuồng lồng, sống
mãi muôn năm.
Thập ngoạt công hoàn thì Dương thần thoát xác, thâu Thần xuất
Thần đều được tự nhiên. Nhưng phải hằng thường chăm chú là bảo
thủ Dương thần.
Chánh duyên thì là lúc anh nhi còn trẻ, phải nên bảo hộ cho đến
lão thành. Lúc này thần thông càng thêm quảng đại, nên nói: Quan
âm tam thập nhị ứng. Còn ta cũng tương chứng theo đó.
---*---
Hội tâm tập có bài 4. MẶC VẬN HỎA HẦU:
Mâu khai huệ nhãn khán hư không. (1)
Kiếm khí quang minh đáo xứ không. (2)
Sao trúc linh âm đạt Khảm hộ. (3)
Cổ cầm chiêu phượng nhập Ly cung. (4)
Trí tri cách vật tầm nguyên bản. (5)
Phản chiếu hồi quang vận Tốn phong. (6)
Thôi xuất ngũ hành Chân nhất tinh. (7)
Thời thời hà luyện mãn lư hồng. (8)
Chú thích:
Câu (1): Mâu khai huệ nhãn là thùy liêm nội chiếu. Là đôi mắt rũ
rèm châu, không còn thấy cảnh vật bên ngoài, cũng không bít kín
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
101
tối om. Nếu đôi mắt mở toát mà tâm động là phàm nhãn. Nếu đôi
mắt rũ rèm châu mà tâm bất động là huệ nhãn. Hư không là Tề luân
hư cảnh, là Cốc thần.
Câu (2): Thần quang của song mâu tợ như luồng kiếm khí rực
sáng tận Đơn điền.
Câu (3): Luồng kiếm khí của song mâu vượt qua một khoảng
không gian từ lưỡng mi gian đến Cốc thần tợ như một loại âm thanh
vi diệu phát ra như gõ ống tre, tiếng vang đến tận cung Khảm.
Câu (4): Cổ cầm là gảy đàn cầm. Chiêu phụng là dẫn diên lên
nhập với hống tại cung Ly.
Câu (5): Trí tri: Tiên gia gọi là Chân tri, Thích gia gọi là Chánh
giác. Là sự hiểu biết vô tư lự của Lương tri Lương năng. Chứ
không phải loại hiểu biết do tư lự của Thức thần. – Cách vật là học
vấn, là bác học, thẩm vấn, minh biện, thận tư và đốc hành. Có cách
vật mới có trí tri.
Câu (7): Tịch là Thần tịch tịnh để qui tụ Chân khí về Khí huyệt.
Chiếu là Thần quang trực chiếu về Tổ khiếu. Nhờ có cơ tịch chiếu
mà ngũ hành được qui nguyên, tức về cõi Chân nhất.
Câu (8): Công phu tịch chiếu cũng là công phu mặc vận hỏa công
được thường trực, gọi là thời thời hà luyện. Chân dược được sung
mãn nơi lư dương có ngọn lửa hồng văn hỏa.
Lại có bài: 5.- HÀ LUYỆN TÂM TINH
Phụng khuyến học nhân, thính ngã tế thuyết.
Diên niên ích thọ, đại hữu quan tiết.
Tinh nhược bất lậu, Thần khí tự kết.
Luyện tinh chi pháp, tu nhập hổ huyệt.
Vô sự sanh sự, kiến cảnh tước thiệt.
Đơn điền phú túc, âm quỉ lai kiếp.
Hoảng hốt hữu tượng, hôn trầm nan quyết.
Ma chướng ám bức, tiên tảo kháng triệt.
Huyền nhai nạo mã, phùng câu phòng diệt.
Chẩm nựu nghi viễn, tửu huân khí huyệt.
Tử lý đào sanh, nhất dao kiến huyết.
Thiểu hữu sai trì, Chân thực tiêu diệt.
Thời thời hà luyện, khắc khắc mãnh liệt.
Trạch xá kiên cố, hảo tác sự nghiệp.
Hưu dương khai ngôn, Thần Tiên diệu quyết.
Tạm dịch:
Vâng khuyến người tu, nghe ta lý thuyết.
Trường sinh bất lão, vốn có quan tiết.
Tinh nếu không lậu, Thần khí tự kết.
Luyện tinh đúng pháp, nên vào hổ huyệt.
Không việc sinh việc, tân dịch nuốt khiết.
Đơn điền dược mãn, âm quỉ tha thiết (cướp)
Tỉnh mê có tượng, hôn trầm khó quyết.
Ma chướng ám bức, sớm lo tiêu diệt.
Huyền quan âm loạn, gặp nước ngừa xuyết.
Lánh xa thê phòng, rượu nồng bỏ tuyệt.
Giờ giờ luyện tinh, khắc khắc nấu huyết.
Thận cung kiên cố, làm nên sự nghiệp.
Chớ nên tiết lộ: Thần Tiên diệu quyết.
---oOo---
6. THÂU THỊ PHẢN THÍNH
Tiêu Dương Kinh
Tế Dương Tử nói: Thâu thị là thâu nhãn quang từ bên ngoài đem
vào Huyền quan, rồi đình tức, rồi tịnh định, để hóa thành Cam lộ,
mới thôn phục về Đơn điền.
Lúc nầy nhãn quang phóng về Khí huyệt, còn Chơn thần thì quán
vào cơ tịnh định, tức là Quán Tự Tại Bồ Tát. Cho nên mới gọi Phản
quán nội chiếu thường tâm tịnh. Tánh mạng song tu xuất khổ luân.
Thơ vân: hạ thủ tiên chế lưỡng nhãn. Lưỡng nhãn nãi tàng Thần
chi sở. Tu yếu nội quán, bất khả ngoại thị.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
102
Đạo Tổ nói: Thường hữu dục dĩ quán kỳ khiếu. Thường vô dục dĩ
quán kỳ diệu.
Diệu là cơ huyền diệu trong khiếu. Thường hay quán về khiếu
diệu gọi là định huệ.
Thơ vân:
Ẩm trác bất chỉ thân bất khinh.
Tư lự bất chỉ Thần bất thanh
Thinh sắc bất chỉ tâm bất ninh.
Tâm bất ninh tắc Thần bất linh.
Thần bất linh tắc Đạo bất thành.
Cơ yếu diệu chẳng do ở chiêm tinh, lễ đẩu, khổ tâm nhọc thân, mà
quí tại cơ tịch lặng nơi phương thốn, không có chỗ nào rực rỡ bằng
cái đạo Thần Tiên, mới có thể trường sinh.
Cho nên cổ Thánh có nói: Tâm không một phân thì tánh hiện một
phân. Tâm không mười phân thì tánh hiện mười phân. Sẽ được hoát
nhiên quán thông, gọi là Minh tâm kiến tánh.
Cho nên, hễ lúc nào Dương thần ngoại xuất, phải liền cấp tốc hồi
quang, thâu nhập vào trong Xang tử. Tuy chỉ một khắc công phu, tự
nhiên thân tâm đều tịnh, trăm loại âm tà đều tiêu tán, rực sáng tợ
như mặt nhật giữa không trung.
Nếu niệm dấy lên thì Thần xuất ngoại, nếu dứt niệm thì Thần trở
về, cho nên Thiền gia lấy chỉ niệm làm trọng yếu, Nho gia lấy khắc
kỷ làm công phu, Tiên gia lấy luyện kỷ làm tối trọng.
Phản thính là cơ diệu của công phu nghe trở về Đơn điền.
Con người nếu nhĩ căn tình cờ nhưng nhập âm thanh, là sự cấp
thiết ngưng nhĩ vận, thâu hồi nhập Khí huyệt, nghe trở về Đơn điền,
đó là cơ huyền diệu, tự nhiên Thiền cơ tịnh mặc, lặng lẽ và thường
tịch tịnh. Công phu lâu ngày thuần thục, như như bất động, tự nhiên
xung hòa đại định. Cho nên nói: Con mắt tuy thấy sắc, mà ta lại hồi
quang, tâm cũng không thọ nạp hình sắc. Còn tai tuy có nghe âm,
nhưng ta lại phản vận, tâm cũng không thu nhận âm thanh đó. Thần
tuy có cảm ứng với vật, mà tâm không hề dấy lên tư lự. Chân
dương khí phát động hiện ra vật, lòng ta vẫn nội tĩnh và chẳng mê
muội, mà lập tức khỉ hỏa để phanh luyện.
Trong lúc vô niệm mà đường dương quan có tác động, đó là hượt
tí thời. Có hiện tượng nầy mà lòng không mê không tà niệm, liền
định khí thu liễm, bằng phương pháp dùng Chân vư vi vi nhập vào
trong cơ động, niệm tự tại tư, tức tức qui căn, miên miên nhược tồn,
không hề gián đoạn. Cứ như vậy mà lưu thủ cho nam tinh nữ huyết
hóa thành khí, rồi dẫn khí này về Khí huyệt và định tâm phong cố,
là để tẩy sạch trược khí xuống Dũng tuyền, chỉ riêng Chân ý thủ trì
Khí huyệt.
Sau đó mới dùng hơi thở vi vi thổi Chân khí theo Tam kỳ lộ vượt
Tam quan lên Nê hoàn, xuống Huyền khiếu, rồi Chân tức vận mà
Pháp luân lưu chuyển.
Lúc đã đình tức tịnh định, tự nhiên hóa Cam lộ giáng hạ Đơn điền,
gọi là qui căn phục mạng.
Chỉ trong một khắc công phu mà Thần khí được hỗn hợp, hình
thần đều diệu, thân tâm khoái lạc. Đó là diệu pháp của tu Tiên.
Thần trong con người tại tâm. Cơ quan bên ngoài của tâm là hai
con mắt. Con mắt ngó xa ngàn dặm. Con mắt không còn trục vật,
thì tâm thần được trở về bên trong và tâm được định.
Tâm được đại định, thì thận thủy thăng lên Nê hoàn, còn tâm hỏa
thì giáng hạ Đơn điền. Lúc nầy nơi miệng tiết xuất ra nước cam tân,
châu thân khoái lạc.
Chung qui cũng là Thần khí tinh, về Tiên thiên vốn có một, Hậu
thiên lại chia ba.
Cũng theo đó mà tu: Con mắt trông ra mà tâm bất động thì Thần
ngưng. Lỗ tai nghe mà tâm bất động, thì tinh được bảo tồn. Miệng
không nói thì nuôi được khí.
Tai mắt miệng, tam quan đều được khẩn bế, đó là cái đạo dưỡng
tinh, bảo khí, tồn Thần, gọi là ngoại tam bửu bất lậu, nội tam bửu
bất tiết.
Luyện tam qui nhất, danh gọi Tam hoa tụ đảnh. Đảnh tức Huyền
quan khiếu.
Khiếu này là căn cơ của Thiên địa. Có danh là Cốc thần, là ngôi
Chí thiện, là Tâm mục sở tại. Là nơi Thần khí hiệp nhất, kim mộc
hỗn hợp, Trạch nữ và anh nhi giao duyên.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
103
Kinh thư có nói: Duy tình duy nhất, doãn chấp khuyết trung.
Nho giáo gọi: Nhất dĩ quán chi. Đạt Ma Tổ Sư nói: Đắc kỳ nhất,
vạn sự tất.
Cổ tiên nói: Thử khiếu phi phàm khiếu, Càn khôn cọng hiệp
thành; danh vi Thần khí huyệt, nội hữu Khảm Ly tinh. Cần phải cầu
Chân sư, mới hiểu rõ khiếu này.
Có bài:
Dù người thông minh hơn Nhan Mẫn,
Chưa được Sư truyền chớ nghĩ sai.
Chỉ vì Đơn kinh không khẩu quyết,
Khiến nên không biết chỗ Linh thai.
Nếu người nào đã hiểu rành được khiếu này, thường đem cả tai
mắt miệng qui vào khiếu này cũng gọi là Tam hoa tụ đảnh.
Chung Ly Tổ Sư nói:
Đản năng tức tức giai tương cố
Hoán tận hình hài ngọc dịch lưu.
Nếu công phu một giờ chỉ mong hết một giờ. Nếu công phu một
ngày chỉ mong hết một ngày. Làm sao có thể thành kim đơn?
Sách Trung Dung có nói: Đạo giả dả bất khả tu du lị dả. Thích gia
nói như cọ cây lấy lửa. Tiên gia nói như mèo rình chuột.
---oOo---
8. ĐIỀU TỨC MIÊN MIÊN
Tiêu Dương Kinh
Tế Dương Tử nói: Tiết trước nói về Thần ngưng khí tụ, Linh căn
sung thực, đơn cơ trúc cố, nhưng nếu không điều định Chân tức, lại
sợ lửa lạnh, kết đơn chậm, thì Linh dược chẳng sinh.
Còn về pháp điều tức lại khó nói:
Thường được xung hòa đại định, thì Chân tức được điều hòa.
Cổ Tiên có nói:
Điều tức yế điều Chân tức tức
Luyện thần tu luyện bất thần thần.
Chân tức và Bất thần thần, đều là Chân long, Chân hổ, Chân âm
dương, Chân thủy hỏa, Chân phu phụ, Chân thai tức, Chân huyền
tẩn, Chân thác thược.
Thác thược một mở một đóng, huyền tẩn một hô một hấp, vốn hỗ
tương vãng lai, vốn thiên nhiên hỏa hầu, há đâu tại khẩu tỷ loạn thi
vi. Nhưng vốn có pháp kiêm dụng, nên cổ Thánh có nói: Điều tức
tu thủy tức, tri tâm bất dụng tâm, nguy nguy thường bất động,
khoảng khắc sản Chân kim.
Thật huyền diệu đối với loại Chân kim nầy, miên miên là suốt
ngày đêm 12 giờ, thời thời khắc khắc không được gián đoạn.
Chân tức của con người, tợ như nhật nguyệt của Trời, ngày đêm
luân chuyển, vãng lai không ngừng. Chân tức là hậu thăng tiền
giáng, cũng không hề đình lưu, nên không hề gián đoạn. Chủ yếu là
bên trên đến Huyền quan, bên dưới đến Khí huyệt. Tịnh định Khí
huyệt thì tức tức qui căn, lại phải miên miên bất tuyệt. Nếu hà luyện
được thuần thục, thì Chân khí tự thăng tự giáng.
---oOo---
7.- NGƯNG THẦN NHẬP KHÍ
Tiêu Dương Kinh
Tế Dương Tử nói: Thần của con người hậu thiên, ban ngày bị tán
loạn không có chỗ nương, ban đêm lạo mộng ảo đa đoan. Nếu
không ngưng qui nhập định, tức cả hình thần mất cơ huyền diệu.
Chánh pháp là hồi quang phản chiếu, đem Chơn thần ngưng qui
nơi trong Tổ khiếu huyền quan, tịnh định một thời gian thì có Cam
lộ phát sinh. Ta hãy dẫn loại nước này về tại Khí huyệt, rồi dùng
Chân hỏa huân chưn.
Cứ như vậy mà công phu một thời gian, tức sẽ kết thành Linh đơn,
sẽ đạt được Qui tức. Lúc bấy giờ tâm thần sẽ được linh mẫn, tật
bệnh được giảm thiểu, sức khỏe càng dồi dào, tuổi thọ càng tăng.
Đó là cơ chỉ xây nền đại lầu đài.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
104
Nhưng vì con người lúc lìa bụng me, rún đã bị cắt và bế tắt, cuộc
sống hoàn toàn nhờ của cải bên ngoài hậu thiên giả tạo. Vì lẽ đó
nên Chân khí không được cùng Huyền quan tương thông, thủy hỏa
bất tương tế, Nhâm Đốc bị tắt bế, nên có cơ tử tử sanh sanh!
Nếu có người được đắc quyết “Qui lai”, ngưng Thần tồn tưởng
Cốc thần, lâu ngày tức có hiệu nghiệm.
Ngọc Thiềm Tổ Sư nói:
Tảo ngộ Chân sư cầu khẩu quyết,
Chỉ yếu ngưng Thần nhập khí huyệt.
Hạnh Lâm Thiền Sư nói:
Vạn vật giai hữu tử, Chơn thần tử phục sanh, dĩ Thần nhập khí
huyệt, đơn đạo tự nhiên thành.
---oOo---
Chương Mười Bốn
CHÂN HỎA HẦU
1. HOẢ HẦU ĐƯƠNG TRI
Ngộ Chân Thiên
Túng thức châu sa dữ hống diên.
Bất tri hỏa hầu dả đò nhiên.
Đạo do toàn tá tu trì lực
Hào phát sai thù bất kết đơn.
Tuy có biết Chân diên với Chân hống, nhưng nếu không biết hỏa
hầu, Thánh thai chẳng kết. Tại làm sao vậy?
Lửa có đặc tính nóng nhiệt, có cơ năng làm rực sáng chân hình của
vạn vật, lại tạo sự giao cấu. Nếu không có hỏa thì diên tự diên, hống
tự hống, đều chẳng được tương giao.
Châu sa hắc diện không phải là loại vật có chất, mà là Chân long
và Chân hổ.
Hỏa hầu là thời Thái cực cực tịnh, dương khí phát sinh.
Tu phải nơi phòng xá trong thân ta, tức mệnh gia. Trì là giữ gìn
lấy tâm hỏa của ta, tức tánh gia. Tánh mạng song tu không lìa hai
chữ tu trì.
Hỏa với hầu tự chẳng lìa nhau, hỏa phải ứng với hầu. Hầu đến thì
hỏa cũng đến.
Nhưng lại phải biết về chỗ phân biệt của hỏa hầu. Lấy hỏa hầu mà
nói thì có loại hầu nhị thất (2+7). Có loại hầu một năm. Có loại hầu
một tháng. Có loại hầu 5 ngày. Có loại hầu một thời nửa khắc.
Lấy hỏa mà nói thì có văn hỏa, có võ hỏa, có thủy trung hỏa, có
hống trung hỏa, có vị tế hỏa, có ký tế hỏa, có châu thiên hỏa.
Lời thi tứ cú này, câu cuối xuất xứ từ sách Nhập dược cảnh, là nói
về nước thì sợ khô càn, về lửa thì sợ lạnh nguội! Sai một hào li
cũng không thành đơn.
Tu luyện kim đơn đều mượn hỏa công để điều biến. Lúc thêm
nước là để cứu vãn sự táo bức của lửa. Lúc vận hỏa thì sợ hỏa hàn.
Cho nên nước vừa sợ tràn ngập, vừa sợ khô kiệt. Lửa lại sợ táo
nhiệt, mà cũng sợ lạnh nguội. Cân lượng pháp độ đều phải quân
bình, không nên thái quá, cũng chẳng bất cập.
Nếu trong khi vận hỏa mà có hào li sai thù, tức Trời với đất sẽ bị
huyền cách! Chỉ vì hiểu lầm về lời nói nơi dụng công thủy hỏa.
Sách Tham Đồng Khế nói: Sở vị long đông đại thử, thịnh hạ tán
tuyết (tuyết rơi).
2. CHÂN QUYẾT HỎA HẦU
Ngộ Chân Thiên
Khế luận kinh ca giảng chi chân.
Bất tương hỏa hầu trước ư văn.
Yếu tri khẩu quyết thông huyền xứ.
Tu cọng Thần Tiên tử tế luân (Luận).
Khế là sách Tham Đồng Khế. Luận là sách Thạch hàm. Kinh là
Âm phù kinh, Đạo đức kinh. Ca là Chánh đạo Sao hà ca.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
105
Đơn kinh về đảnh khí, về dược vật, đã phát tiết đến tận cùng,
nhưng về một tiết Chân hỏa hầu lại không nói rõ, mà chờ Chân sư
khẩu truyền tâm thọ. Than ôi! Trời đâu có tiếc rẻ về Đạo, đất đâu có
quyến luyến của báu. Cũng vì do phòng ngừa kẻ chẳng hiền.
Có nội hỏa hầu. Có ngoại hỏa hầu.
Bá Dương Chân nhân nói: Tam nhật nguyệt xuất Canh, ngoại hỏa
hầu dã.
Thôi Công nói: Thiên ứng tinh (sao), địa ứng triều (sóng), ngoại
hỏa hầu dã.
Thuần Dương Tổ Sư nói: Nhất dương sơ động, ôn ôn diên đảnh,
ngoại hỏa hầu dã.
Quảng Thành Tư nói:
Đơn tái hà xa hưu ngột ngột (chớ dừng)
Hạc thai qui tức tự miên miên.
Là nội hỏa hầu vậy.
Tiên Sư có hai câu thi:
Mạn (khắp) thủ dược lư khán hỏa hầu.
Đản an Thần tức (hơi thở) nhiệm thiên nhiên
Là nói về nội hỏa hầu.
Vị (chưa) luyện hỏa hầu tối nan đắc, là loại ngoại hỏa hầu.
Đó là sự việc hữu vi hữu tác. Còn nội hỏa hầu là sau khi đã đắc
đơn.
Chỉ nương theo thiên nhiên là việc cả rảnh rỗi, cả tự tại, là công
phu vô vi.
Lúc chưa đắc đơn, nên ngưng Thần nội dưỡng. Còn khiếm khuyết
một bên ngoại hỏa, là lời nói nên kiêm nội hỏa. Ngoại hỏa là thay
đổi về dụng công ở Chân khí kim thủy. Nội hỏa là mặc nhiên điều
hòa Tổ khí nơi nguyên hải.
Trong thì làm cho rực sáng, còn ngoại hỏa là nói về tiếp thu, thì
hai hỏa mới được thông linh. Cho nên Tỳ Lăng có 2 câu thi:
Kim đảnh thường lưu thang (nóng) dụng noãn
Ngọc lư bất yếu hỏa giao hàn.
Một tháng có sáu hầu dược, chính là lúc nầy.
Dụng công đến Bảo ngươn thủ nhất, mới không còn dùng hỏa phù.
---*---
3. – SƠ CANH HỎA HẦU
Ngộ Chân Thiên
Bát ngoạt thập ngũ ngoạn Thiềm huy
Chánh thị kim tinh tráng thịnh thì.
Nhược đáo nhất dương tài khỉ xứ.
Tiện nghi tấn hỏa mạc diên trì.
Mượn sắc trăng trung thu để ví trong lư sinh dược. Trên 2 câu là
lời ví dụ, dưới 2 câu chính ý gọi lúc trăng tròn để bảo tồn khẩu
quyết: Thời của Tí, diệu tại tâm truyền.
Tí thời ví trăng tròn, chẳng thiệt ở gần Càn mãn Giáp và nguyệt
xuất Canh, mà hai hầu đều nói đến.
Hối hết thì sóc lại, thừa lúc dương động mà tấn hỏa. Có 2 phân
thủy đến, liền cấp lấy 2 phân hỏa mà thối, khiến cho ruỗi vào cửa
xích sắc. Gặp phải thời nầy, là lúc dương khí dần dần suy, còn âm
khí dần dần trưởng. Là không phải hầu. Mỗi tháng chỉ có một ngày,
mỗi ngày chỉ có một giờ.
Ngày rằm tháng tám, nên linh động quán sát, chẳng nên câu nệ ở
hình tượng.
Đơn gia lại dùng 3 ngày, tháng xuất Canh, là ý nghĩa gì?
Ngày rằm là dùng khí sung túc. Ngày mùng ba là nói về khí noãn.
Nhất dương tức mùng ba thuộc Chấn.
Trần tiên sinh chú thích:
Thủy thanh kim vượng, Thiên thượng chi Thiềm lãng tinh huy.
Diên ngộ Quí sinh, nhân gian chi dược vật khả luyện. Minh thị
Thiêm quang, dược vật tân chủ tương hình.
Là nước trong thanh tức kim khí trưởng vượng, tợ như mặt nguyệt
lúc sáng chói.
Diên khí là dương khí trong con người phát sinh vào thời Thái
cực đã đến cùng cực, gọi là Quí sinh. Là loại dược vật của con
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
106
người nên thể thủ qui lư để huân luyện. Sự sáng là nói về Thiềm
quang, còn dược vật vốn có chủ có khách trong sự hình thành.
---*---
4.- MỖI NHẬT HỎA HẦU
Ngộ Chân Thiên
Nhất dương tài động tác đơn thi.
Diên đảnh ôn ôn chiếu hoảng vi
Thọ khí chi sơ dụng dị đắc.
Trục thiêm vận dụng thiết phòng nguy.
Thừa tiếp theo trước mà nói: Nhất dương vừa động, kịp thời tát
đơn, thì tiếp thu khí có phần dễ dàng.
Thọ khí là tiếp tục khí diên nơi đảnh, tức là Chân khí của ta, mà là
sơ thọ.
Sau khi đã tiếp thu được Chân khí, phải ôn dưỡng bằng hỏa phù.
Văn hỏa, võ hỏa, cương nhu tự có tiết độ. Nếu lúc lâm lư mà hỏa
phựt lên, mà tâm không có tự bảo trì, thì nhiệt lực đó sẽ làm cho khí
nguyên dương bị tẩu tán, cơ nguy hiểm sẽ theo sau, khiến cho sự
dưỡng đơn được chánh phục lại không phải dễ dàng.
Tiết này gồm công phu thể dược và hành hỏa và việc tu đơn từ
thủy đến chung.
Sức sáng của diên quang chiếu thấu màn rèm, đó là chỉ về hầu
dương động.
Trục thiêm vận dụng phải rành về công phu ôn dưỡng. Trục diên
thiêm hống còn gọi là Chiết Khảm Điền Ly. Tấn dương hỏa, thối
âm phù, cũng gọi trục thiêm. Là trục phần diên để thêm phần hống.
Trần Tiên Sinh gọi: Tấn dương hỏa là trục diên, Thối âm phù là
thiêm hống.
Thánh nhân cùng Thần sách ẩn, biết rõ về hiện tương của kim tinh
khí vượng. Lúc nhất dương sơ động mà bắt lấy long, mà thộp lấy
hổ, là thí dụ về Thái ất và Chân khí.
Lúc thai vựng tợ như hạt Tấc châu, từ trong người phát ra hào
quang màu sắc trắng bạch.
Đó là một thời hầu cầu đơn phục thực. Có thể gọi đó là thọ khí chi
sơ, và được dễ dàng.
Sau khi đắc đại dược phục thực, thì vận động âm dương phù hỏa,
công phu chỉ trong mười tháng.
Chính tại lúc nầy, là lúc thần như cảo mộc, tâm tợ hàn khói. Còn
lo phòng nguy lự hiểm, chẳng dám vọng động, cho nên mới được
ngoài tiếp âm dương phù hỏa, trong sinh ra chất kim dịch. Đó là
kim dịch hườn đơn.
---*---
5.- THẬP NGOẠT HỎA HẦU
Ngộ Chân Thiên
Huyền châu hữu tượng trục dương sinh.
Dương cực âm tiêu tượng bác hình.
Thập ngoại sương phi đơn thủy thục.
Thử thời Thần quỉ dã tu kinh.
Huyền châu là hình tượng của đơn dược.
Dược vật chẳng được tự sinh, nhân cảm khí dương mới sinh. Lúc
mới sinh vốn còn tế vi, dần dần mới hiển hiện. Là lúc khí dương
được trưởng tột, khí âm tiêu hết. Châu thiên số đã đủ, nên đại đơn
mới được thành tựu.
Huyền châu là Tiên thiên đại dược. Còn mười tháng trục thiêm, có
kiêm dụng nguyên đảnh của hậu thiên. Sau sóc trước hối, thượng
huyền hạ huyền, một tháng có sáu hầu. Sở sản Linh dược cũng vậy.
Công phu ôn dưỡng, nên nhờ ở dược vật trong đảnh. Buổi mai tấn
hành một quẻ, để thâu thủ loại kim nơi tiền bán nguyệt. Còn buổi
chiều thì tiến hành một quẻ, để thâu thủ loại thủy sau bán nguyệt.
Cứ như vậy mà tấn dương hỏa, mà thối âm phù. Châu thiên đủ số,
nhiên hậu mới dương cực âm tiêu, và kim đơn được thành thục.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
107
Huyền châu là tượng về hữu tượng mà vô tượng. Huyền là nói về
màu sắc của hướng Bắc, đơn từ diên xuất, nên dùng lấy ở huyền.
Sương phi (bay) là mười tháng ôn dưỡng đại đơn đã thuần thục.
Bành Hạc Vân nói: Nhất hào cương hề nhất hào nhu. Nhất hầu văn
hề nhất hầu võ. Nhất niên hỏa hầu thủy thai anh. Lôi thinh chấn
động quỉ Thần kinh.
Huyền châu là từ ngữ xuất từ Nam Hoa Kinh.
---*---
6. LƯỠNG HẦU CHI HỎA
Ngộ Chân Thiên
Tiền huyền chi hậu, hậu huyền tiền.
Dược vị bình bình khí tượng tuyền.
Thể đắc qui lai lư lý hạ (hà: nấu).
Hà thành ôn dưỡng tự phanh tiên.
Tiết này tiếp thừa tiết trên về công phu trục thiêm vận dụng mười
tháng đơn thục mà nói: là đề xuất về lục hầu, về thủ vỹ của lư dược.
Tiền huyền chi hậu là chỉ về thời hối tiền.
Hậu huyền chi tiền là chỉ về thời sóc hậu.
Chân dược có mùi bình bình, là nói về Chân khí đã được vẹn toàn,
liền thể thủ để dưỡng đơn. Lư là Thổ phủ, là Thần thất. Luyện nấu
(hà) phải phối với nội hỏa. Tự phanh tiên là sớm chiều giao luyện.
Chân khí tự huân chưn.
Đảnh trung lục hầu, xuất xứ từ sách Tham Đồng Khế. Cả thảy đều
là lý chuyên dụng hai hầu.
Tiết này nói: Tiền huyền chi hậu, hậu huyền tiền, là đơn cử ở sự
tối yếu mà nói.
Lý thị thì chú trọng tại sóc hậu, hối tiền, là hầu của lưỡng độ. Hối
tiền bổ huyết. Sóc hậu bổ khí. Khí huyết quân bình gọi là dược
bình. Thủy vượng, kim trọng, gọi là khí toàn.
Đới thị chú thích: Nhị bát (2+8) là thủ tượng nơi mặt nguyệt của
kim thủy. Lục hầu là thủ tượng nơi mặt nguyệt của dinh hư.
Kim dương là thủy ấm, là khí của hai huyền, là hỏa của âm dương.
Năm ngày một hầu, là toàn số của ngũ hành.
Tiền huyền hậu là dùng thượng huyền tiền, là âm sau dương, kim
thủy đều nửa cân, là nhị bát vậy. Thượng hạ hai huyền đều có nhị
bát. Thánh nhân biết được loại tinh nhị bát tại thượng hạ hai huyền,
đều dùng nửa cân làm dược vị bình bình. Khí tượng toàn là được
kết đơn. Có nhiều người hiểu lầm nên sinh vọng tưởng.
Vọng nhạt thì trăng tròn Càn giáp, là số của dương kim một cân đã
đủ. Đó là hai cơ huyền diệu của nhị bát. Nếu không gặp được Chân
sư làm sao biết được cơ diệu dụng nầy.
Thượng hạ hai huyền, đều là kim thủy mỗi vị tám lượng, đó là
Chân chỉ của nhị bát.
Cuối tháng đến ngày 30 âm lịch, loại kim của dương hồn đã tán
tận, loại thủy của âm phách tràn đầy nơi nguyệt luân, ấy là thuần
hắc vô quang. Pháp tượng quẻ Khôn là , nên nói hối. Lúc nầy
mặt nguyệt và mặt nhật tương giao, tại nơi trong hai ngày hối sóc,
hiệp thể mà vận hành, đồng xuất hiện rồi đồng mất đi.
Cho đến ngày mùng 2, mới mượn ánh sáng của ngôi Thái dương
mà thai vựng, rồi dần dần lìa nhau. Cho đến ngày mùng 3, ban ngày
chấm dứt, tức nga mi hiện nơi hướng Tây thuộc Canh thượng, rồi
trong thuần âm mới sinh một phần dương quang, là trong phách
sanh hồn, tượng quẻ Chấn . Lúc nầy loại kim dương hồn mới
sơ sinh là tân dược miêu. Cho đến ngày mùng 8 được 2 dương sinh,
tượng quẻ Đoài . Lúc nầy trong phách có một nửa hồn, hình
mặt trăng giữa như có sợi dây căng thẳng, nên gọi thượng huyền.
Trước huyền này thuộc âm, còn sau thì thuộc dương. Trong âm có
một nửa dương, là thủy trung kim mỗi bên tám lượng, mùi vị bình
bình, khí tượng vẹn toàn. Cho đến ngày rằm 3 dương đã đủ trong
quẻ Càn . Lúc nầy thủy trong âm phách tiêu tận, loại kim
dương hồn tràn đầy nơi nhật luân, là hiện tượng của trăng tròn,
thuần dương mà vô âm, nên gọi vọng.
Dương cực thì sanh âm, nên ngày 16 trong thuần dương luân lại
sanh một âm, trong hồn sanh phách, tượng quẻ Tốn , rồi trăng
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
108
dần dần khuyết. Cho đến ngày 23, có 2 âm sanh, tượng quẻ Cấn
. Lúc nầy trong hồn có một nửa phách, cũng tợ như dây căng,
nên gọi hạ huyền. Trước huyền này thuộc dương, sau thuộc âm.
Trong dương có một nửa âm, là đắc một nửa thủy trong kim, đều
nửa cân, mùi vị bình bình, khí tượng đã vẹn toàn. Cho nên Thánh
nhân thể thủ lấy loại tinh của kim thủy nhị bát nầy, rồi dẫn về trong
Tạo hóa lư phanh luyện khí Chân nhất, biến nó thành hạt Tấc châu,
và phục thực. Tiếp theo là vận hỏa ôn dưỡng, phanh luyện thành
kim dịch hườn đơn và toàn mượn âm phù dương hỏa để tiến thối,
để trục thiêm. Nếu có một mảy sai thù, thì không tạo đơn.
Chánh đạo có lời ca:
Tiền huyền chi hậu tầm dược vật.
Hậu huyền chi tiền khí dinh quân.
Lời ca nầy chẳng chỉ về khoảng hối sóc, cũng không chỉ về hầu
Vọng mãn.
---*---
7.- NỘI NGOẠI DƯỢC HỎA
Ngộ Chân Thiên
Trưởng nam sạ ẩm Tây phương tửu.
Thiếu nữ sơ khai Bắc địa hoa.
Nhược sư Thanh nga tương kiến hậu.
Nhất thời quan tỏa tại Huỳnh gia.
Trưởng nam và thiếu nữ, là theo quái vị hậu thiên, là Chấn đông là
Đoài tây.
Tửu ví dụ Tiên thiên Chân thủy, còn hoa là ví diên nội kim hoa.
Trưởng nam thì uống rượu. Thiếu nữ thì khai hoa. Chọn lấy hoa,
lựa rượu uống, chính là thời nam nữ tương kiến. Cảnh đẹp đã hiện
thì hướng dẫn về nhà, nên gọi: Tống qui Thổ phủ lao phong cố.
Thuyết minh Trưởng nam, lại xưng Thanh nga, là cụ thể của quẻ
Ly, ngoại dương mà nội âm.
Trước 2 câu nói về ngoại dược, là thanh long tàng âm khí, bạch hổ
bao dương khí.
Sau hai câu nói về nội dược, Thanh nga là kỷ của Chân thổ. Long
hổ hai khí cùng nhau quyến luyến, tức quan tỏa tại Trung cung.
Trần Tiên Sinh chú thích: uống rượu phương Tây, vì nam nữ có
ngôi đông tây, hoa nở nơi đất bắc, là phân biệt nam bắc trong thân
con người.
Trưởng nam là Chấn, là mộc, là thanh long. Tây phương thuộc
kim. Tửu là kim dịch, hay Tuyết sơn đề hồ.
Thiếu nữ là Đoài, là kim, là bạch hổ.
Bắc là thủy phương. Hoa tức diên hoa, là lư trung, là ngọc dược.
Lại gọi Lạ, gọi Sơ, gọi Nhấ thời, đều chỉ về thời gian nửa khắc.
Trước tiên là xua long đến gặp hổ, cùng nhau chén tạc chén thù, say
sưa túy túy, rồi cọp kia lại khởi ứng theo rồng, do thơ tình mà đẹp
đẽ.
Theo đó Chân hống mới rước về, giam chặt nơi trong Thần thất.
Trưởng nam với thanh nga đều là mộc, vì lúc qua tây có dùng một
ít hỏa trong mộc, nên xưng là nam. Cho đến khi nhập đảnh thì hiệp
lấy loại dịch trong mộc, nên xưng là nga.
Tây phương và bắc địa là quê hương của kim mộc. Huỳnh gia tức
trung cung thổ.
Có ai là sứ giả? Cũng chỉ hai thổ mà thôi. Cho nên mới gọi Tam
gia tương kiến.
Chấn là Trưởng nam, tức long. Đoài là thiếu nữ tức hổ. Luyện đơn
là xua long gặp hổ, hổ khai mở loại hoa trong cửa để gặp long, long
liền phát động hống hỏa, cùng bạch hổ giao phong.
Sau khi đôi bên đã tương kiến, tức có một thời phong tỏa, rồi hội
họp tại Huỳnh gia, để sản kim đơn và thành Chân nhân.
---*---
8. TÁN THỐC HỎA HẦU
Ngộ Chân Thiên
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
109
Nhật nguyệt tam tuần nhất ngộ phùng.
Dĩ thời dịch nhật pháp Thần công.
Thủ thành dã chiến tri hung cát.
Tăng đắc Linh sa mãn đảnh hồng.
Tiết nầy chú trọng về loại diên sơ độ trong mỗi tháng, là trung tâm
của hậu thiên với kinh độ của Tiên thiên, nên gọi 30 tăm xe chung
nhau cùng một trục xe.
Chúng ta hãy ngửa mặt lên mà xem, hễ cứ ba tuần nhật với nguyệt
có một lần gặp nhau, và giao quang nơi sơ tam Khôn vị, đó là Thần
công của cơ tạo hóa.
Đơn sĩ lâm lư thể dược trong một giờ, mà được thâu thủ sanh cơ
của 30 ngày, là công phu lấy giờ đổi ngày, càng thật Thần tốc.
Chỉ câu lư trung thâu thủ lấy Chân dược, nên kiêm động tịnh công
phu. Tịnh để gìn giữ thành trì, là không khởi niệm, thì Tam bửu
được bảo trì kiên cố. Động thì dã chiến, là long hổ giao phong, là
điên đảo nghịch dụng. Nhưng trong sự bảo thủ thành trì và long hổ
dã chiến, trong đó đều có cát hung. Đại để hễ khí định Thần ngưng
thì được cát tường. Còn dục động tình thắng là hung triệu. Quán sát
từng hầu để cầu diên thì tốt, chẳng phải thời mà làm quấy là xấu.
Chí thành thẩm sát để được hiểu đến tận cùng nguyên cớ, và cẩn
thận hành trì, tức tu luyện có pháp, thể thủ đắc nghi, tự nhiên ngày
tích tháng lũy, mà đơn sa trong đảnh rực vậy mà tăng mãn. Đơn sa
là chỉ cho khí Chân dương, nên gọi châu sa luyện dương khí.
Thái âm và Thái dương, cứ mỗi tháng có một độ hiệp bích, là pháp
tu luyện lấy giờ đổi ngày. Còn Khảm Ly giao là thời hối tận sóc lai,
là thời Chân dược sở sinh.
Trong mỗi năm có 12 độ trăng tròn, tháng tháng đều có một ngày
dương sinh, trong mỗi tháng có ba ngàn khắc, khắc khắc phải tầm
lấy giờ Quí sinh. Lúc long hổ dã chiến thì thể lấy diên. Gìn giữ
thành trì chỉ là dưỡng kỷ. Chủ yếu phải biết được cát hung, mới bảo
trì được thành công.
Đạo Đức Kinh nói: Dĩ chiến tắc thắng, dĩ thư tắc cố.
---*---
9. TRUÂN MÔNG HỎA HẦU
Ngộ Chân Thiên
Bỉ, Thái tài giao vạn vật dinh.
Truân Mông nhị quái bẩm sanh thành.
Thử trung đắc ý hưu cầu tượng.
Nhược cứu quần hào mạn dịch tình.
Lời thi nầy nói về mỗi ngày có hai hầu hỏa. Đơn gia trú cơ ôn
dưỡng đều dụng công. Chỉ vì vạn bất đắc dĩ mới dùng Bỉ Thái phối
với Truân Mông, và chuẩn mực với khí cơ để ứng hành hỏa hầu.
Thái quái tam dương là hầu sơ xuất vạn vật.
Bỉ quái tam âm là hầu sơ nhập của vạn vật.
Đơn pháp vận dụng hỏa phù, cũng dùng cơ xuất nhập thăng giáng.
Ban mai thuộc Truân thì tấn dương hỏa, tức từ giờ Tí đến giờ Tị,
dương chủ về cơ sinh trưởng. Còn buổi chiều thuộc Mông thì thối
âm phù, tức từ giờ Ngọ đến giờ Hợi, âm chủ về cơ thâu thành.
Nếu đắc được đại ý của cơ sanh thành, chỉ dùng hai quẻ cũng có
thể lệ suy, nào cần chờ xét nét theo ngày để cầu quái tượng, hay lần
lựa theo giờ để khảo cứu hào số.
Đơn đạo lấy quái tượng làm chuẩn, lấy Càn Khôn làm môn hộ, lấy
Khảm Ly làm thành quách, là đại cương của Đơn pháp. Nhưng vì
cơ vận dụng không ngoài bốn quẻ: Bỉ, Thái, Truân, Mông.
Cơ thời thuộc Bỉ, là do âm khí bị bế tắt.
Cơ thời thuộc Thái, là do dương khí được khai thông.
Thánh nhân trước tác Đơn kinh, há trái thời sao.
Chẳng qua là nhân theo qui luật tự nhiên, là nương theo cơ sanh
thành vạn hóa, hễ dương sanh thì tấn hỏa, là bắt chước quẻ Truân,
nuôi dương khí thượng thăng, là noi theo tượng của Chấn mà
Khảm. Còn âm sanh thì thối phù, là bắt chước quẻ Mông, nạp âm
khí hạ giáng, là noi theo tượng của Cấn mà Khảm.
Truân với Mông là thể theo nghĩa lý phản thể tương đối.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
110
Cứ hằng ngày đều dụng công như vậy, suốt mười tháng cũng đều
như vậy. Chư học giả nên khảo cứu cho rõ ngôi Trung, tất bốn quẻ
trên không khó minh định.
Trương Chân nhân chú thích nơi sách Tham Đồng Khế: Bỉ Thái
giao, thì hai khí âm dương sẽ được thăng giáng. Truân Mông tác,
thì cơ động tịnh thị hiện cả mai lẫn chiều.
---*---
10. HỎA HẦU BẤT TẠI QUÁI HÀO
Ngộ Chân thiên
Quái trung thiết tượng bốn nghi hình.
Đắc ý vong ngôn, ý tự minh.
Hậu thế mê đồ duy nệ tượng.
Khước hành quái khí vọng siêu thăng.
Tiết này tiếp ý theo tiết trên mà nói về hỏa phù tiêu tức. Chủ yếu
là hiểu rành đoan đích mối mang. Căn cứ theo cơ trục thiêm trong
mỗi ngày, chẳng tại quái hào, như tiết trước nói đắc ý vong tượng,
tiết nầy nói tượng quên lời, cũng đủ phá được thành kiến hẹp hòi.
Nơi trong Đơn phòng tuy dụng Càn Khôn làm khí, Khảm Ly làm
dược vật, Chấn Đoài làm long hổ, Truân Mông làm thủy hỏa đều là
thí dụ.
Tham cứu kỹ nơi sách Tham Đồng Khế và Ngộ Chân Thiên,
không có chỗ nào nệ tượng chấp văn cả.
---*---
11. HỎA HẦU MINH CANH GIÁP
Ngộ Chân Thiên
Thiên địa dinh hư tự hữu thì
Thẩm năng tiêu tức thủy tri ki (cơ).
Do lai Canh giáp thân minh lệnh.
Sát tận tam thi, đạo khả kỳ.
Tiết nầy nói về Lục hầu của Đơn pháp.
Sách Tham Đồng Khế nói: Hỏa phù hữu tiến thối, khuất thân dĩ
ứng thời.
Lúc dương sinh phải lo tấn hỏa, lúc khí Chân dương đã dinh mãn
thì cơ nên tăng, tâm phải thơ hoãn để ứng với thời.
Lúc âm sanh phải lo thối phù, tâm phải thật hư không, về cơ nên
diệt đi, và nên co lại để ứng với thời.
Tiêu: Làm cho mất đi. Tức Làm cho tăng lên.
Chư học giả nên thẩm tri cho rõ Thiên cơ, thì cơ tiêu tức dinh hư
và pháp trục thiêm, chẳng sai pháp độ, không gặp sự nguy hiểm qua
các công phu.
Thân minh lệnh: Tham đồng khế gọi: Phát lệnh khế hạp với thời
lệnh, chớ sai thời động.
Thánh nhân hiểu rõ về lý dinh hư tiêu tức của Thiên địa, rồi căn cứ
theo một tháng mà thấy được.
Tháng theo ngày mà có cơ sanh. Như sơ tam Chấn Canh là sơ
sanh. Sơ bát nhật Đoài Đinh thành hình. Thập ngũ nhật Càn Giáp
dinh mãn, là thời Thiên địa dinh. Thập lục nhật Tốn Tân thọ thống
nhị thập tam nhật Cấn Bính thủ huyền. Tam thập nhật Khôn Ất tiêu
diệt.
Lúc Thiên địa hư, Thánh nhân biết được cơ tiêu tức của Trời đất,
nên gom khí hầu một năm tại trong một tháng.
Lửa với nước trong con người, tức là khí âm dương của Trời đất.
Cơ dinh hư của âm dương, là cơ tiến thối của thủy hỏa. Cho nên
tiêu tức có thời, thời đến có cơ. Thẩm trì về cơ nầy được minh bạch,
tức chẳng ở trước, không ở sau, mà hỏa phù vô sai. Trời đất là Thầy
của ta.
Thiên địa dinh hư, cùng thời tiêu tức, gốc ở Dịch tượng truyện.
Quân tử lấy đó để làm sáng tỏ phần mệnh. Tiên gia hằng giữ Canh
Thân và Giáp Tí để chế phục tam thi.
Tam thi tức tam bành, đều do tinh khí chất sở hóa, phân cư tại tam
điền. Bành Cư thích xa mã y phục. Bành Chất thích mùi ngon vật
lạ. Bành Kiều thích thinh sắc thị dục.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
111
---*---
12. TÁC VẬN HỎA HẦU
Hội Tâm Tập
Hỏa thực không có hỏa, nhân có công lực tu trì nên gọi hỏa. Hầu
cũng thực không có hầu, do thứ đệ tu trì mới gọi là hầu.
Cái đạo tu trì Tánh mạng, có cương có nhu, có cấp có hưỡn.
Cương là tiến về trước, nhu là thối về sau.
Cấp là dũng mãnh, hưởn là thung dung.
Cương cấp là võ luyện, nhu hưỡn là văn phanh.
Nên cương thì phải cương, nên nhu phải nhu.
Nên cấp phải cấp, nên hưỡn phải hưỡn.
Đều là không sai lầm Chánh pháp, gọi là hầu.
Hỏa với hầu, là lấy cương nhu cấp hưỡn mà nói.
Cương nhu cấp hưỡn đều đúng pháp, gọi là hỏa hầu.
Cương nhu cấp hưỡn sai pháp, là cái lỗi của hỏa hầu.
Cổ kinh nói: Chân hỏa bổn vô hầu, đạt đắc bất luận cân. Lại còn
nói:
Tổng thức châu sa dữ hắc diên.
Bất tri hỏa hầu dã đồ nhiên.
Đại đô toàn tá tu trì lực.
Hào phát sai thù bất khả Tiên.
Lời trước đã nói: Chân hỏa vốn không có hầu.
Lại còn nói: Chỉ sai thù chừng một mảy lông cũng không thể
thành Tiên.
Là phải biết vận hỏa không có hầu nhất định. Chính tại thời khắc
lưu tâm phòng nguy lự hiểm tùy cơ biến thông, chẳng sai mảy lông.
Cổ Tiên nói:
Bất khắc thời trung phân tí ngọ.
Vô hào quái nội biệt Càn Khôn.
Công phu tuy có phân ra tí ngọ, nhưng cũng có loại công phu
không phân tí ngọ, mà một cử một động, một lặng im, một nói
năng, đều có tí ngọ, và cũng đều có cương nhu cấp hưỡn trong tác
dụng, nên không có hầu nhất định.
Đơn kinh có nói: Nội hỏa hầu, ngoại hỏa hầu, thể dược hỏa hầu,
luyện dược hỏa hầu, kết đơn hỏa hầu, phục đơn hỏa hầu, hườn đơn
hỏa hầu, đại đơn hỏa hầu. Có rất nhiều loại hỏa hầu, vốn không
phải một, cũng đều lấy cương nhu đúng độ, cấp hưỡn đúng thời, là
quí và đều lấy công lực tu trì, không có loại công phu nào mà
không có hầu vận hỏa.
---*---
13. HỎA HẦU THỨ TỰ
Kim Tiên Chứng Luận
Chánh đạo lấy Luyện kỷ làm công phu hạ thủ làm tiên đề, thứ đến
là điều dược, rồi vận Châu thiên. Sự việc chẳng phải một.
Luyện kỷ đã được thuần thục, rồi hoặc ngồi hoặc nằm, hốt nhiên
dương sinh, lập tức hồi quang phản chiếu, ngưng Thần nhập khí
huyệt, dụng vi vi tức dẫn nguyên tinh về căn. Chính là lúc Thân khí
muốn giao mà chưa được giao. Tu sĩ phải dùng Chân tức miên
miên. Nếu dùng cương cấp để dẫn nguyên tinh về lư, gọi là võ hỏa.
Thần khí đã giao, dương khí đã định, thì phải quên thở quên ý,
dùng hỏa nhu hưỡn mà nuôi, gọi là văn hỏa.
Chẳng thở mà chỉ thở vi vi, tất cả đều quên, mà chỉ còn dụng
chiếu, như vậy mới có dược sản. Quên thở là không lấy lửa để nấu.
Nếu dùng hơi thử là chẳng quên thở, như vậy Chân khí mới được
lưu thông.
Nói là thở vi vi và điều hành hơi thở vi vi, như vậy gọi là quên
thở. Nếu còn dụng ý, tức chẳng quên.
Nếu quên tức không được dụng Chân ý để chiếu.
Cổ nhân nói: Tâm được hư không, thì Chân tâm mới được bảo tồn,
mới gọi là Chiếu.
Lòng dục tẩy sạch mới gọi là quên. Quên với Chiếu tuy hai mà
một, tuy một mà hai.
Lúc dương quên thì tâm tịch tịnh, mà đã có chiếu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
112
Lúc dương chiếu thỉ mảy lông chẳng lập, và đã có quên trong đó.
Đó là Chân vong Chân chiếu, và gọi là văn hỏa.
Văn hỏa đã đủ, nửa đêm hốt nhiên dược sản Thần tri, hào quang
chiếu khắp màn rèm, ngoại thận đột cử, lập tức thể thủ, rồi huân
chưn, rồi phong cố, rồi vận Châu thiên. Lúc thể thủ, Thần phải miên
miên nhược tồn, là không lìa Cốc thần, dùng Chân tức thổi ngược
về Khí huyệt gọi là võ hỏa.
Còn phong cố, mộc dục, qui căn, đều dùng văn hỏa.
Nếu chẳng tại giao cấu, mà cùng với thời Châu thiên, hoàn toàn
dụng công văn hỏa.
Theo từng thời khắc trong công phu ôn dưỡng và huân luyện, đều
phải dùng văn hỏa. Nếu chẳng vậy thì không được hườn hư.
Lúc dương sinh gọi là hượt tí thời, mà dược sản cũng gọi là hượt tí
thời. Hai đoạn công phu đều phải rành thứ tự, còn vận Châu thiên
gọi là Châu thiên tí thời.
Dụng hỏa, điều dược, luyện dược, gọi là hỏa tí thời.
Còn về hầu cũng không phải một thuyết. Chẳng luận dương sanh
cùng dược sản, nếu có khí động là một hầu. Thần khí hiệp là hai
hầu. Lại còn nói: Dương sanh là một hầu, dược sản là một hầu.
Cọng lại là hai hầu, là nhị hầu thể Mâu ni.
Chân dược sản vãng ngoại, thể qui lư là một hầu. Lư trung phong
cố là một hầu, cũng gọi nhị hầu thể Mâu ni. Thăng, giáng và hai giờ
mộc dục là tứ hầu. Cọng lại là lục hầu. Là lục hầu của một thời
Châu thiên, mà công pháp sở dụng.
Hầu tuy có nhiều, nhưng không nên chấp trước, bất quá cũng là
dương sanh và điều dược.
Điều cho Chân khí được sung mãn, tức có Chân dược lập tức thể
thủ, huân chưn, phong cố, và vận hành. Tí ngọ mẹo dậu qui căn
cũng như vậy. Nhưng về hầu pháp phải minh bạch. Còn lúc hô hấp
biến văn hỏa võ hỏa hầu chẳng truyền, là không truyền cho kẻ vô
đức.
Hỏa là hỏa, hầu là hầu, có đâu nói lộn là một.
Còn văn võ theo tiết tự của công pháp, do Chân sư truyền mới
được trọn vẹn.
---*---
Hoa Dương Thiền Sư nói: Tiết này nói lặp nhiều về hầu, chẳng
phải do ta hiếu sự, là do các sách trước nói về hầu có phần lộn xộn,
khiến người khó hiểu.
Tiết trước tuy ta có nêu ra lục hầu, nhưng sợ người không được
giải nghi, nên thêm tiết này, để giúp cho chư học giả được giải hết
bệnh nghi.
---*---
14. HỎA HẦU KINH
Thiên Tiên Chánh Lý
Xung Hư Tử tập thuyết Hỏa hầu kinh.
Viết: Thiên Tiên thị Bổn tánh Nguyên Thần.
Tiên do tu mạng mà chứng tánh. Cho nên sơ quan là tu mạng,
trung quan là chứng tánh.
Bất đắc kim đơn, bất năng phục Chí tánh địa, nhi vi chứng
kim đơn, thị Chân dương nguyên khí.
Bất đắc hỏa hầu, bất năng thể thủ phanh luyện nhi vi đơn, có
viết: Toàn bằng hỏa hầu thành công.
Cát vương Thái Hòa trùng vấn hỏa hầu, nên Xung Hư Tử mới hội
tập, những lời dạy của các bậc Thánh nhân, mà trước tác ra bài kinh
này.
Chỉ vì Cổ Thánh bất truyền, tuy có hóa chép ghi thành sáu trăm
thiên, nhưng thiên thiên đều tương tợ thể Chân diên.
Ngọc Hoàng Tâm ấn kinh có nói: Tam phẩm nhất lý, diệu bất khả
thính.
Quán sát về lời nói: Tuy chẳng truyền mà tợ có truyền. Tuy nói
truyền mà tợ bất truyền.
Ta cũng hằng tuân theo, là không dám truyền hỏa. Nhưng mãi
thấy người đời đa phần bị lầm rơi vào nẻo yêu tà. Còn sợ vị lai
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
113
những người chân tu không biết đi về hướng nào là phải. Cho nên
đối với ta, một phần không dám nói, một phần thì nói giản đơn, nên
người cũng khó triệt ngộ, khác nào việc trong dĩ vãng!
Nếu nói rõ ràng, lại sợ vi phạm Thiên giới.
Cổ nhân nói: Hỏa hữ hầu hữu tác.
Lại còn nói: Hỏa vô hầu vô tác.
Cả hai lời nói nầy khiến người tu học mãi phân vân!
Tử Dương Chân nhân than rằng: Thủy ư hữu tác vô nhơn hiến.
Cập chí vô vi chúng thủy tri. Đản tín vô vi yếu diệu. Nào hay hữu
tác thực căn cơ.
Có người trong Thiền tông nói: Ngươi có một cái trụ trượng. Ta
cũng có một trụ trượng như ngươi. Ta và ngươi không có trụ
trượng, nên cướp lấy trụ trượng của đối phương.
Ta đã hội tập toàn cả Chân bí của chư Tiên rồi phân thành thứ đệ,
để giúp hậu học không bị uổng phí công phu.
Tích ngã Lý Tổ Hư Am Chân nhân viết:
Nhiêu đắc Chân dương quyết chí hành.
Nhược vô Chân hỏa Đạo nan thành.
Châu thiên luyện pháp tu Tiên thọ (trao)
Thế nhân thuyết giả hữu thùy chân!
Lời nầy nói: Tu theo Tiên đạo phải do Tiên sư trao truyền bí
quyết, sau đó mới có thể thành Tiên.
Lời tục ngữ có nói: Muốn biết đường lên núi cao, phải hỏi người
đã thường lên xuống.
Có những pháp người đời hiện đương truyền, chỉ là thế pháp,
không phải Chánh pháp.
Cổ Tiên có nói:
Nếu cả người đời đều thành Đạo,
Trên đời Thần Tiên đi chật đường.
Nhiều người tầm học ngoài Chánh lý âm dương Tánh mạng song
tu, hay chỉ biết Trời mà không biết đất! Vậy không có chỗ để sống,
còn nói chi đến việc tu hành!
Lời thi của bài tứ cú nầy, là công án dẫn chứng Chân hỏa hầu,
giúp Tu sĩ phá án mà nhập thất.
Thả vị thượng cổ Thánh Chân bất lập văn tự,
Khủng nhân đồ kiến nhi tín thọ bất cập.
Người đời nay đa phần không tin vào loại Chân kinh Chân thư, vì
các loại kinh thư nầy không có mỹ từ, không có lời nói ngụy xảo,
nên lớp người hiếu kỳ không thích thú!
Thế giới ngày nay có vô số kinh sách, nhưng đa phần nội dung
đều mang nặng đặc tính cô thiên, là thiên chấp nhất biên, là những
loại kinh thư không nhằm Chánh lý, chẳng khác họ đem khối vô
minh khổng lồ phủ lên lớp người còn đương mê muội!
Trung cổ Thánh nhân tá danh hỏa hầu, nhị lược ngôn chi, nhi
thế hựu bất giải tri!
Cập kiến Tiết Đạo Quang ngôn: Thánh nhân bất truyền hỏa,
toại hủy nhi bất tham cứu, tuy hữu lược ngôn giả diệu bất
dụng.
Cạnh thủ tín vu yêu nhân chi khẩu nhi dĩ. Cố ngã viết:
Hoa hầu thùy vân bất khả truyền,
Tùy cơ mặc vận nhập huyền huyền.
Đạt quan vãng tịch thiên thiên Thánh.
Hô hấp phân minh liễu khước Tiên.
Thời trung cổ thánh nhân tá danh hỏa hầu, nhưng chỉ nói sơ lược,
nên người đời không hiểu. Cho nên Tiết Đạo Quang mới nói:
Thánh nhân không truyền hỏa, nên người đời bỏ đi, không hề
nghiên cứu đến. Còn có những lời nói sơ lược người đời cũng
không dụng công được. Vì lẽ trên nên họ tin theo lời nói của tà sư.
Ta mới có bài:
Hỏa hầu ai nói không nên truyền,
Theo cơ mặc vận vào cửa huyền.
Suốt thông Chân ý ngày Thánh xưa.
Hô hấp hiểu rành cũng nên Tiên.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
114
Cơ mặc vận là dùng Chân tức vi vi ứng dụng vào Châu thiên luyện
pháp.
Cửa huyền là Cốc thần.
Khởi bắt văn Trần Hư Bạch viết:
Hỏa hầu khẩu quết chi yếu, đương vu
Chân tức trung cầu chi.
Linh nguyên Đại đạo ca vân:
Thiên kinh vạn luận giảng huyền vi.
Mạng đế do lai tại Chân tức.
Sao không nghe lời Trần Hư Bạch đã nói: Cơ trọng yếu về khẩu
quyết của hỏa hầu, nên tìm nơi trong Chân tức.
Sách Linh nguyên Đại đạo có lời ca:
Ngàn kinh muôn luận giảng huyền vi.
Mạng căn do từ nơi Chân tức.
Lời nói trên, trực thuyết hỏa hầu tại Chân tức, là cơ hô hấp của cả
bậc Chân nhân, chẳng phải loại hô hấp nơi miệng mũi.
Trần Trí Hư viết: Hỏa hầu tối bí,
Kỳ dụng phi khả nhất khai, nhi luận trung
hữu trục tiết sự điều, khả bất minh biện hồ.
Lời của Trần Tiên sinh nói trên, là Chân truyền của ba bậc Chân
nhân: Trương, Lý và Tào.
Lời truyền: Thể dược hầu, Phong cố hầu, khỉ Tiểu châu thiên hầu,
Tấn thối điên đảo hầu, Mộc dục hầu, hỏa túc chỉ hầu, Thể đại dược
hầu, Quá quan phục thực hầu, Đại châu thiên hầu, Thần toàn hầu,
Xuất thần hầu …
Trương Tử Dương viết:
Thủy ư hữu tác vô nhân kiến
Cập chí vô vi chúng thủy tri.
Đản tín vô vi vi yếu diệu.
Thục tri hữu tác thị căn ki (cơ)
Hữu tác thuộc về Tiểu châu thiên. Vô vi thuộc về thời Đại châu
thiên.
Hỏa hầu thực hành nơi cơ hô hấp của bậc Chân nhân. Chỗ nầy vốn
không có hô hấp. Từ không có hô hấp, mà quyền dụng là có hô hấp,
để giao hợp Thần khí. Luyện lâu ngày sẽ thành đại dược, tất phải
dụng hữu vi. Chẳng phải như vậy tức không phải Chân đạo.
Vô nhân kiến là do Thiên cơ bí truyền, mà thực hành trong bí mật.
Cổ Thánh có lời răn: Tri chi bất dụng hướng nhân khoa (có kẻ biết
rồi không ứng dụng, lại đem khoe khoang). Cho nên Thánh nhân
không truyền hỏa, tức là chẳng khinh truyền. Tà pháp đều dụng hữu
vi. Tiên gia hữu vi bất đồng hữu vi của tà pháp. Vì hữu vi của tà
pháp vốn chấp tướng. Còn hữu vi của Tiên gia không dính mắc về
tướng. Do đó nên không có người biết.
Từ đây về trước đều theo vô nhập hữu.
Từ đây về sau đều theo hữu nhập vô.
Cơ hô hấp là sự sở hữu của nhất thân con người, trước từ ngoài mà
qui vào trong, tức trong là hữu vi. Cho nên Đại châu thiên có chủ
trương là vô.
Nhưng vô chẳng phải không dụng hỏa. Còn nói vô đó là cơ mầu
nhiệm của hỏa hầu trong công phu vận hành. Vô là loại hỏa rất
nguy hiểm, vì loại hỏa hữu vi dễ vận hành, còn loại hỏa vô vi khó
vận hành. Chẳng được vô là nguy hiểm. Còn được vô mà có một
hào li hữu cũng nguy hiểm. Còn vô mà có sự gián đoạn trong cơ
vận hành cũng là nguy hiểm. Con nên Tử Dương mới căn dặn
người còn mê tục: Chỉ nghe vô vi rồi phỏng đoán, là không dụng
hỏa, có khi dụng vô vi từ thủy đến chung! Cũng như phải dùng hữu
vi nơi ban đầu, cũng không biết, nên mới nói: Chỉ tin vô vi. Do đó
nên không có người biết về hữu vi.
Lời của Tử Dương là nói về hữu vô song dụng.
Thuần Dương Chân nhân viết: Nhất dương sơ động, trung
tiêu lậu vĩnh.
Ngụy Bá Dương Chân nhân viết: Hối chí sóc đán, Chấn lai thọ
phù.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
115
Từ đây về sau có một đoạn nói về hượt tí thời hỏa hầu.
Còn lời của Ngụy Chân nhân, là dùng một tháng làm ví dụ. Hối là
đêm cuối cùng của một tháng, mặt trăng không còn ánh sáng, là ví
về thời âm tịnh trong thân con người. Có hối mới có tháng kế tiếp.
chỗ dễ thấy, để phát minh về loại hỏa không nói được. Chư học giả
chớ nên nhận giả là chân.
Trần Triều Nguyên viết: Phàm luyện đơn tùy Tí thời dương
khí sanh nhi khỉ hỏa, tắc hỏa lực phương toàn. Dư thời khỉ hỏa
bất đắc dược cố dã.
Có dược vật, tạo hóa mới có cơ sanh thành, nên mới khỉ hỏa để
luyện dược. Lúc chưa có dược vật bất tất phải dụng hỏa, nên không
được khỉ hỏa. Nếu cưỡng dụng khỉ hỏa, tức đem nước lửa nấu nồi
không.
Trần Nê Hoàn viết:
Thập nhị thời thần tu nhận Tí.
Đơn đạo khi dụng công một Châu thiên, nên dụng Chân hượt tí
thời để khỉ hỏa. Thiên đạo, một ngày có 12 giờ, vốn có giờ Tí là giờ
nửa đêm. Đơn đạo ví dụ Tí, nhưng không nên chấp chỉ đúng giờ Tí,
mà suốt trong 12 giờ, lúc nào dương sanh là Chân hượt tí thời.
Bạch Ngọc Thiềm viết:
Nguyệt viên khẩu quyết minh minh ngữ.
Thời tí tâm truyền quả bất ngoa.
Trăng tròn là lúc dương quang thịnh mãn, là ví dương khí phát
sinh thịnh vương, nên thể thủ để luyện, và có thể thành kim đơn.
Tiên cơ thể thủ để luyện, và có thể thành kim đơn. Tiên cơ thể thủ
có giờ. Trăng nếu chưa tròn, tức dương khí chưa được thịnh vượng,
nếu thể lấy cũng không thành đơn, và cũng chẳng được trường sinh
bất tử. Cho nên Thánh nhân mới ngàn căn muôn dặn là phải biết về
thời, là Chân hượt tí thời dương sinh.
Có được Chân sư tâm truyền khẩu thọ, mới đắc được Chân hượt tí
thời.
Bành Hạnh Lâm viết:
Hỏa dược nguyên lại nhất xứ cư.
Khán thời tợ hữu mích thời vô.
Dược là Tiên thiên nguyên khí vốn vô hình, nếu lấy vô hình mà có
sự ngờ vực: Chẳng biết hữu sở đắc, vô sở đắc, thì cuối cùng sẽ
không thành.
Ta thì tin ở vô dã đến chân thật, cũng dùng cơ diệu dụng của vô để
thể thủ, để phanh luyện, đó là Chân hư vô Tiên đạo. Loại hỏa nầy
vốn là vật hữu hình hô hấp, nếu lấy hữu hình mà dụng công, thì tà
hỏa sẽ trưởng vượng. Nếu lấy hữu hình mà dụng công tợ như vô
hình, thì hỏa và dược sẽ hiệp nhất tại một chỗ, rồi cùng từ vô trung
mà đắc diệu hữu, nên gọi tợ hữu tợ vô.
Thử giai ngôn dược sanh tức thị hỏa sanh,
dĩ minh thể dược khỉ hỏa chi hầu dã.
Tiết này là lời tổng kết của Xung Hư Tử về thuyết thể dược và tí
thời hỏa.
Khỉ hỏa là sự việc của tí thời. Cần phải phân minh cả hai, nên Đạt
Ma Tổ Sư nói: Nhị hầu thể Mâu ni, tứ thời biệt Thần công.
Chánh Dương Chân Nhân viết: Kết đơn
hỏa hầu hữu thời tiết
Từ đây đến sau, đều nói theo khỉ hỏa ở tí, 12 giờ vận hành Tiểu
châu thiên hỏa hầu, chính là hầu phanh luyện kim đơn, nên nói kết
đơn có thời khắc.
Tiểu Tử Hư viết: Càn khôn thác thược cố hữu số.
Thác thược là khí cụ cổ động gió thổi lửa, là ví dụ hơi thở hô hấp
vãng lai, tức Càn hô mà Khôn, Khôn hấp mà Càn.
Có số là Càn dụng cửu, khôn dụng lục.
Ly Khảm đao khuê thể hữu thời.
Ly là Thần trong tâm, gọi kỷ thổ.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
116
Khảm là khí trong thận, gọi mậu thổ.
Trên dưới 2 chữ thổ, hiệp thành chữ khuê, là mậu và kỷ hiệp nhất,
xưng là đao khuê, là ví dụ Thần khí hiệp nhất.
Lại phải biết Chân thời thể thủ hai thổ để hiệp luyện mới thành
Ngọc Đảnh Chân nhân viết: Nhập
đảnh nhược vô khắc lậu, Linh nha bất sanh,
thời hầu bất chánh, hữu hà định cân lượng thăng giáng tai.
Chân Dương Thiền Sư nói: Nhập đảnh là Chân dương tinh khí đã
hườn Khí huyệt, phải theo đúng khắc lậu hỏa hầu để huân luyện, thì
huỳnh nha đại dược mới sinh.
Có khắc lậu mới minh định và hoàn tất về công phu của thời hầu,
về dương thời dụng tấn, về âm thời dụng thối, mới hạp với Chánh
lý. Lại được hiệp Thần khí, với mỗi một đều tám lượng nửa cân.
Lại như dùng cơ khắc lậu trong một giờ, và nên thăng nên giáng,
hay không nên thăng giáng, như vậy mới đúng định lý.
Huyền học Chánh tông viết:
Khắc lậu giả xuất nhập tức dã.
Tiết này nói rõ khắc lậu là biệt hiệu của tiêu tức xuất nhập. Cơ
khắc lậu một ngày đêm cũng có 12 giời, mỗi giời đều có cơ khắc
lậu.
Hoàng Đế ở trong núi đá Không động, đắc Âm phù kinh, rồi thỉnh
vấn về văn nghĩa nơi Thiên chân Hoàng Nhân, và Quảng Thành Tử
đã ghi: Tam hoàng vương quyết vân: Phản phúc là ý nghĩa triền
chuyển của thượng trung hạ tam điền. Hô hấp là cơ hô hấp của bậc
Chân nhân, chẳng phải sự hô hấp của kẻ phàm phu. Triệt ư đế là
thông đến Khí huyệt. Lúc hấp thì giáng, lúc hô thì thăng, tợ như
phản phúc. Chủ yếu là về cơ hô hấp đúng với qui luật tự nhiên, mới
đắc được huyền diệu khả hữu khả vô.
Tử sư Tào Hườn Dương Chân Nhân viết:
Tí mẹo ngọ dậu định Chân cơ.
Điên đảo âm dương tam bách tức.
Tí mẹo ngọ dậu, sách Nhập dược cảnh gọi là Tứ chánh. Tứ chánh
là bốn thời công phu trong thời Tiểu châu thiên và Đại châu thiên.
Tiểu đại sự bất đồng, nhưng tại sao dụng sự đồng?
Tâm ấn kinh nói: Tâm phẩm nhất lý.
Chân cơ là tâm không động mà thận động.
Điên đảo âm dương, là sáu thời dương dụng Càn, dụng tấn. Còn
sáu thời âm dụng Khôn, dụng thối.
Thời dương, Càn sách là 216: [9x4x5] + 36
Trừ 36 mẹo dương mộc dục, còn tí: [216-36] : 180
Còn thời âm, Khôn sách: 144 = [6x4x5] + 24
Trừ 24 dậu âm mộc dục, ngọ còn: 144 – 24 = 120.
Cọng số Châu thiên của 2 giờ tí ngọ vận hành 180 + 120 = 300
châu thiên + 36 + 24 +24 = 384
Tam thập lục hựu nhị thập tứ
Càn dụng cửu, nên 4x9 = 36
Khôn dụng lục, nên 4x6 = 24.
Châu thiên độ số đồng tương tợ.
Mẹo thời mộc dục, dậu thời đồng.
Hỏa hầu túc thời hữu tứ ý.
Châu thiên độ số trên Trời, cùng với Châu thiên hỏa hầu luyện
đơn, đều tương tợ đồng, đó là số Cửu và số Lục.
Mẹo và dậu là hai giờ mộc dục.
Thôi Công nói: Hỏa hầu túc mạc thương đơn, là nói về lúc dụng
công, tư tưởng không được phóng buông ra ngoài. Còn lúc hành
hỏa đã đủ, tức là công phu thời Tiểu châu thiên đã viên mãn, Linh
thai đã kết, lập tức quá quan phục thực, tuyệt đối không còn dụng
công về võ hỏa nữa, nên gọi: Chỉ hỏa.
Hứa Sinh Dương viết: Nhị bách nhất thập lục,
dụng tại dương thời. Nhất bách tứ thập tứ, hành ư âm hầu.
216 là tích số của dụng cửu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
117
Từ giờ tí đến giờ tị là sáu giờ dương, nhưng chỉ nói về Châu thiên
số của giờ tí là 180, và Châu thiên số của giờ mẹo là 36. Cọng lại là
216 Châu thiên.
Còn giờ ngọ Châu thiên số là 120, và Châu thiên số giờ dậu là 24.
Cọng là 144 Châu thiên.
Kim Cốc Dã Nhân viết:
Chân Tuyên Viết: Hỏa hầu bốn chỉ ngụ nhất khí tấn thối chi
tiết, phi hữu tha dã. Chân hỏa chi diệu tại nhân ( ), nhược
dụng ý khẩn tắc hỏa táo, dụng ý hưởn tắc hỏa hàn, vật vong vật
trợ. Phi hữu định, tắc vưu ý tán, bất thăng bất giáng bất kết đại
đơn.
Lời nầy nói về thời công phu đối với hàng sơ học. Tuy là chưa
minh Đại đạo, nhưng đã phát tâm cầu đạt cơ Liễu tử siêu sanh, nên
Chân thuyên mới khải giáo mấy lời, để làm mục phiêu hướng
thượng công phu.
Vương Quả Trai viết:
Khẩu bất hô, tỷ bất hấp.
Thác thiên thược địa từ đình tức.
Tôn phong Ly hỏa đảnh trung phanh.
Trực sử thân an mạng phương lập.
Miệng và mũi không còn hô hấp, là đã dụng công theo hô hấp của
các bậc Chân nhân. Thác thiên thược địa, theo thuyết của Quảng
Thành Tử: hễ hô thì địa khí thăng, hấp thì Thiên khí giáng. Đình
tức là không còn hô hấp. Tiên gia đình tức là tự nhiên tịnh định mà
tịch diệt, cơ hô hấp theo Chân truyền tại Chân kim đảnh, mà không
ra vào nơi miệng mũi, tức trong đó có Chân bửu đơn thành ở đó,
gọi là trúc cơ thành.
Trần Nê Hoàn viết:
Hành tọa tẩm thực tổng như như.
Duy khủng hỏa lãnh đơn lực trì.
Hành tọa là tọa Thiền công phu, chứ không phải là đi ra đường.
Còn ngủ còn ăn là chưa thoát được kiếp phàm phu, mà chỉ còn
trong thời gian trăm ngày công phu Luyện tinh hóa khí.
Như như là cơ mầu của nhập định, tợ hữu mà không trước tướng,
chẳng không mà không. Tợ vô mà chẳng trước không, Không mà
chẳng không, gọi là Chân như. Chân như như tức hỏa hiệp huyền
diệu, thì lửa không lạnh, đơn không chậm.
Thuần Dương Lão Tổ viết:
An bài đản táo luyện huyền căn.
Tấn thôi tu minh mẹo dậu môn.
gia Mã Tổ nói: Vị hữu thường hành nhi bất trụ. Vị (chưa) hữu
thường trụ nhi bất hành.
Chánh Dương Lão Tổ sư viết:
- Đán mộ dần thân tri hỏa hầu.
- Mộc dục thoát thai phân mẹo dậu.
- Mộc dục tiềm tàng tổng thị không.
Sớm chiều mẹo dậu hai giờ dụng công mộc dục. Còn giờ dần và
giờ thân, ý Lão Tổ dặn Công phu mộc dục rất quan trọng, nên phải
dự bị trước, là dần thân
Công pháp mộc dục của hai thời Châu thiên tiểu đại đều như nhau.
Có lời nói phân mẹo dậu, là trước tợ hữu mà sau tợ vô. Các bậc
Thánh xưa chưa tiết lộ về công phu luyện khí hóa Thần, chỉ có
Chánh Dương Tổ Sư mới tiết lộ.
Câu thứ ba: Mộc dục thành không, danh gọi Tiên cơ. Chẳng được
Chân không, tức đọa bàng môn, cưỡng chế ngoại đạo, và thành đại
bệnh.
Ngộ Chân thiên chú sớ viết:
Tí tấn dương hỏa, tức hỏa, vị chi mộc dục.
Ngọ thối âm phù, đình phù, diệc vị mộc dục.
Tức hỏa là mộc dục theo giờ dương.
Còn đình phù là mộc dục theo giờ âm.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
118
Chánh Dương Lão Tổ viết:
Quá nhiên bách nhật phòng nguy hiểm.
Tiểu châu thiên có loại hỏa tấn thối, có loại hỏa chẳng tấn thối.
Nếu tấn thối mà không hạp với số tấn thối, không hạp với cơ tấn
thối. Chẳng theo đúng con đường tấn thối. Chẳng dụng công tấn
thối đúng chỗ khỉ chỉ. Chẳng biết hỏa túc nên chỉ. Đều là nguy
hiểm.
Tiêu Tử Hư viết:
Phòng hỏa hầu chi sai thất vị, kị mộng mị chi hôn mê.
Sai thất hỏa hầu, Chân khí chẳng được bổ túc, đại dược cũng
không thành.
Mộng mị hôn mê: hoặc trong giấc ngủ mê có mộng thì vọng trần
tâm sanh, mà không sanh Chánh giác, hoặc lúc hành hỏa bị hôn
trầm, không có được một hầu Châu thiên, đều nên phòng kị.
Thiên Tôn đắc đạo, Liễu thân kinh viết:
Điều tức miên miên tợ hữu như vô mạc giao gián đoạn.
Cơ tiêu tức bị gián đoạn, không gọi là điều hòa. Vô chẳng tợ hữu,
hữu chẳng như vô, cũng gọi là không được điều hòa.
Chẳng phải như vậy, tức là không phải Chân hỏa, Chân hầu, mà là
loại hỏa của tà thuyết ngoại đạo.
Hạnh Thạch Lâm viết: Định lý kiến đơn thành.
Tử Dương nói: Chỉ có định mới có thể luyện đơn. Còn không có
định thì đơn chẳng kết. Là một lời nói chỉ yếu, nên dùng làm tổng
ngôn.
Tử Dương viết:
Hỏa hầu bất dụng thời Đông chí, bất tại Tí.
Cập kỳ mộc dục thời, mẹo dậu thời hư tỷ.
Hai chữ hư tỷ trùm cả bốn câu.
Chẳng dụng thời, là không dùng theo thời gian của sách lịch, là
mỗi ngày có 12 giờ, mà chỉ dùng tâm trung mặc vận 12 thời, và làm
hư tỷ.
Đông chí và tí thời, là nói về hượt tí thời, về thời của khí Chân
dương phát động trong người. Thế giới bên ngoài cũng có thời
Đông chí và Tí thời, là thời huyền khí của tạo hóa phát sinh.
Người tu hành nhận hượt tí thời của thế giới bên ngoài mà hạ thủ
công phu, để cướp huyền khí của tạo hóa bồi bổ cho huyền khí của
mình.
Giờ mẹo và giờ dậu, hai khí âm dương của vũ trụ bên trong và vũ
trụ bên ngoài, huyền khí phát sinh có phần yếu ớt, nên phải dụng
công mộc dục là chính, vận hành là phụ.
Hựu viết: Bất khắc thời trung phân tí ngọ,
Vô hào quái nội định Càn Khôn.
Trong mỗi giờ có tám khắc. Còn không theo khắc của giờ, mà
dùng theo thời mặc vận hỏa hầu trong tâm, để hư phân tí ngọ.
Trong mỗi quẻ có sáu hào, là nói theo Dịch Lý. Còn trong thân
con người, mượn Càn làm đảnh, mượn Khôn làm lư, để luyện đơn
nấu thuốc, chứ không dùng quái hào.
Thử giai ngôn luyện đơn dược hành hỏa Tiểu châu thiên chi
hầu dã.
Câu nầy là lời tổn kết thượng văn của Xung Hư Tử, về các lời nói
của chư Thánh nói về sở dụng bách nhật trúc cơ Luyện tinh hóa khí.
Cát Vương Thái Hòa hỏi: Cổ lai nói về hỏa hầu có nhiều. Lấy gì
để phân biệt các loại danh hỏa hầu của sự dụng công Tiểu châu
thiên trăm ngày Luyện tinh hóa khí?
Ngũ Tử đáp: Tiểu châu thiên có tấn thối, có mộc dục, có điên đảo,
có Châu thiên độ số.
Còn nói luyện dược, luyện đơn, thủ lư, khán đảnh, dược thục, đơn
thành, đều là công sự trăm ngày của Tiểu châu thiên. Ta căn cứ theo
pháp này để phân biệt những gì về thời Tiểu châu thiên.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
119
Tâm ấn kinh vân: Hồi phong hỗn hợp, bách nhật công linh.
Hồi phong là ví dụ về hồi triền khí hô hấp. Hỗn hợp là nhân
Nguyên thần tại tâm, nguyên khí tại thận, vốn xa cách nhau, khiến
cho Chân khí bị trì tán ra bên ngoài, Thần tuy có biết nhưng không
được tự dụng, và không có pháp hỗn hợp. Cho nên lời kinh nầy mới
khải thị cho người tu, là dùng loại khí của hô hấp mà hồi triền, mới
được Thần khí qui căn phục mạng và hỗn hợp, mới được Thần chủ
tể khí mà hiệp nhất.
Nếu không có diệu dụng hồi phong, thì Thần tuy có tại chủ tể khí,
nhưng không biết khí có chịu sự chủ tể đó không. Đó là điều rất bí
yếu về công phu luyện đơn.
Nếu dụng công được một trăm ngày, thì linh nghiệm sẽ rõ.
Chân khí đã sung túc thì có thể định. Cũng như Thần đã tập định
lâu ngày thì Thần sẽ định. Thần khí đã định, thì pháp hồi quang của
Tiểu châu thiên hỏa nên dừng.
Từ đây đến sau, đều nói về cơ Chỉ túc của Tiểu châu thiên hỏa.
Chánh Dương Lão Tổ viết: Đơn thục bất tu hành hỏa hầu.
Cánh hành hỏa hầu tất thương đơn.
Chân khí sung túc là do biết dụng pháp, nhưng khí tú phải nên
phòng nguy, là khí tràn ra ngoài. Cho nên thấy hầu Chỉ túc là phải
ngừng liền, mới không thương đơn, mới đạt công trình phòng nguy
lự hiểm, Chân khí mới không bị ngoại dật (tràn).
Chân nhân nói: Tinh khí còn lậu là phàm. Tinh khí không còn lậu
là thánh.
Tử Dương viết:
Vị luyện hườn đơn, tu tốc luyện.
Luyện liễu hườn tu (nên) tri chỉ túc.
Nhược dã trì dinh vị dĩ tâm.
Bất đãi nhất triêu tao dãi nhục.
Tạm dịch
Chưa luyện hườn đơn nên gấp luyện.
Luyện đã thành nên biết chỉ túc.
Nếu lòng cứ mãi lo mãn dinh.
Chẳng khỏi một mai bị sỉ nhục.
Lúc chưa luyện hườn đơn, nếu gặp đơn dược phát sinh, tức nên
thể luyện, là dụng công về Châu thiên hỏa.
Cần phải đặt trọn lòng Chí thành với tâm dũng mãnh vào công phu
thể luyện, cũng gọi là tốc luyện.
Chí thành cao độ, Chân dược chí bửu, Chân hỏa chí tinh, tức sẽ
Chân tốc thành đơn, và sớm đoạt quả Liễu tử siêu sanh.
Tiêu Liễu Chân viết:
Thiết kị bất tu (nên) hành hỏa hầu.
Bất tri chỉ túc tất khuynh nguy.
Chân Dương nói: Lão sư Tào Hườn Dương Chân Nhân có nói:
Chân dược, Chân hỏa vốn rất trọng yếu, nhất là pháp quá quan có
pháp Ngũ long bổng Thánh, là Thiên cơ bí mật.
Nếu người không có Tiên căn chẳng được truyền, người không có
Tiên duyên không thể biết. Chẳng phải là điều mà mọi người trong
thiên hạ có được. Những kể phàm phu không thể nghe được.
Có nhiều tà pháp mê hoặc người mê, nên tu luyện mãi mà không
trụ được bạch hổ, không trảm được xích long. Long và hổ mãi còn
tàn phá thân tâm! Tru được bạch hổ, trảm được xích long, chỉ mới
là tiểu quả của công phù Thiền định.
Tiểu quả chưa thành khó mong đạt quả.
Thử giai ngôn đơn thành Chỉ hỏa chi hầu.
Cố: Trần Trí Hư diệc hữu vân: Hỏa hầu giả hầu kỳ thời chi
lai, hầu kỳ hỏa chi khí, khám kỳ hỏa chi khả phát. Thử hỏa hầu
dã. Sát kỳ hỏa chi vô quá bất cập, thử hỏa hầu dã. Minh kỳ hỏa
chi lão noãn ôn vi, thử hỏa hầu dã. Nhược đơn dĩ thành cấp
khử kỳ hỏa, thử diệc hỏa hầu dã.
Chữ hầu là thời kỳ. Hỏa hầu lúc thời cơ đến (dương động), là lúc
hỏa đã đến, xem ở lúc hỏa có thể phát. Đó là hỏa hầu. Cẩn thận về
thời hỏa đến, là hỏa hầu. Quán sát về hỏa đúng độ, không thái quá,
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
120
không bất cập, là hỏa hầu. Hiểu rõ hỏa già hay non, ôn dưỡng vi vi,
đó là hỏa hầu.
Nếu đơn đã thành, gấp dùng võ hỏa, cũng là hầu vậy.
Trần Tiên Sinh đã minh biện hỏa hầu, để cho học giả theo đó mà
tham cứu.
Thiên Tiên cửu hườn đơn hỏa chi bí hầu, nghi thử nhược thử
số giả: Luyện tinh hóa khí chi hầu bị hỉ.
Nghi thử nhược thử: Công phu cửu chuyển hoàn đơn được thích
ứng, được khế nghi.
Tiết nầy của Xung Hư Tử tổng kết phần trước về: Thể thủ, phanh
luyện, chỉ hỏa, là nội sự của bách nhật quan được đầy đủ.
Dư Cố viết: Tự tri dược sinh nhi thể thủ, phong cố, vận hỏa
Thiên châu. Kỳ trung tấn thối, điên đảo, mộc dục, hô khư, hành
trụ khỉ chỉ công pháp tuy thù, diệu tại hồ nhất khí, quán Chân
khí nhi bất thất ư nhị tự, nhất Thần ngự nhị khí, nhi bất thiểu li
ư tha kiến. Tam bách Châu thiên số dư hữu phần dư tượng
nhuận số. Nhất hầu huyền diệu cơ đồng ư tam bách hầu,
phương đắc khí qui nhất khí, Thần định nhất Thần. Tinh trụ,
khí ngưng, hầu túc, hỏa chỉ, dĩ vi nhập dược chi cơ, tồn Thần
chi xá dả.
Chân dược lúc phát sinh phải tự biết để thể thủ, rồi phong cố, rồi
vận Châu thiên.
Trong có cơ tấn thối, điên đảo, mộc dục, cố phong, và công pháp
hành trụ khỉ chỉ, tuy có khác nhau, nhưng Chân cơ chí diệu tại nơi
một khí. Quán suốt Chân khí là không sai thất nơi hai mối, là một
Thần mà chế ngự hai khí, và không hề lìa xa Cốc thần.
thể dược và phong cố. Lại còn nói: tứ hầu biệt hữu diệu dụng, là
nói về 360 hầu trong Tiểu châu thiên.
Ta nay thừa lệnh Tiên Ông nói về 2 hầu, là thời Châu thiên nói về
hầu tấn và hầu thối.
Như chẳng tợ tấn thối, mà hư nghị là tấn thối diên hống. Đơn pháp
nói tấn thối là: Tấn thì dụng hỏa nhập lư. Còn thối thì không dụng
hỏa mà lìa lư. Như vậy thực có thể nương mà dễ nói, hoặc có gia đa
là tấn, giảm thiểu là thối. Cũng có thể căn cứ theo đó mà dễ nói.
Luyện tinh thì không giống thuyết này.
Ta này cũng chỉ miễn cưỡng so sánh: Chẳng tợ mà lấy làm tợ, là
nghĩ rằng: Lục dương thời lấy Càn dụng cửu. Cửu là con số lớn
trong 9 số, nên dụng tấn. Lục âm thời lấy Khôn dụng lục. Lục nhỏ
hơn cửu nên dụng thối.
Còn trong Châu thiên, tấn dương hỏa và thối âm phù, chẳng lấy đa
thiểu mà nói thì bất khả. Còn lấy dụng và chẳng dụng mà nói, thì
quá xa vậy.
Điên đảo, trừ dược vật phối hợp điên đảo thì bất tất nói, mà chỉ nói
về cơ điên đảo của hỏa hầu.
Lữ Tiên Ông nói: Đai quan tiết tại điên đảo.
Lúc đầu Lão sư có nói: Lục dương hỏa chuyên ở tấn thăng, và thối
hậu theo đó mà thôi.
Còn lục âm phù chuyên ở thối giáng và tấn, lại sau cũng theo đó
mà thôi.
Nói chuyên, là chuyên để tấn thăng, chủ ở thể thủ. Còn chuyên để
thối giáng, là chủ ở phanh luyện. Nói hậu tùy là nghĩa về thuận đới,
cơ vãng lai không thể không có, cũng chẳng có thể cùng với chuyên
chủ đều trọng dụng. Đó là bí cơ của các bậc Thánh xưa về thuyết
điên đảo.
Mộc dục: là tí, sửu … 12 chi, là ngôi thứ đệ.
Thế pháp có ngũ hành, nên nội đơn cũng ví ngũ hành. Ngũ hành
có ngôi Trường sinh là dần thân tị hợi. Hỏa sanh tại dần, thủy sanh
tại thân, kim sanh tại tị, mộc sanh tại hợi. Còn mẹo dậu tí ngọ là
mộc dục vị.
Cho nên đơn pháp, về hỏa của hượt tí thời còn phải qua từ sửu dần
đến mẹo, là thời gian dụng công về hỏa. Lại mượn ngôi mộc dục
mà xưng hỏa công và gọi là Mộc dục, giờ dậu cũng vậy.
Nhất khí là khí hô hấp được quán suốt với Chân khí, từ lúc thể thủ
đến khi chỉ hỏa không được lìa nhau. Lìa thì gián đoạn, nếu phục
quán tức ra hai đầu mối! Đó là do tâm thần bị hôn trầm tán loạn,
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
121
nếu hiện tượng nầy thái thậm tức biến sanh ra ba bốn mối! đều là
loại hỏa vô thành.
Cần phải răn de. Lấy tức khí quán Chân khí tất chủ tể dụng nhất
Thần ngự khí mà không lìa khí, nếu nội tâm dấy lên một tha kiến
tức Thần sẽ lìa khí. Nếu bên ngoài bị chấp trước vào một tha kiến,
Thần cũng sẽ lìa khí. Lìa thì vô hầu vô hỏa, làm sao có khí túc khí
sanh 360 độ. Cho nên gọi: Châu nhất thiên.
Có được dụng công theo Huyền cơ, cơ hành trụ khỉ chỉ sẽ được tự
nhiên. Có được một tiêu tức như vậy, tam bách tiêu tức cũng đều
như vậy, mới có thể đắc được Huyền công thiên nhiên Chân hỏa
hầu.
Chân hỏa hầu này Thánh xưa đều ẩn, chỉ vi lộ mà không dám
minh ngôn.
Nhi Đạo Quang Tiết Chân nhân, nãi hữu định tức, thể Chân
diên chi chỉ. Ký đắc Chân diên đại dược phục thực, Chánh
Dương vị chi trục diên.
Đại dược là loại kim đơn do tinh hóa khí.
Theo đâu mà đắc? Cũng là do từ đơn điền khí huyệt sinh ra. Trước
khi tinh chưa hóa khí có cơ sanh, đó là nguyên khí vô hình, nhưng
vì khí nầy bị nương theo ngoại thể mới thành hữu hình.
Tào Lão sư nhân có danh Địa dược, mới phát kiến ra loại Tiểu
dược.
Sau khi luyện tinh hóa khí thành kim đơn, và sở sanh, xuất phát từ
Đơn điền, gọi là đại dược. Loại dược nầy lại có hình, tợ như hạt hỏa
châu, cũng từ vô mà nhập hữu, là lúc phải lo quá quan phục thực.
Tức hành hỏa hầu luyện Thần vị chi thiêm hống.
Loại hỏa hầu này thuộc Đại châu thiên.
Thiêm hống: Hống khí là loại âm thần trong tâm con người hậu
thiên. Thần nầy một nửa đọng nơi ban ngày là dương minh, một
nửa tịnh nơi ban đêm là âm hôn.
Công phu tu luyện, chủ đích là thuần dương hóa thân tâm. Luyện
được một âm tiêu thì có một dương phục. Cứ như vậy mà luyện cho
2 âm, 3 âm, 4 âm, 5 âm, 6 âm, đều được thuần dương, Dịch lý gọi:
Thời thừa lục long dĩ ngự Thiên. Lúc nầy kiếp người hậu thiên
được phục hồi lại kiếp sống Tiên thiên bất sanh bất tử.
Cổ nhân có nói: Con người còn một phần dương thì chưa chết, và
còn một phần âm tức chưa được thành Tiên.
Nhược bất thiêm hống hành hỏa, tắc Chân khí đoạn nhi bất
sinh.
Lấy Thần ngự hỏa, nếu Thần chẳng được dương minh, thì làm sao
có được hỏa thêm?
Chỉ có phương: Tấn dương hỏa gọi là trục diên. Thối âm phù gọi
là thiêm hống.
Chân khí đoạn là do thần khí bất định và Chân dược không phát
sinh.
Nhược bất luyện Thần tắc Dương thần bất tựu, chung ư thi
giải nhi dĩ.
Ba câu nầy của Xung Hư tử dẫn đủ ý 5 câu trên. Từ đó Đạo Quang
lại biến hóa ra 13 câu. Xung Hư Tử nơi đây là thừa thượng khỉ hạ,
là chí yếu Thiên cơ phân biệt Thánh phàm.
Hiết khí là khí của Châu thiên hỏa hầu đã hết, hoặc là chiết hết
dương khí nơi cung Khảm, đem bổ điền trọn vào âm khí nơi Ly
cung.
Sự hiệu nghiệm nầy gọi là Luyện khí hóa Thần.
Thuần Dương Chân nhân viết:
Tùng kim biệt cổ một huyền cầm.
Biệt cổ: Là riêng biệt hành Đại châu thiên. Là lời minh thuyết
cùng Tiểu châu thiên trước không đồng.
Một huyền cầm: là tiếng vô hình của đàn cầm.
Tử Dương viết: Đại phàm hỏa hầu, chỉ thử Đại châu thiên
nhất trường, đại hữu nguy hiểm giả thiết bất khả dĩ bình nhật
hỏa hầu liệt thị chi.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
122
Trong giới tu hành chỉ nói Châu thiên, nhưng không phân đại tiểu.
Tử Dương nói Đại châu thiên hỏa hầu là một trường đại nguy hiểm,
không như loại Châu thiên hỏa hầu nơi bình nhật, nên Tiên Ông
mới nói: Thủy ư hữu tác tiểu châu, hậu ư vô vi đại châu.
Quảng Thành Tử viết: Đơn táo hà xa hưu ngột ngột.
Hạc thai, Qui tức tự miên miên.
Lời nói bất tất dụng hà xa, là nói về sự việc của một trăm ngày đã
qua. Còn nay là công phu mười tháng, chỉ dụng Hạc thai, Qui tức
miên miên.
Nhưng về hỏa hầu sách Thượng thanh Ngọc Chân thai tức có bí
quyết: Ta lấy Thần là xa, lấy khí làm mã, suốt ngày ngự lên mà
không biết mỏi mệt. Trước trăm ngày lấy dương tinh chuyển vận,
gọi là hà xa. Thời gian của thai tức nầy thì chuyển thần nhập định,
là lấy Thần làm xa, lấy khí làm mã. Lấy Thần ngự xa là ví luyện khí
để hóa Thần.
Bạch Ngọc Thiềm viết: Tâm nhập hư vô hành hỏa hầu.
Nhập hư vô là Thần khí nhập định, mà không chấp trước tướng.
Khưu Chân nói: Chân không là Thần khí nhập định.
Tuy hành Đại châu thiên mà không thấy tướng của Châu thiên nầy
mới mầu nhiệm.
Phạm đức Chiêu viết: Nội khí bất xuất, ngoại khí bất nhập,
phi bê tức dã.
hào của hỏa hầu về tiểu thành. Còn thời Đại châu thiên hóa Thần,
mới không có quái hào của hỏa hầu về đại thành. Thể theo hóa
Thần mới gọi Thượng phẩm.
Bành Hạc Lâm viết:
Nhược đáo đơn thành tu mộc dục
Đơn thành là sự thành công kim đơn. Mộc dục là dùng loại hỏa vi
vi ôn dưỡng.
Chánh Dương Lão Tổ Chân Nhân viết:
Nhất niên mộc dục phòng nguy hiểm.
Hựu viết: Bất tu hành hỏa hầu, lư lý tự ôn ôn.
Ngũ Chân Dương nói: Mộc dục tại Tiểu châu thiên, vốn là ví dụ,
nay nói ở Đại châu thiên cũng là ví dụ:
Tại tiểu châu thiên nói ví dụ: 2 giờ, 2 tháng. Còn đại châu thiên thì
nói ví dụ một năm.
Phòng nguy lự hiểm, như sau khi Thánh thai kết mà còn tiếp tục
dùng võ hỏa, tức Thánh thai sẽ bị tổn thương.
Tiên cơ có xuất nhập bất định về mộc dục. Nếu Phật pháp bất cửu
trụ, cũng bất định về mộc dục, cũng bất định về mộc dục. Sự cao
quí của mộc dục, là có định tâm phòng nguy lự hiểm. Chính là
phòng cái tâm bất định, phòng mộc dục không theo đúng pháp.
Thập ngoạt bất tất dụng hữu hầu chi hỏa, mà nên dụng công ôn ôn.
Loại hỏa không hầu là chẳng lạnh, chẳng táo, bất hữu bất vô, mới
là ôn ôn đích Chân cảnh tượng.
Vương Trùng Dương Chân Nhân Lão Tổ viết:
Thánh thai ký ngưng, dưỡng vi văn hỏa,
an Thần định tức, nhiệm kỳ tự nhiên.
Thánh thai thành do bởi Chân tinh, là lúc dương khí sơ khởi liền
thể thủ rồi luyện, nếu không dùng võ hỏa thì Thánh thai không kết,
kim tinh không thành, võ hỏa há vô dụng sao. Còn dùng toàn văn
hỏa là sau khi thai đã kết.
Đạo Quang viết: Nhất niên mộc dục cánh phòng nguy.
Thập ngoạt điều hòa tu cẩn tiết. Mộc dục là dùng loại hỏa vô hầu, tức là Đại châu thiên. Nói một
năm là lời nói đại khái, tức là thuyết mười tháng. Thuyết mười
tháng hay một năm là thời gian nhập định. Đến thời gian này cũng
có thể đắc đại định, và xuất nhập. Cho nên mới nói: Cẩn tiết – là
cẩn thủ. Cho nên có thể nhập vào vô vi.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
123
Ta tử cơ quan là tợ mộc dục mà chẳng phải mộc dục, thường định
mà Thần thường giác, nên nói ngã tự tri. Nếu không biết thì hôn
trầm hỏa lạnh, và đơn lực chậm.
Tử Hư viết: Định ý như như hành hỏa hầu.
Như như là như như bất hữu, như vô bất vô. Cơ định ý mà đúng
theo hầu như hữu như vô, mới đắc Chân hỏa hầu của Đại châu
thiên, và mới là Chân hành.
Hựu viết: Khán thời tợ hữu mích thời vô.
Hựu viết: Bất tại hô khư tịnh sổ tức thiên nhiên.
Hựu viết: Thủ Chân nhất tắc tức bất vãng lai.
Câu thứ 1: Đại châu nhập định vốn là nhập hư vô
Nếu luống chấp về vô, tức bị rơi vào không vong, nên nói: Tợ hữu
hữu mà phi hữu. Tợ bất không mà không. Chính tợ vô phương là
Chân không Chân định.
Câu thứ 2: có số tức về vận hành, là nói về hữu vi. Nay đã nhập
định, nên bất tại hữu, mà chuyên chú theo thiên nhiên, để chứng vô
vi.
Câu thứ 3: Chân nhất là tại tiền luyện tinh thời. Luyện mà đắc
Chân tinh, gọi là Chân nhất. Lúc luyện khí thì Chân tinh khí đắc
Chơn thần, dùng khí của Chân tức mà bảo thủ.
Ba thành phần hiệp vào hườn Thần, cũng gọi là Chân nhất. Cả
thảy đều định và bất động, tức là có tức mà vô tức, là không còn
vãng lai.
Cổ vân: Hỏa ký lục bách thiên.
Thiên thiên tương tợ thể Chân diên.
Sách Tham Đồng Khế cũng nói: Hỏa ký lục bách thiên, thiên thiên
tương tợ. Còn chữ thể Chân diên chưa nói ra. Thể chân diên Tiết
Đạo Quang gọi định tức Thiên thiên tương tợ đều qui Nhất đại
định.
Mã Đơn Dương viết: Công phu thường bất gián, định tức hiệu
Linh thai.
Định tức nơi không Thần, là bảo thủ Chân tức để tạo Thánh thai.
Định mà không hề gián đoạn, Thần cũng thường giác vô gián đoạn,
thì Thánh thai mới linh.
Thạch Hạnh Lâm viết: Bất tu hành hỏa hầu, hựu khủng tổn
anh nhi.
Niệm, nếu buông lung mà không chiếu thì Thần khí sẽ lìa nhau,
mà không phải Chánh lý của định. Chỉ do Chân ý vi vi tợ tồn. Nếu
hai khí còn thì Thần cũng còn, đều còn tại nơi định, tức đều hư vô,
và là cơ mầu vô thượng.
Hạc Lâm viết:
Cập chí đả sát thành nhất khối.
Thi vấn thời nhân hội bất hội.
Bất tăng bất diệt hà trục thiêm.
Vô khứ vô lai hà tấn thối.
Tạm dịch:
Cho đến gom lại thành một khối.
Thử hỏi người nay biết hay không?
Chẳng tăng chẳng giảm sao thêm bớt?
Không khứ không lai sao tới lui?
Thần khí hiệp nhất, đều định nhập một khối, tức không còn dụng
hỏa nữa, cũng không giống loại hỏa bách nhật có tăng có diệt. Cũng
không còn trục thiêm, không còn khứ lai tấn thối – là Thần với khí
đã phục qui Thái cực.
Ngã Tổ sư Trương Tịnh Hư Chân nhân viết:
Chan hầu toàn phi cửu lục hào.
Dả phi điên đảo phi tấn thối.
Cơ đồng mộc dục hựu hườn phi.
Định không cửu định Thần thông huệ.
Tạm dịch:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
124
Chân hầu không phải hào cửu lục.
Cũng không điên đảo chẳng tới lui.
Cơ đồng mộc dục lại không phải.
Chân không định lâu Thần huệ thông.
Chân hầu là hỏa hầu định mà không.
Chẳng dùng Tiểu châu thiên cửu lục độ số.
Chẳng đồng ở cơ điên đảo tấn thối.
Chỉ có không định, lâu định, lâu không, thì Thần thông huệ chiếu
rạng rỡ. Cùng đồng với đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, và diệt tận
định.
Khưu Trường Xuân Chân Nhân viết:
Tức hữu nhất hào chi bất định, mệnh phi kỷ dã.
Còn một hơi thở hậu thiên, là còn sanh tử, Chẳng còn hơi thở hậu
thiên, tức sanh tử hết.
Cho nên phải định tức cho đến vô, tức mệnh ấy mới thực của ta,
và do ta tự chủ trương.
Trời đất, quỉ Thần lúc này không còn quản lý về mệnh số của ta
nữa. Sanh tử đều do ta, gọi là bất tử đạo.
Nếu còn một ta tức chưa tận định, thì mạng tại hơi thở, chứ không
do nơi ta. Chân chủ cũng không do nơi ta, nên còn tử tử sanh sanh.
Thử giai ngôn: Luyện khí hóa Thần,
thập ngoạt dưỡng thai, Đại châu thiên chi hỏa hầu dã.
Tiết này do Xung Hư Tử tổng kết thượng văn, về những lời của
chư Thánh đã nói về Đại châu thiên hỏa hầu.
Dư diệc viết: Đại châu thiên chi hỏa bất ke hào tượng, cố phi
hữu tát, ôn ôn tương tục, hựu phi ngoan vô. Sơ tợ bất trước
hữu vô. Chung tắc toàn qui đại định. Thiết bất khả chấp hỏa vi
vô, dĩ vi tự vô, tắc lậc tiểu giải chi quả. Hựu bất khả trụ hỏa ư
hữu dĩ vi thường hành, tắt thất đại định chi qui. Tương hữu
hườn vô, nhất đáo chân định, tắc siêu thoát xuất Thần phi
thăng, xung cử chi đạo tân chi hỉ.
Đại châu thiên hỏa hầu không còn theo hào tượng, nên chẳng phải
là hữu tát, mà chỉ ôn ôn liên tục, lại cũng không phải như ngoại
Thiền ngoan không.
Sách Kim bích Long hổ thượng kinh có nói: Tự nhiên chí yêu tiên
tồn hậu vong.
Du ngọc Ngô lại chú thích: Tiên tồn Thần ư Khí huyệt, nhi hậu dữ
chi tương vong, là Thần tự ngưng, tức tự định.
Lại phải biết, hỏa có đặc tính muốn qui về cõi vô. Nếu không biết
về cơ diệu của tiên tợ hữu, mà vội chấp là vô, hà tất dụng tợ ư hữu,
tức bị đọa hoàn toàn vào vô, mà không được đến Chân vô, và bị rơi
vào tiểu quả thi giải!
Lại nên biết hỏa nầy khởi ở tợ hữu, mà cầu quyết về nơi vô. Nếu
không biết hữu, thì chẳng được viên mãn, mà vội trụ ở hữu, thường
hành ở hữu mà bất vô, tức cũng bị đọa hoàn toàn nơi hữu, làm sao
đắc đại định.
Ta có lời nhắc nhở: Tương hữu hườn vô, nhất đáo Chân đại định,
nhi năng thường định ư hư vô chi diệu cảnh, tức siêu thoát, xuất
Thần phi thăng, xung cử chi đạo tận chi hỉ.
Đó là loại hỏa của Đại châu thiên, là tổng yếu thành Tiên, thành
Phật, liễu Đạo.
Ta lại lấy hóa khí, hóa Thần, mà tổng ngôn ở trước. Trăm ngày
luyện tinh hóa khí, tất dùng công phu hữu vi, là tùng vô mà nhập
hữu, tức Thích gia gọi: Vạn pháp qui Nhất.
Sau mười tháng luyện khí hóa Thần, tất tùng hữu đến vô, tức là
tùng hữu nhập vô, tức Phật nhập Tứ thiền diệt tận định.
Thuyết Nhất qui ư vô, là Thái cực qui Vô cực là bí pháp của Tam
giáo, vốn bất di bất dịch – là yếu cơ, người tu hành không nên
thiếu.
Xung Hư Tử chỉ vì hậu lai mà nói ra, để phòng những kẻ cố chấp
cô thiên, hằng muốn phân môn lập hộ, tạo dựng địa vị cho mình, rồi
tạo ra nhiều mối nghi vọng trong giới tu hành.
Nhược thử Thiên cơ, quần Tiên trực ngữ,
cố phi toàn lộ. Nhiên tán chi tắc các ngôn kỳ lược,
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
125
tập chi tắc tự ngôn kỳ tường.
Các câu này cũng do Xung Hư Tử tổng kết toàn kinh Hỏa hầu, lại
còn chỉ điểm công phu từ luyện Thần về sau, là hướng thượng bí cơ
để hàng Tiên căn chứng ngộ.
Các bậc Tiên sư có nhiều lời nói thẳng, nhưng vì người tu học
chẳng hiểu được.
Từ xưa đến nay, kinh sách nói về hỏa hầu cũng nhiều, nhưng chưa
nói trọn vẹn, hoặc một hai câu hơi mé lộ mà thôi, nên người đời sau
không thể dụng công đúng đắn. Chỉ có người Tiên căn, mới được
Tiên sư chỉ truyền bí quyết.
Ta thấy lời văn tản mác nơi quần thư, hoặc nói sơ lược về thể thủ,
về phanh luyện, mà không nói rõ về Chánh lý. Có chỗ nói sơ lược
về thể dược, mà không nói rõ về huân chưn, về phong cố. Có chỗ
nói sơ lược về Tiểu châu thiên, mà không nói về Đại châu thiên. Có
chỗ nói sơ lược ở hỏa hầu về danh về lý, mà không phân ngôn tiểu
đại.
Có người lúc đương dụng công, trong bụng nghĩ rằng: Hỏa hầu là
bí cơ, nguyên thuộc bất khinh truyền. Thuyết này một nửa có thể
tham đắc, còn một nửa lại nương tha.
Còn tự kỷ thấu hiệp hoàn toàn, có được mấy người! Còn tiền kiếp,
hậu kiếp, hoặc Thánh hoặc phàm, chủng tử hoặc chân hoặc ngụy,
người học đạo khó cùng đạt đến một nghĩ nghị!
Có người phải trải qua vạn khổ thiên tân, vượt núi băng ngàn, chí
mong cầu gặp được Chân sư, để được tiếp nhận phần Chân bí
quyết.
Ta cũng không ngoài định mệnh chung của lớp người khổ chí cầu
Chân sư, nên nay có được bài kinh Hỏa hầu nầy, hầu giúp cho hàng
Tiên căn được chứng ngộ, mà đoạt cơ Liễu tử siêu sanh.
Hoàn toàn hỏa hầu bất tận xuất dư chi xỉ giáp.
Lời nói ra từ nơi cửa miệng của ta, là do ta đã hội tập tất cả lời dạy
của nhiều vị Tổ sư.
Nhi thử tập xuất thế, tắc vị lai kiếp vạn Chân hỏa kinh căn
bản. Hậu lai kiên giả tự năng tùng tư liễu ngộ, bất phục nghi
đọa bàng môn.
Loại hỏa của bàng môn, là loại hỏa hữu tướng. Cũng như nín thở,
là loại nhẫn khí trước tướng, họ gọi là hành hỏa. Còn loại Tiên hỏa
vốn tự nhiên tịnh định, là không hề cưỡng chế.
Nhi thai Thần tự tựu Dương thần tự xuất, kiếp vận tự siêu hể.
Tập định, nhập định, định thành, đều là cơ sở của thai Thần, xuất
Thần, siêu kiếp. Tất dụng và tất chứng.
Đản ư xuất Thần chi hậu, luyện Thần hườn hư cửu niên chi
diệu. Tuy phi cảm ngôn nhi Trung Hòa tập viết:
Cửu tải, tam niên, thường nhất định.
Tiện thị Thần Tiên diệu thả ngôn.
Xuất Dương thần, là lúc sơ chứng phầm Thần Tiên, cũng như
trong bụng mẹ sơ sinh hài nhi, tuy đã đủ hình người, nhưng chưa
thành con người cụ túc, nên ví Thần nầy như anh nhi ấu tiểu, chưa
thành nhân, nên phải nhờ công ơn cha mẹ nuôi nấng, nên ví dụ là
nhũ bộ ba năm.
Cổ nhân sở ngôn thành tựu chỉ trong một hai năm.
Nhủ bộ là Thần khí đã định, mà Chân ý còn thêm gia định. Gia
tăng cho đến thường thường tại định, và bất tất ở xuất. Là tợ nhủ
mà lại nhủ, cho đến thành con người lớn, như Thần đã được Lão
thành.
Nếu liền dụng công luyện Thần hườn hư với công phu cửu niên, là
thời hạn luyện số chín năm, hay trăm năm, hay ngàn năm, …
Nếu về tâm nguyện cứu thế chưa hoàn, thì chẳng luyện chín năm,
mà quyền trụ thế để cứu thế. Còn muốn siêu thế để thượng thăng
lên hư vô, tức phải cửu niên luyện Thần hườn hư.
Thực phi thế học sở năng khinh ngộ khinh dụng giả,
tất sĩ Liễu đạo chi sĩ, dĩ hư vô thực tướng nhi dụng chi.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
126
Liếu đạo chi sĩ là Thần xuất định. Chỉ đắc định là đắc hư vô sơ cơ,
mà sau có thể đến tột hư vô, mới được chứng ngộ về cơ dụng nầy.
Đệ bất khả dĩ nhất thừa, ký đắc toại vong xưng liễu dương, bất
hành mạc hậu hườn hư.
Lời nói nầy, nếu là kẻ tiểu căn tiểu khí, tự hào cho thiểu đắc là đã
viên mãn, nên không cầu hườn hư, cuối cùng chẳng được hườn hư.
Tắc ư Thần thông cảnh giới tất cảnh, trụ cước bất đắc.
Thần thông tại lúc hóa Thần, và Thần thông linh vô ngại. Lúc
hườn hư Thần cũng thông linh vô ngại. Đó là sơ đắc Thần thông.
Cho đến lão thành mới được chứng quả Thiên Tiên.
Hậu lai giả cọng miễn chi dự chương Tam giáo dậc dân
Khưu Trường Xuân Chân nhân môn hạ đệ bát phái.
Khưu môn hạ nói: Đạo đức thông huyền tịnh Chân thường giữ
Thái thanh cho một dương lai phục.
Phân phù lãnh tiết.
Tuân Thượng để pháp chỉ là thụ nhận phù tiết, cũng như y bát của
Phật Tổ.
Thọ đạo đệ tử Xung Hư Tử, Ngũ Thủ Dương thư ư
Sinh Dương sám ký thiên nhị bách tứ thập nhị niên
chi Minh thời Vạn lịch Ất Mão Xuân nhật vân
Bài kinh Hỏa hầu nầy là đáp lại lời đòi hỏi của Cát Vương Thái
Hòa, tối sơ phát bút trước tác.
---oOo---
Chương Mười Lăm
CHÂN LƯ ĐẢNH
1. TRÍ ĐẢNH PHANH LUYỆN
Ngộ Chân Thiên
Tiên bả Càn Khôn vi đảnh khí
Thứ đàn ô thố dược lai phanh.
Ký khu nhị vật qui Huỳnh đạo.
Tranh đắc kim đơn bất giải sanh.
Càn Khôn Ly Khảm là cương lãnh của Thiền công. Tiết này xuất
xứ từ sách Tham Đồng Khế, đề minh về đảnh khí dược vật.
Càn Khôn là đảnh lư. Càn Khôn có hiệp nhất, mới có dược vật ô
thố. Thố ô có phanh luyện mới thành kim đơn. Sau khi phanh luyện
cần phải khu trục dãn thượng, gọi là vận Châu thiên. Luyện phanh
gọi là pháp điên đảo âm dương thủy hỏa. Lúc chưa luyện thì nước ở
dưới, lửa ở trên, nên cứ mãi tẩu lậu, và con người phải chịu sanh tử.
Nay dụng công phanh luyện, thì đem nước đặt lên trên, đem lửa đặt
bên dưới. Lửa đun nước bốc thành hơi, và nước lửa không còn tẩu
lậu như trước, Nho gia gọi là pháp Thủy Hỏa Ký Tế, Tiên gia gọi là
Dĩ Thần ngự khí, Thích gia gọi Chánh pháp nhãn tạng.
Thố là khí diên, ô là khí hống, là hai khí chí bửu của tâm và thận.
Ô còn gọi là kim ô, là khí Thiếu âm trong cung Thái dương Ly tâm.
Thố còn gọi là bạch thố, là khí Thiếu dương trong cung Thái âm
Khảm thận.
Nói khu nhị vật, là sau khi phanh luyện hai khí kim ô và bạch thố
rồi, tức hai khí hỗn hợp làm một, Chân ý mới đệ dẫn chúng lên
chầu Thiên môn rồi đưa về Đơn điền, công phu này Cổ nhân tính là
bốn hầu.
Nhật ô, nguyệt thố, vốn là Càn khôn tinh, nên lấy Càn khôn ví lư
đảnh, ô Ly, thố khảm ví dược vật.
Lúc trong con người có cơ dương động, mà chỉ một thận động,
còn tâm bất động, đó là Chân động, Chân thời, tức có Chân dược
sinh, phải lập tức thể thủ qui lư để huân luyện. Chân dược đó là nhi
vật đã hiệp thành một. Chân ý đệ dẫn Chân dược theo đường đạo lộ
âm dương gọi là đường Huỳnh đạo, cuối cùng hội qui về Trung
cung.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
127
2. CHÂN LƯ CHÂN HỎA
Ngộ chân Thiên
Hưu nệ đơn táo phí công phu
Luyện dược tu tầm Yển nguyệt lư,
Tự hiểu thiên nhiên Chân hỏa hầu,
Bất tu sài thán cập xuy khư.
Lời thi trước đã nói về lư đảnh, nhưng sợ người còn nghi ngờ và
hiểu lầm, nên bài thi nầy mới chỉ xuất Yển nguyệt lư, trong lư có
Chân hỏa. Nhưng vốn thiệt: đảnh nguyên vô đảnh, dược nguyên vô
dược.
Đào Chân Nhân chú thích: Thiên nguyên đại đơn, thập nhị Thần
phù, cửu (9) bạch tuyết khả dĩ phục thực phi thăng.
Chỉ vì Chân truyền khó gặp, nếu gặp mà Trời không ban cho, cũng
khó thành công. Cho nên, Thánh nhân mới dạy: Chớ nệ đơn táo phí
công phu.
Chân dược là tinh hỏa của kim ô, ngọc thố.
Yển nguyệt lư là tượng của Khôn lư.
Trong lư có khí Chí dương. Lư là khí cụ để luyện dược. Sách
Tham Đồng Khế nói: Bạch hổ vi ngao xu. Là trong cơ tiêu tức tấn
thối, tự nhiên có thiên nhiên hỏa hầu, nào dùng củi than với công
phu thụt thổi.
Yển nguyệt lư tợ như mặt trăng khuyết nằm ngửa, đó là Bắc hải,
nguyên thủy Tổ khí hằng tồn nơi nguyệt lư.
Thuần Dương Tổ Sư nói: Khúc giang thượng, hiện nguyệt hoa
huýnh tịnh.
Nguyệt hoa là Chân dược trong nguyệt lư. Huýnh tịnh là Chân
dược rất thanh khiết rất rực sáng.
3. LƯ ĐẢNH LƯỠNG KHIẾU DƯỢC
Ngộ Chân Thiên
Yển nguyệt lư trung ngọc nhụy sinh.
Châu an đảnh nội thủy ngân bình.
Chỉ nhân hỏa lực điều hòa hậu.
Chủng đắc huỳnh nha tiệm trưởng thành.
Yển nguyệt trong lư thuộc âm, trong đó có ngọc nhụy là dương
khí, tức là khí sơ huyền của bạch hổ.
Châu sa dương đảnh, trong đó có thủy ngân âm khí, tức là khí sơ
huyền của thanh long.
Đào Chân nhân chú thích: Ngọc nhụy là dương khí trong lư. Sanh
là hầu âm phù đến. Thủy ngân là âm tinh trong đảnh. Bình là phối
hợp quân bình, gọi là hai phân thủy đến, ta lấy hai phân hỏa cùng
phối hợp.
Sanh là cơ dương động của Chân phù.
Bình là khí diên tương đương với khí hống.
Truân và Mông là hai thời gian mờ mờ, là lu kim thủy đa cư nghi,
gọi là điều hòa.
Kim thai có triệu, Thần hỏa châu tao (đi châu lưu khắp rồi gặp
nhau), tự nhiên trưởng thành.
4. AN LƯ LẬP ĐẢNH
Ngộ Chân Thiên
An lư lập đảnh pháp Càn khôn,
Hà luyện tinh hoa chế phách hồn,
Tụ tán nhân uân thành biến hóa,
Cảm lương huyền diệu đẳng nhàn lôn (luận)
Bài thi nầy thừa tiếp theo bài trên về lư đảnh dược vật mà nói.
Tinh hoa là Chân dược kim ô ngọc thố.
Hà luyện là dùng Chân hỏa huân chưn Chân thủy – là luyện nấu
loại tinh của mộc, khiến cho hồn đến chiếu phách. Còn luyện loại
hỏa của kim, là khiến cho phách lại cầm giữ hồn, tức kim đơn có
điềm tốt.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
128
Tụ tán nhân uân là Chân cảnh tượng sau khi đắc dược, rồi theo cơ
biến hóa đó mà sanh ra thân con người. Có được phúc thịnh Thần
Thánh, đều do cơ diệu dụng của huyền tẩn.
Tinh là hống tinh, hoa là diên hoa.
Chế là lưỡng tương câu hệ, đó là địa phách cầm châu hống, Thiên
hồn chế thủy kim.
Hà luyện chính là công phu chế hóa, cũng là công phu thủy hỏa ký
tế mà thôi. Có thăng giáng thượng hạ tác dụng. Tự có diệu các của
nhân uân tụ tán, là tự nhiên như nhiên.
Lời thi nầy toàn chú trọng về cơ tụ tán nhân uân bốn chữ.
Càn không ở bên dưới, Khôn chẳng ở bên trên, đó là hiện tượng
của cơ Bỉ. Càn khí giáng mà Khôn khí thăng, là hiện tượng của cơ
Thái.
Tụ tán là cảnh tượng của sự bồi hồi hỗn hợp. Nhân uân là khí
tương tợ như mùi vị nồng của men rượu. Trước tùng vô sau biến
hữu gọi là biến. Còn tùng hữu như vậy, há chẳng minh biện sao.
Lý Chân nhân chú thích: Tụ tán là hiện tượng bàng triền của Chân
khí, là tụ mà chẳng tụ, tán mà không tán. Nhân uân là hai khí giao
hội, tợ như người vui say thơ sướng dung hòa.
Đào Chân Nhân chú giải: Vô biến hữu, là nói trong hư vô phát
sinh Chân dược. Còn hữu hóa vô, là tinh khí hóa Thần.
An lư lập đảnh, bốn chữ nầy xuất xứ từ quyển Đồng phù thiếc
khoán.
Huyền diệu, hai chữ gốc của Đạo đức kinh, huyền chi hựu huyền,
chúng diệu chi môn.
Công phu Thiền định đoạt được cơ huyền diệu, là do người tu
hành đã biết rõ về sở tại của qui căn phục mạng, của chỗ ngưng
Thần tụ khí, của chỗ luyện đơn nấu thuốc.
Nếu không biết rõ về chỗ nầy, mà tu mà luyện, Cổ nhân gọi là
Thiền không tịnh khô, dù cho có tu đến vạn kiếp cũng chẳng thành
công!
5. ĐẢNH KHÍ TRỰC LUẬN
Thiên Tiên Chánh Lý
Xung Hư Tử nói: Chánh lý tu Tiên và luyện kim đơn, cùng với các
bậc Thánh chân ngày xưa, đều mượn hai chữ kim đơn để phát minh
Tiên đạo. Tiên đạo lấy Thần và khí qui phục về Đơn điền, để phanh
luyện nơi trong lư đảnh, để thành hạt bửu châu.
Cho nên về Thần khí thì có ví dụ diên hống, còn Đơn điền thì có
ví dụ Lư đảnh.
Cổ Thánh chân vốn là luyện tinh, luyện khí, luyện Thần, đều qui y
về chốn căn bản mà nói, phàm nhân vì không biết, nên lấy phàm
diên và phàm hống để nấu luyện rồi phục thực, nên bị đọa sa vào
nẻo sanh tử.
Còn thuyết Lư đảnh lại không hiểu được lý Chân lư đảnh bên
trong con người, lại lấy lư và đảnh của nam nữ bên ngoài! Thật là
một tà thuyết, gây tội lỗi lớn trên trường tu học!
Chỉ có hai chữ Lư đảnh, mà phân ra hai nẻo đường mê và ngộ, làm
sao dám khách quan, không minh biện để cứu vãn cho số người mê.
Lư đảnh vốn là Tiên cơ, là điều chí yếu, có thủ vỹ, có qui phục, có
biến hóa.
Thủ vỹ là luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa Thần. Còn dụng hỏa
hầu thì phải có Lư đảnh để phanh luyện, để phong cố. Còn đã đem
Thần khí về căn cội của Đơn điền, thì đơn điền là đảnh khí, và mới
có cơ diệu dụng.
Có qui phục, là chỗ ngưng Thần tụ khí về.
Nếu không có chỗ qui phục thì Thần trì khí tán.
Có biến hóa, là nhờ có Lư đảnh mà âm hóa thành dương, cuối
cùng được Thuần dương.
Lư đảnh, từ xưa đến nay vốn là một danh mục vào hàng trọng yếu
trong công phu Thiền định. Có danh mục tức có thực nghĩa. Có
thực nghĩa tức có sở dụng nhu yếu.
Chẳng biết được trong thân con người vốn có ví dụ Càn khôn Lư
đảnh, tức không biết được chỗ nào để luyện đơn nấu thuốc, để khử
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
129
trược lưu thanh, để thuần dương hóa tánh mạng. Cuối cùng bị hóa
thành không vong.
Còn có danh gọi nội đảnh và ngoại đảnh, hay kim đảnh, ngân
đảnh, diên đảnh, hống đảnh, thủy hỏa đảnh, châu sa đảnh.
Nói ngoại đảnh là nói về hình giới của Đơn điền. Thích gia nói:
Pháp giới tu hành, hay là Phật pháp giới.
Còn nói nội đảnh là chỉ Chân khí trong Đơn điền. Thích ví dụ là
Hoa tạng, là Tịch quang quốc độ.
Căn cứ theo hình mà nói về luyện hình, tức là cơ diệu dụng của
Luyện tinh hóa khí.
Cho nên Cổ nhân có nói: Tiền đối tề luân hậu đối thận, trung gian
hữu cá Chân kim đảnh.
Tiên đạo: Thần ngự khí cũng tại chỗ đó.
Còn nói về khí, là nói về cơ diệu dụng của Luyện khí hóa Thần.
Cho nên cổ nhân có nói: Tiên thủ bạch kim vi đảnh khí. Đó là
thuyết của Sinh-Dương Chân-quân.
Cổ nhân lấy hắc diên ví dụ cho Thận. Trong thận phát sinh Chân
khí, lại ví dụ là bạch kim. Có được bạch kim nguyên khí, có thể đắc
trường sinh siêu kiếp vận. Cho nên có lời nói: Trước là dung đảnh
khí để hườn Thần, sau mới có thể đoạt cơ Siêu thoát.
Lại nói: Cần phân minh nội đảnh là huỳnh kim. Trong bạch kim
có sắc vàng mậu thổ, nên gọi huỳnh kim.
Còn nói bạch nói huỳnh là nói về âm dương hai khí. Nay nói rộng
ra là nói về Lư đảnh, về kỳ thủy là Luyện tinh hóa khí, muốn phục
hườn Tiên thiên Chân khí chỉ có Chơn thần mới có thể đắc. Tức
Chơn thần điều lãnh Chân khí qui hướng Hạ đơn điền, còn khí hô
hấp cũng theo Chơn thần để phục hoàn Chân khí. Tức là mượn để
nói: Thần danh nội đảnh.
Nếu không có Thần khí lấy gì để chiêu nhiếp khí, là chỗ dừng là
nơi Hạ đơn điền, và gọi là ngoại đảnh. Lại khí tàng tụ nơi bản vị,
nên gọi là chỗ có loại Chân kim đảnh.
Còn ngưng Thần nhập khí huyệt, là lúc dương tinh phát sinh, vốn
muốn buông ra ngoài, nếu muốn đem dương tinh trở về lư, thì phải
hồi quang phản chiếu, ngưng Thần nhập khí huyệt.
Chân khí sở dĩ được qui căn là do Chơn thần. Thai nhờ có Chân
khí nuôi dưỡng mới thành Linh thai.
Lấy nguyên khí Tiên thiên tương định nơi Trung điền, tợ như quan
tỏa Thần mới tàng phục, mới định lâu dài nơi trung.
Nếu không có Chân khí lấy gì để lưu Thần. Còn sở thủ nơi trung
điền là ngoại cảnh.
Còn Thần sở cư nơi bản vị, nên Thần mới được tịnh định, và tịch
chiếu nơi đó.
Tất cả đều lập danh điên đảo, để xướng minh cái Đạo nầy. Lữ
Tiên Ông lại nói: Chân lư đảnh, Chân thác thược, tri chi chân giả
nhiên hậu dụng chi chân. Dung chi chân giả, nhiên hậu chứng quả
đắc kỳ chân. Cho nên về hườn đơn, về Lư đảnh, phải nên minh
bạch, há chẳng tham cứu sao.
Lại há có sở dụng Lư đảnh ngoài thân con người, mà có thể cầu
được Chân lư đảnh sao.
Cổ nhân có nói: đều tại khí Thánh và Tánh linh, mà đắc được
Chân truyền.
Còn hườn Thần nhiếp khí, diệu tại hư vô.
Tất nhiên trước phải có nơi qui y, mà không hề lìa Lư đảnh. Có
được vậy mới thành Thăng định.
Đó là sự biện biệt về Lư đảnh, về đảnh khí, không nên xem
thường.
---oOo---
Chương Mười Sáu
CHÂN THAI TỨC
1. THAI TỨC TRỰC LUẬN
Thiên Tiên Chánh Lý
Xung Hư Tử nói: Cổ Thai Tức kinh có chép:
Thai tùng phục khí trung kết,
Khí tàng hữu thai trung tức.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
130
Lời nói trên là yếu pháp, từ quá khứ đến vị lai, của chư vị Thần
Tiên và Thiên Tiên.
Trong thân nam tử làm sao kết thai, muốn kết được một thai tất
phải có nguyên nhân. Nguyên nhân đó là do sự tàng phục Chân khí
nơi khí huyệt mà kết thai. Chân khí tàng phục mà kết. Chân khí vốn
tịnh mà bất động. Muốn cho Chân khí bất động, tất phải dụng công
tàng phục, là Chân ý phải an trụ nơi Cốc thần. Chân khí càng tàng
phục, thì thai sẽ trưởng vượng. Thai trưởng vượng đến viên mãn, là
yếu pháp của Thiên Tiên. Chẳng phải vậy thì lấy gì để thành thai.
Nhưng thai tức cùng phục khí vốn là một việc. Sao còn chia phân
lưỡng luận?
Chỉ vì hoài thai, dưỡng Thần, phải dùng thai tức, sau mới thành
thai, và Thần mới trụ nơi thai, nên Cổ nhân mới nói thai tức.
Nay cũng nói rõ về thời Luyện khí hóa thần là thuyết phục khí.
Cũng nhờ phục khí mà được tinh hườn hóa khí, và luyện dược để
đắc đại dược. Cổ nhân chỉ nói phục khí, nay cũng theo đó mà nói
phục khí. Lời nói của trước sau có sự hỗ tương để minh lý, để cho
người nay biết về cơ diệu của hai lời nói, mà không ngờ quấy chấp
quấy là hai.
Ta muốn giải thích lại rõ ràng, nên mới làm ra bài trực luận này.
Sơ thời, thân con người chỉ có hai khí hiệp nhất là Chân khí trong
hư không mà thôi. Cũng vô thai, cũng vô tức. (Lời nói vô thai vô
tức, là khởi điểm cho hạ văn, trở về cơ chứng nghiệm phẩm Tiên).
Nhân mẹ hô hấp mà thai được trưởng thành, nhân bởi thai mà hơi
thở được trưởng vượng (tu Tiên cũng do hô hấp mà thai được
trưởng thành. Cũng do thai mà thai tức được trưởng vượng).
Cho đến lúc thai toàn, cơ mầu nhiệm là do sự hô hấp của mẹ mà
thành cơ hô hấp của con. Con hô hấp suốt ngày đêm mà không hề
buồn bức, đó là cơ hô hấp của con không qua mũi miệng, chỉ thông
nơi lỗ rún, nên tợ như vô khí tức. Đó chính là cảnh tượng của Chân
thai tức. (Cổ nhân gọi nội khí bất xuất, ngoại khí bất nhập. Cũng
không phải là bế tức, mà do hơi thở thông thấu nơi lỗ rún).
Li thai thì tức liền đoạn. Tức là Chân tức (Lúc còn trong bụng mẹ,
miệng mũi bị thai bào bít kín, nên chỉ thở nơi lỗ rún. Lúc người con
ra khỏi bụng mẹ thì hai khiếu miệng mũi mở hoát, còn khiếu rún bị
đóng kín. Cho nên con lúc nầy phải hô hấp theo mũi miệng, gọi là
cơ hô hấp hậu thiên sanh tử. Ngày nay tu hành phải hiểu rành về cơ
thai tức như khi còn nằm trong bụng mẹ, mới đoạt được bí quyết
của Chân thai tức).
Không có mẫu tê (rún) và tử tê tương thông, là không đắc Chân
tức. Chẳng cùng hướng theo khẩu tỷ của tự thần để dấy lên cơ hô
hấp, tức cùng hô hấp trong thai tương đồng, mà chỉ tạm khác về
khiếu. Chánh lý nghịch tu phản hườn, cũng phải dùng hô hấp hằng
ngày, để phản hườn Chân tức trong thai.
Lúc phản hườn hô hấp, dùng khẩu tỷ hô hấp mà phục qui cơ sở
thai tức. (cơ sơ thai tức là Đơn điền, Hứa Sinh Dương nói: Tê gian
thai tức kết thành đơn. Cốc thần bất tử do thai tức. Trường sinh
môn hộ yếu miên miên. Nguyên thủy đắc đạo liễu kinh có chép:
Trung cung thai tức vi Huỳnh Bà. Bảo Phát Tử nói: Chứng đắc thai
tức, là không còn hô hấp khẩu tỉ, mà hô hấp như trong bào thai, là
thành Chánh quả).
Như lúc dụng công thai tức, dần dần luyện cho thai tức đến Chân
vô. Chân vô là không còn hô hấp hậu thiên. (gọi hơi thở trong thai
cũng Chân vô, Thiền tông gọi vạn pháp qui Nhất và nhất qui vô).
Chân vô là lúc con người chưa sinh, và phản hườn đến lúc chưa có
hơi thở, cùng cảnh giới trước khi chưa có thai, được như vậy tức
không bị rơi vào con đường sanh tử. (con người còn hô hấp hậu
thiên thì còn bị sanh tử. Chân vô là không còn hô hấp hậu thiên, tức
không còn sanh tử).
Sở dĩ được bất sanh bất tử, chẳng phải là việc bỗng nhiên không
có bằng cớ, mà là do cơ hô hấp đã qui trung, mà nên thai tức. (Loại
khí hô hấp này rất khó chế phục, phải nhờ nguyên khí tương ý, mới
có thể tương định và thành thai tức, đó là Chân tức đã thành.
Chân thiền định cũng tợ như vậy.
Như phàm phu ngoại đạo không biết nguyên khí, mà chỉ dùng một
khí hô hấp hậu thiên qui ư trung, mà dám vọng ngôn là nhập định
thai tức. Làm gì có thai mà định. Còn nén khí thì khí không có chỗ
dung. Lại nói bế khí cấp, đó là sát nhân! Cuối cùng cũng không
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
131
cưỡng nén được loại khí nơi khẩu tỉ, lại hô hấp rào rào đều do đi
trái ngược lại Chân tức.
Những kẻ giả đạo và giả thiền đều như vậy. Chư học giả nên biện
biệt để phòng nguy).
Sở vị: Cô âm bất thành. Cũng là một lý. (Loại khí hô hấp hậu thiên
có hình thuộc âm, nên lời trên nói: Cô âm bất thành).
Tất phải có Tiên thiên khí cơ đúng lúc phát động, lại có nguyên
linh độc giác, cùng hô hấp tương y, mới thành đại dược, và chuyển
qui Trung đình, là cơ sở dưỡng thai, ư thử thời.
(Thử thời là đúng thời dưỡng thai, là dùng Chân khí để trợ dưỡng
cho thai, dùng Chơn thần để chủ tể cho thai, dùng khí hô hấp tạo
thành Chân thai tức).
Sau đó mới dùng thai tức dưỡng thai Thần, và được Thần khí thừa
theo loại khí thai tức tại trong một định.
(Thần khí cùng với thai tức tương thừa, mới là công phu phối hợp
chính đích tu về Chân thai tức, sở dĩ được thành Chân thai tức là do
đắc định. Nếu không có Chân khí thì chẳng thành kim cương bất
hoại đối với cơ thân. Cho đến lúc tọa Thiền lại bị hôn trầm, làm sao
được trường giác trường minh, để trường ngự khí nhập đại định
thành thai? Có bị gián đoạn cũng không phải thai tức).
Là lúc mới kết thai, sách Nhập Dược Cảnh có chép: Sơ kết thai
không bổn mạng nhi đắc. (Bổn mạng là 2 khí: Nguyên khí là gốc,
sinh thân mạng. Còn loại khí hô hấp là khí khí cụ thành thân mạng.
Lúc mới kết thai, hai khí của bổn mạng phải tùy theo hiệu lịnh của
Thần đồng ngưng nơi trong để tạo thành thai).
Tuy tợ hữu vi vi hô hấp, như tại tê luân, mà như chẳng tại tê luân,
mà tại hư không, chánh độ nhơn kinh.
Sở vị nguyên thủy treo lững lờ một hạt bửu châu, cách đất 5
trượng, như đức Thế Tôn tại tiền địa vượt lên bửu tháp tại hư không
trung. Các lời nói đều là như vậy, đều dụng công vận triền chân tức,
để dần đến thành thai, rồi tuyệt ly khẩu tỉ hô hấp, chỉ còn cơ hữu tác
vi tồn nơi thai. Nhưng về Chân tức nơi thai lúc đầu tuy tợ hữu mà
cuối cùng lại tợ vô, rồi đến Chân vô, đó là Chân thai tức, và được
trưởng thành Dương Thần.
(Nếu chưa có đại dược, thì phục thực Chân khí. Nếu chẳng phải
tam gia tương kiến, thì chưa thành Chân thai tức, và Thần được
thuần dương).
Cứ như vậy và hằng lâu không hề gián đoạn, miên miên mật mật,
vô thời vô khắc, mà chẳng phải là trong thai có cảnh tượng vô tức.
Lúc này là lúc ấn chứng Dương thần đại định, tuyệt vô động tịnh
khỉ diệt, tức là thai viên. Sách Nhập Dược Cảnh có chép: Sở vị
chung thoát thai khán tứ chánh nhi đắc. (Khán tứ là kiểm nghiệm về
tứ chánh công phu tại hữu và tại vô. Tại hữu thì thai chư được viên
dung, còn hữu tức còn phải có công phu dưỡng thai. Chỉ có đạt đến
vô mới là diệt tận định, và dương thần đã thành tựu).
Thai tức đã hườn Thần, mới là hoàn tất.
(Thai sự đã hoàn tất, là diệt tận định. Phật cũng gọi diệt tận định là
nhập Niết Bàn).
Sự việc nơi trung quan mười tháng đã được hoàn tất, tức được ấn
chứng phẩm Thần Tiên.
Còn phải hướng Thượng điền, để luyện Thần hườn hư, mà chứng
phẩm Thiên Tiên.
Tại nơi mỗi bậc công phu đều phải biết rõ. Cho nên hườn Thần lên
Thượng điền, để xuất Thiên môn, để cho Dương thần được hiển
hiện.
Có công phu thoạt xuất và thoạt nhập là tại sao vậy?
Nếu lục căn còn bị ma mà vọng xuất!
(Nếu Tánh mạng đã thuần dương, thì lục căn không còn ma, vì âm
đã tận nên ma chẳng còn. Nếu âm ma chưa tận tuyệt, mà xuất Thần,
gọi là vọng xuất).
Vọng xuất thì Thần sẽ vọng tẩu, lại bị mắc vào ma cảnh, hơi thở
cũng chạy ra hai khiếu khẩu tỉ. Cần phải gấp rút thu nhập, tức là
nương theo Chân tức mà qui thai.
(Tiết này nói về nguy hiểm nơi mười tháng cần phòng).
Lúc này là lúc xuất Thần, nếu đáng xuất thì phải xuất.
(xưa Lam dưỡng Tố lúc thai đã thành, nên xuất mà không biết
xuất! Lưu Hải Thiềm mới ghi vào ĐƠN THƠ, nói rõ về pháp xuất
Thần).
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
132
Lúc đáng xuất, khởi một xuất niệm là xuất dương thần ra ngoài
cửa Thiên Môn. (Thiên cung có bốn cửa: Ngọc Chẩm, Bách Hội,
Nê Hoàn Cung, và Sơn Căn. Cửa xuất thần nhập Thần là cửa thứ
ba).
Nếu xuất lâu, sợ Thần còn mê thất, mà có niệm lỗi lầm.
Cổ nhân có dạy: Thập bộ, bách bộ … đều phải chiếu cố).
Cho nên liền nhập thượng điền, nương theo cơ định hư vô. Sở dĩ
Thần đã xuất thai, ví dụ như em bé còn ấu tiểu, cần phải ba năm
nhũ bộ, để được thuần định. Lại còn nói chín năm một định.
Còn nói về lúc sơ thời nhập định, thì thời nhập định nhiều hơn thời
xuất định. Lại phải xuất thì nên cần mẫn, còn nhập phải nhanh
chóng. Cho nên ta có nói: Xuất định chi sơ, tức là nhập định chi
thủy.
Tuy đã được chứng quả Thiên Tiên, nhưng vẫn còn có thời nhập
định. Đức Thế Tôn cũng nói: Hư không giới tận, Ngã thử tu hành,
chung vô hữu tận. Chính là như vậy.
Cho đến sau thời gian cuối cùng của Trời Đất, là lúc siêu quá kiếp
vận, cũng phải có thời nhập định. Cũng như Tiên Phật dĩ thượng, là
vô Tiên vô Phật diệu cảnh, là chỗ cao tột của Thiên, của Tiên, của
Phật.
Lời của ta nói ở đây, để cho các hàng có Tiên căn hậu lai được
đồng chứng.
(Bài Thai tức trực luận này là bí quyết của Thiên công. Sau khi
làm xong ta muốn dấu riêng cho môn hạ làm tài liệu tu học, nhưng
vì bất ý, nên có người lấy trộm. Nho gia gọi thiết thủ (trộm lấy),
Tiên thư gọi tâm ái mộ.
Lời trực luận này có phần tiết lộ Huyền cơ, mà từ xưa các bậc
Thánh nhân không hề thấu lộ. Nay ta ý muốn cho hàng môn hạ
được chứng ngộ, nhưng có lẽ Thượng Đế không muốn ban riêng,
nên mới đăng vào quyển Thiên Tiên Chánh Lý, được tương truyền
đã hằng bốn năm thế kỷ, cũng là Thiên ý đã định).
---*---
Cuối thế kỷ 20, quyển Thánh kinh nầy ra đời với nội dung tuyển
tập trên 50 quyển Chân kinh có đăng bài Thai tức trực luận này,
không ngoài chủ đích làm sáng tỏ Chân truyền của nên Đại Đạo.
Chư học giả nên quan tâm.
2. THAI TỨC KINH
Kim Đơn Đại Thành
Thai tùng phục khí trung kết
Khí tùng hữu thai trung tức.
Thái hư nhân uân, nhất khí khống thần, phục thủy kết thai, thai kết
nãi tức. Thai sơ như hoa, tê như đế, đế đế liên bào, mẫu hô diệc hô,
mẫu hấp diệc hấp. Hô hấp vi tức. Tịnh cực thuần dương nhật
trưởng, di nguyệt hình toàn đản sinh.
Thử Nguyên Thủy dĩ thị nhân dục, chuyên khí trí nhu như anh nhi.
(trong cõi thái hư có khí nhân và khí uân, tức là khí Chân dương và
khí Chân âm, đều thuộc Tiên-Thiên Chân-khí.
Nhất khí khống thần: là Tiên-Thiên Chân-nhất khí, là loại khí sinh
ra Trời, đất, người, vạn vật.
Phục thủy kết thai: Chân khí có được tàng phục nơi đơn điền thì
Linh thai mới kết.
Thai kết nãi tức: Linh thai đã kết, phải dừng võ hỏa, nếu còn tiếp
tục ắt hại Linh thai.
Thai sơ như hoa: Linh thai mới kết tợ như đóa hoa, tợ như minh
châu, tợ như xá lợi.
Tê như đế, đế đế liên bào: Cái rún có cái đế tợ như chùm rễ đeo
liền với bào thai.
Mẫu hô diệc hô, mẫu hấp diệc hấp: Lúc anh nhi còn trong bụng
mẹ, hễ mẹ thở ra con cũng thở ra, hễ mẹ hít vô con cũng hít vô. Mẹ
hít vô là khí hậu thiên, con tiếp nhận khí hậu thiên của mẹ rồi vận
chuyển theo cơ Chân tức của các bậc Chân nhân, và chế hóa thành
Tiên thiên Chân khí.
Hô hấp vi tức: là hơi thở của con người. Hơi thở có nhiều loại, như
phàm tức là hơi thở của lớp người hậu thiên phàm nhân, Chân tức
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
133
là hơi thở của các bậc Chân nhân thuộc Tiên thiên. Qui tức là hơi
thở của con rùa, nó thở rất sâu tận bao tử, và thở rất chậm rất nhẹ,
một phút nó thở chỉ có vài hơi, còn kẻ phàm phu thở đến 20 hơi.
Qui tức còn gọi là vi vi chi tức. Người nào thở như rùa, đó là hàng
Quí nhân, tu có thể thành. Còn có loại hổ tức là thở như con cọp, là
tiện nhân. Thầy Trang Tử nói: Chân nhân chi tức dĩ chủng, phàm
nhân chi tức dĩ hầu.
Thở càng sâu, càng chậm, càng vi vi, thì càng sống lâu, càng tăng
sức khỏe, càng giảm bịnh tật. Còn thở cạn, thở nhanh, thở có tiếng
động lớn, thì tuổi thọ càng ngắn, đều thua cách thở trên.
Thiền công có pháp điều tức, cùng là pháp trọng yếu.
Tịnh cực thuần dương nhật trưởng: Tịnh cực cũng là pháp thuần
dương tánh mạng. Con người hậu thiên cả tánh lẫn mạng đều có hai
thành phần âm dương, nên có thiện có ác, có tử có sanh.
Công phu tu luyện rất đơn giản, chỉ là dùng Chân hỏa huân hóa
thành phần âm ác trong con người trở nên dương thiện là thành
công.
Đó là Thủy Hỏa ký tế, là dĩ Thần ngự khí.
Di nguyệt hình toàn đản sinh: Trọn tháng hình mặt nguyệt vẹn
tròn, là ngày rằm âm lịch, là lúc mặt nguyệt mới sinh phách, nên Cổ
nhân có nói: Thập lục thủy sanh phách. Câu nầy ví dụ: Thần khảm
thủy đã đến lúc Chân khí cực mãn hay cực tịnh, mới cơ động phát
xuất và biến sinh nguyên khí.
Thử Nguyên Thủy dĩ thị nhân, chuyên khí trí nhu như anh nhi:
Những lời nói trên là lời nói của Đức Nguyên Thủy khải thị cho
lớp người tu, hãy luyện khí tính như em bé, đó là cơ khắc kỷ Địa
Thiên Thái.
Khí nhập thân lai, vị chi sanh,
Thần khứ li hình, vị chi tử.
Hình, thân dã. Thần, khí chi linh giác, hình chi chú dã. Khí thành
hình, hình Thần bất li, tức khí nhập thân lai. Thần trụ hình cố
trường sinh. Thần khứ tắc khí tán. Hình bại nãi tử, cố viết: Sanh chi
cơ. Tử giả sanh chi căn,
Cơ thể hữu hình của con người là thân mệnh.
Thần là cơ linh giác của khí, là chủ nhân của thân hình. Có khí
mới nên hình, hình với Thần không lìa nhau thì có Chân khí vừa
sinh vừa lại. Thân an trụ nơi Cốc thần thì được trường sinh. Thần
buông ra ngoài thì khí tán. Hình bị bại hoại thì mệnh sẽ chết, đó là
cơ của sanh, là nguồn gốc của sự chết.
Tri Thần khí khả dĩ trường sinh,
Cố thủ hư vô, dĩ dưỡng Thần khí.
Thần khí nhất dã. Tùng hư vô trung lai, hồn nhuận nhi vô giảm
tăng, cố viết: Cốc thần bất tử. Nhân năng vô thị vô thính, bất thức
bất tri, tức cố thủ dĩ dường. Nhược nhận thực hữu nhi mê, tự xúc kỳ
sanh.
Thần với khí nếu là một, là do công phu. Sơ thiền Luyện kỷ trúc
cơ đã viên mãn, nên gọi từ trong hư vô lại, đó là Chân như. Chân
như vốn hồn nhiên, vốn tự nhuận, vốn không thêm không bớt, nên
gọi: Cốc thần bất tử.
Có người nào tu luyện mà đạt được trạng thái: Thị nhi bất kiến,
thính nhi bất văn là mắt thấy tai nghe mà tâm không hề vi động,
Chân tri và Linh tri cũng không hề vi động, đó là tâm và thận đều
tịnh tịch, tức là phương cố thủ Cốc thần, để nuôi dưỡng Thần khí.
Nếu người nào nhận những điều trên đều là thực có, đó là kẻ mê,
tự xúc động lấy cơ sinh.
Thần hành tắc khí hành, Thần trụ tắc khí trụ.
Thần tức chi dã. Khí, thế chi sung dã.
Chí, khí chi soái dã. Khí tùy Thần. Thần soái khí. Khí hành trụ do
Thần. Thần khí nghi giao san.
Thần tức là chí. Khí là yếu tố tạo cơ sung mãn cho thân thể con
người. Chí là vị tướng soái của khí. Khí luôn luôn theo Thần. Thần
cũng là vì tướng soái của khí. Chân khí hành hay trụ đều do Thần.
Thần với khí nên giao hiệp lại một.
Nhược dục trường sinh, Thần khí tương trụ.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
134
Cốc thần bất tử, thị vi huyền tẩn, nãi Tiên thiên Tổ khí trung hư.
Huyền tẩn hựu danh khí huyệt.
Bề mục phản quán, ngưng Thần nhập chi, tắc Thần khí tương trụ
thủ trung dã, khả dĩ trường sinh.
Cốc thần chẳng chết, là do thân tâm đều tịch tịnh, là chủ nhân của
huyền tẩn, là Tổ khí Tiên thiên từ trong hư vô lại. Cốc thần sống thì
huyền tẩn sống. Cốc thần chết thì huyền tẩn cũng chết. Huyền tẩn
còn có danh là Khí huyệt.
Lúc hạ thủ công phu, nên khép hai con mắt lại, Chân ý quán về
Cốc thần, gọi là ngưng Thần nhập Khí huyệt, tức Thần và Khí đều
cũng an trụ, để bảo thủ ngôi trung. Công phu được như vậy mới có
thể trường sinh.
Tâm bất động niệm, vô khứ vô lai, bất xuất bất nhập, tự nhiên
thường trụ.
Tâm, thần chi xá dã. Tâm động niệm tắc khứ lai xuất nhập, bất
năng thường trụ hỉ.
Thai trung anh nhi, Thần trụ, vô niệm, diệu vô khứ lai xuất nhập.
Kim năng chuyên khí bảo thần, như anh nhi, nhiên tắc nhất đoàn
thuần dương, phản lão, hườn trường sinh. Tức cố thủ hư vô, dĩ
dưỡng Thần khí, cố viết: Uy chí qui hư vô, vô niệm dĩ vi thường.
Trái tim thiệt là nhà của Thần. Tâm khởi niệm tức có cơ vãng lai
xuất nhập, và không còn được thường trụ.
Lúc anh nhi đã hiện trong thai, thì Thần trụ, khí hườn, tạo nên
trường sinh, Cố thủ hư vô là để dưỡng Thần khí, nên gọi: Sự ủy
thác chí qui hư vô. Chỉ có vô niệm mới là đạo Thường.
Cần nhi hành chí, thị Chân đạo lộ.
Thứ tổng kết miễn thường hành dã. Lão Tử viết: Dụng chi bất cần
bất trợ dã. Thứ viết: Cần bất vong dã, tức miên miên nhược tồn dã.
Viết: Chân phi gỉ, thị chánh lộ, phi bàng môn dã.
Câu này là câu tổng kết về sự khuyến khích người tu cố gắng thực
hành. Đức Lão Tử nói: Dụng công Thiền định không được chuyên
cần, tức không có động cơ trợ lực cho Thiền công. Lời đó nói: Cần
chuyên là không hề quên lãng, là miên miên nhược tồn. Nên có lời
nói: Chân không phải là giả, là con đường chánh, chứ không phải
bàng môn.
Tam thập lục yết, nhất yết vi tiên. Thổ duy tế tế, nạp duy miên
miên. Tọa ngọa diệc nhĩ, hành lập thản nhiên. Giới u huyên tạp,
kị dĩ tinh chiên. Giả danh thai tức, thực viết nội đơn. Phi chỉ trị
bệnh, quyết định diên niên. Cửu cửu hành chi, danh liệt
Thượng Tiên.
Phục thực tân dịch 36 lần, mỗi một phục thực đúng tiên đề. Thở ra
nhè nhẹ, thở vào liền liền. Nằm ngồi cũng vậy, đi đứng thản nhiên.
Mượn danh thai tức, nhưng thực nội đơn, chẳng chỉ trị bịnh, mà
thêm tuổi thọ. Công phu lâu ngày, danh sách Thượng Tiên.
---*---
Người chí bết quá nộ và quá ai là hại tánh, mà chẳng biết quá hỉ
quá lạc cũng hại cơ sanh.
Hoài Nam Tử Nguyên đạo có lời dạy: Đại nộ phá âm. Đại hỉ trụy
dương. Hán thư Đông Phương Sóc truyện chép: Lạc thái thịnh thì
khí dương tràn, ai thái thậm thì khí âm tổn, âm dương biến thì tâm
khí động. Tâm khí động thì tinh thần tán, và tà khí nhập, nên phải
nén nộ để bảo toàn âm khí, chế ức hỉ để dưỡng dương khí.
Nhan thị gia huấn có nói: Đại hỉ thì tâm bị phóng đãng, dùng vi vi
chế ức mới định. Thậm nộ gây ra tính phiền não, nén lòng một tí là
hết giận. Lời nói ra cần nên tiết kiệm.
---oOo---
Chương Mười Bảy
PHỤC QUI THÁI CỰC
1. KHẢM LY PHỐI HỢP
Ngộ Chân Thiên
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
135
Khảm điển phanh sanh kim thủy phương,
Hỏa phát Côn Lôn âm dữ dương,
Nhị vật nhược hườn hòa hợp liễu,
Tự nhiên đơn thục biến thân hương.
Lời thi nói diên đến hống nghinh, hòa hợp mà thành đơn, công
phu chỉ trong một giờ nửa khắc.
Trần Chân Nhân nói: Khảm điển là lúc diên khí phát sinh, ta liền
cướp lấy thời cơ, phát xuất loại hỏa tại Côn Lôn để ứng phó. Có lời
nói trong một tháng chỉ có một ngày, trong một ngày chỉ có một
giờ. Lúc có mùi thơm thấu tận Đơn Điền, thì toàn thân như được
điều hòa thơ sướng, đôi mắt sáng thêm, thân thể cường kiện. Là
hiệu đắc đơn.
Khảm điển còn gọi là hào nơi quẻ phát động, trong thận thủy có
hỏa phát, đó là huyền khí của bạch hổ, gọi là âm hỏa.
Lúc có loại hỏa nầy phát, là do Luyện kỷ đã được thuần thục. Loại
hỏa nầy có đặc tính động và năng trực.
Còn huyền khí của thanh long là dương hỏa.
Cả hai loại hỏa được giao hợp, tức âm dương phối dương. Dịch lý
nói: Nhị khí cảm ứng dĩ tương hưng.
Kim thủy phương là nơi sản dược.
Côn lôn là đỉnh núi hạ ngươn.
Lấy bốn chữ để bao quát, cũng chỉ là hổ huyệt long đầu. Nhị vật là
Chân âm, Chân dương, tức Chân thủy, Chân hỏa. Hòa hợp là hội
qui Đơn điền, và ngưng kết mà thành đơn cơ.
Thục, là lại có công phu điều đình bồi dưỡng.
Sơ thời thể thủ, rồi phục thực loại linh dược nầy, tức cả trăm đốt
xương phát sinh mùi hương thẩm mỹ. Sách Tham Đồng Khế gọi:
Kim sa nhập ngũ nội, vụn tan nhược phong vũ, huân chưn thấu tứ
chi, nhan sắc duyệt trạch hảo (tươi đẹp), tu phát (tóc râu) giai biến
hắc, xỉ lạc (răng rụng) sanh cựu sở, lão ông phục đinh tráng, kỳ ấu
(lão mẫu) thành trạch nữ.
Cơ hiệu nghiệm đó, chẳng phải là do loại Chân hương đã sung
mãn trong cơ thân sao?
Từ đây về sau lại tiếp tục công phu vận âm phù, dương hỏa, tấn
thối trục thiêm, chẳng sai lỗi thời, kim dịch hườn đơn tự nhiên
thành thục, khắp mình phát sáng, hương lại càng thơm.
Đó là pháp tượng kim nội ngoại nhị đơn.
2. KHẢM LY HOÀI CHÂN THỔ
Ngộ Chân Thiên
Ly Khảm nhược hườn vô mậu kỷ.
Tuy hàm tứ tượng bất thành đơn.
Chỉ duyên bỉ thử hoài Chân thổ.
Toại sử kim đơn đắc phản hườn.
Đào Chân Nhân giải: Loại hỏa trong cung Ly lại sinh mộc. Loại
thủy trong Khảm cung lại sinh kim. Lưỡng gia được liệt vào ngôi tứ
tượng.
Chỉ vì hai nhà hằng gián cách, nên phải nhờ Mậu trong Khảm, nhờ
Kỷ trong Ly, hai nhà nhờ mai hiệp, nên ngũ hành toàn và tứ tượng
hội, mới được diên hống cùng về một Lư, rồi được huân chưn và
thành công trong khoảnh khắc.
Phản hườn là: Thất phản hỏa. Cửu hườn kim. Loại hỏa nầy nhờ
đắc kim mà phản. Loại kim này đắc hỏa mà hườn. Đó là pháp hòa
hiệp đơn đầu. Còn hai loại thổ kia, là cơ diệu dụng trung hòa.
Dực Chân Nhân nói: Chân dương trong Khảm là mậu. Châm âm
trong Ly là kỷ. Là 2 loại thổ đều là Chân khí của Trung cung.
Chân khí của hai nhà tác hợp, tự nhiên kim với mộc hiệp, thủy và
hỏa tương tế, tứ tượng tứ qui về hậu thổ, ngũ hành hiệp tại Nhất
chân, và thành đơn.
Sách Tham Đồng Khế nói: Khảm mậu là nguyệt tinh. Ly kỷ là
nhật quang. Ly kỷ tượng huyền khí của thanh long.
Khảm mậu tượng huyền khí của bạch hổ.
Long và hổ nếu không có loại khí của nhị thổ làm sao khiến cho tứ
tượng hòa hiệp, tương hội tại Trung cung để kết thành đơn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
136
Trần Chân Nhân nói: Tứ tượng là Càn Khôn nhật nguyệt. Càn
Khôn là thế của Khảm Ly, Mậu kỷ là cửa của Khảm Ly. Cơ diệu
dụng là do hai thành phần đó cảm hoài Chân thổ.
Nếu chẳng phải do hai nhà, đều dùng nhị thổ để hiệp, thì một khí
do đâu mà vãng lai, kim đơn nương theo đâu mà phản hườn.
Đức Lão Tử nói: Huyền tẩn chi môn thị vị Thiên địa căn. Là nói
về hai loại thổ kia.
Dực Chân Nhân nói: Lấy Mậu kỷ làm Trung cung thổ ý, đều chỉ
về nội tượng.
Trần Chân Nhân nói: Lấy Mậu kỷ làm cửa Ly Khảm, là chỉ về
ngoại tượng.
3. KHẢM LY ĐIÊN ĐẢO
Ngộ Chân Thiên
Ly cư nhật vị, phiên vi nữ,
Khảm phối thiềm cung khước thị nam.
Bất hội cá trung điên đảo ý,
Hưu tương quản kiến sự cao đàm.
Dịch trung quái tượng: Ly là mặt nhật là nữ nhân. Khảm là mặt
nguyệt là nam nhân.
Mặt nhật thuộc ngôi Thái dương, lại thuộc Ly nữ cư trú. Còn mặt
nguyệt thuộc ngôi Thái âm, lại là nơi tá túc của Khảm nam. Là một
hiện tượng điên đảo hoán đổi ngôi vị đều có thâm ý.
Quái tượng của Ly, trung hào là ngẫu tượng của Khôn, ngoại
dương mà nội âm, nên thay ngôi trở lại làm nữ.
Quái tượng của Khảm, trung hào là cơ tượng của Càn, ngoại âm
mà nội dương, nên thay ngôi trở lại làm nam.
Theo quái tượng của hai quẻ này, đều là điên đảo.
Con người Tiên thiên, Càn tại tâm, Khôn tại Thận. Còn con người
hậu thiên hoàn toàn bị thất chánh, nên Ly chiếm ngôi Càn, Khảm
chiếm ngôi Khôn, khiến nên bị sanh tử.
Theo cơ điên đảo để phục qui Thái cực.
4. MẪU ẨN TỬ THAI
Ngộ Chân Thiên
Chấn long hống xuất tại Ly hương,
Đoài hổ diên sanh tại Khảm phương.
Nhị vật tổng nhân nhi sản mẫu,
Ngũ hành toàn yếu nhập Trung ương.
Ngũ hành thứ tự: là mộc sanh hỏa, kim sanh thủy, đó là cơ thuận
hành của Tạo hóa hậu thiên.
Đơn gia thì: Chấn long hống xuất phát từ cung Ly, là hỏa trở lại
sanh mộc. Đoài hổ diên xuất sanh tại Khảm cung, là thủy trở lại
sanh kim. Vậy hai hiện tượng đó là con sinh ra mẹ. Đó là thuật ngũ
hành điên đảo, về pháp là cách kim với mộc giao hiệp, thủy với hỏa
tương tế.
Cần phải mượn nhị thổ để hội hiệp về Trung ương mới ngưng kết
thành đơn.
Dực Chân Nhân nói: Hỏa sinh mộc, thủy sinh kim, đều là hiện
tượng con sinh ra mẹ. Là vì: Đơn lấy mẫu khí làm Chân, lấy sơ khí
làm noãn (non) khí. Cho nên dương cực sanh nhất âm là Chân âm.
Là lấy hống khí từ cung Ly xuất, mới là huyền khí của Thanh long,
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
137
mà nơi quẻ là Chấn mộc. Còn âm cực thì sanh một dương, là khí
Chân dương. Là lấy diên từ cung Khảm xuất, mới đúng là huyền
khí của Bạch hổ, mà nơi quẻ là Đoài kim.
Chấn long hống, Đoài hổ diên, đều là những hiện tượng giả tá,
thực cũng chẳng qua kim mộc mà thôi.
Kim với mộc cùng với thổ, tam gia tương kiến nhập về Trung
ương, thì ngũ hành cũng qui hiệp, và đơn thai mới kết.
Đơn gia lấy tượng Chấn Ly và Khảm Đoài là tứ tượng thủy hỏa
kim mộc.
Lấy nam với bắc mà nói: thì gọi Khảm Ly.
Lấy đông với tây mà nói: thì gọi Chấn Đoài.
Kỳ thực hậu thiên Chấn Đoài, tức là ngôi của Khảm Ly Tiên thiên.
Cho nên khiến cho giềng mối bị lẫn lộn hiện tượng thay đổi nhau.
Trần Chân nhân nói: Chấn là trưởng nam, thế cho cha.
Đoài là thiếu nữ, thế cho mẹ.
Là lời dẫn chứng từ nơi sách Tham Đồng Khế, của Ngụy Bá
Dương Chân Nhân.
---oOo---
Thủy hỏa hay kim mộc, cũng là Thần khí.
Đơn kinh có chép:
Dĩ Thần ngự khí nhi thành Đạo,
Dĩ hỏa luyện dược nhi thành Đơn.
Cũng không ngoài pháp môn Thủy Hỏa Ký Tế của Nho gia,
Chánh pháp nhãn tạng của Thích giáo.
5. LONG HỔ MAI HIỆP
Ngộ Chân Thiên
Hoa nhạc sơn đầu hùng hổ khiếu (gầm),
Phò tang hải để tẩn long ngâm.
Huỳnh bà tự giải tương mai hiệp,
Khiến tác phu thê cọng nhất tâm.
Hoa nhạc là Tây phương, là địa xứ của Bạch hổ.
Quẻ Khảm có một hào dương ở giữa hai hào âm, nên gọi là hùng
hổ.
Sơn đầu là nói về chỗ đương cư của Khảm.
Phò tang là vị trí của đông hải Thanh long.
Ly quái, giữa có một hào âm, ngoài có hai hào dương, nên gọi Tẩn
long.
Hải để là nói về Khảm thủy dưới có Ly.
Sách Tham Đồng Khế nói: Âm tại thượng, dương hạ bồn. Chính
nói về hải để.
Ngâm và khiếu là tiếng của rồng và cọp tương luyến tương cầu.
Trần Chân Nhân nói: Sơn đầu hùng hổ, nguy nhi nan phục. Hải để
tẩn long, hiếm nhi nan hàng.
Nếu chẳng phải là hàng Tu sĩ có đại lực lượng, có đại dũng mãnh,
làm sao giá ngự được chúng.
Tức như kim đơn là một loại khí Chí dương, xuất phát từ trong
hiện tượng Thái cực tra tra minh minh.
Nguy là khó, bị hiểm cũng là khó. Cả hai đều khó thâu phục.
Nếu là kẻ tích được chưa hậu trọng, Luyện kỷ chưa thuần thục,
làm sao tránh được cơ nguy hiểm.
Chánh đạo là gì?
Cũng chỉ có một lòng Chí thành. Nếu tham luyến ngôi báu trên
Thiên đường là chẳng phải.
Tử Dã Tiên Sinh nói: Khảm thượng Ly hạ, là phương điều hòa,
tức cọp rồng thương nhau như vợ chồng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
138
Huỳnh là trung, bà là nữ. Chỉ vì không đố kị, mới được mai hiệp.
Nghĩa của huỳnh bà, là điều chế để được trung hòa. Là tình của hai
nhà được tương đắc.
Lấy mậu kỷ làm hai môn hộ, là mai nhân tác hiệp cho rồng với
cọp.
Trong hai thành phần đó, trung gian phải thường có một mai nhân
sính phối, để cho cơ tiểu tức của đôi bên được thông thấu là ba.
Lục thị có nói: Vô đố kị nhi năng mai hiệp. Cái đực ẩn dưới đậu
lộ. Là nói về mai nhân, tuy là ẩn tích mà lại lộ đầu lộ vỹ.
6. LONG HỔ CHẾ PHỤC
Ngộ Chân Thiên
Tây sơn bạch hổ chánh xương cuồng,
Đông hải thanh long bất khả đương.
Lưỡng thủ tróc lai linh tử đấu,
Hóa thành nhất khối tử kim sương.
Cọp ở Tây sơn, rồi nơi Đông hải là hai con thú vô cùng dữ tợn,
khó bắt được, khó hàng phục chúng nó được.
Cho nên thời gian nhập thất, tay tả dắt rồng để thẩm định đảnh
huyền, tay hữu nắm giữ cọp để tinh điều khí hầu.
Còn cơ tiêu tức thì in khớp với khắc lậu.
Sổ tức thì ứng với hạn số của Châu thiên.
Nhị khí vãng lai, nhân uân hòa hợp, tam bửu về Cốc, miên miên
nhược tồn.
Đó là Chân nghĩa tróc lai tử đấu.
Làm lư thể dược, chẳng phải dùng tay để mằn mò, chỉ là dùng
Chân ý mà thôi.
Cho đến câu cuối: Cầu chiến gặp địch, chẳng qua cũng là Thần khí
giao cảm, tùng thư hóa khí, kích thích mà sinh hiện tượng, nên làm
gì có hiện tượng chiến đấu.
Tà giáo làm sao biết được bí quyết này.
Dực Chân Nhân nói: Tử đấu là cầu đơn đại sự, chuyên tâm trì chí
ắt sẽ có ngày hàng phục được chung, sau đó phải ngưng lại, chớ
gây ra một sự chiến đấu tử vong, cũng chớ tạo lấy trong cái chết để
cầu sự sống, cũng đừng gây ra một thuở lâm đấu.
Tử Dã Tiên Sinh nói:
Tây Sơn Bạch Hổ là tình của Khảm trung kim.
Đông hải Thanh long là tánh của Ly trung mộc.
Cả hai tánh tình này đều dữ tợn, chẳng dễ gì cầm tróc được chúng.
Nếu đắc được Chân pháp mới có thể chế phục chúng được, và hai
thành phần đó sẽ hòa hợp rồi hóa thành đơn. Chữ tử (chết) nầy tột
có thâm lý.
Lời ngạn ngữ có nói: Dục cầu sinh phú quý, tu hạ tử (chết) công
phu.
Lời nói dùng hai tay bắt lấy là lời nói có gốc.
Lưu Hải Thiềm nói: Tay bên tả nắm chặt đầu thanh long. Tay bên
hữu giữ vững đuôi bạch hổ. Nhất thời tương lai sẽ phục thực.
Tính lại cũng là thủy trung kim. Mùi vị vật nầy rất cam mỹ. Diệu
đạo huyền cơ Chân yếu lý.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
139
7. LONG HỔ GIAO LUYỆN
Ngộ Chân Thiên
Xích long, hắc hổ các tây đông,
Tứ tượng giao gia mậu kỷ trung.
Phục, Cấu tự tư năng vận dụng,
Kim đơn thùy đạo (ai nói) bất thành công.
Cuộc chiến giữa long và hổ đã đến lúc khải hoàn tức Thánh nhi
xuất hiện. Quán tưởng về công phu ngũ tặc của Trời, thủ vỹ tương
hệ là hễ kêu là có ứng.
Trước tiên phải định rõ về công trình qui mô, sau đó mới thể theo
từng sự việc, như quán sát về ngũ tặc của Trời, biết rõ lý ngũ hành
sinh khắc, xét nơi Khôn địa về nguyên tinh đã an định chưa, thực
hành công phu luyện kỷ trúc cơ đã đến đâu. Còn chiến bài kiến
Thánh là đại dược hườn đơn.
Chỉ có đắc được Nhất thì mãi mãi không mất. Cầu diên là ví dụ về
mỗi lần cầu long hổ chiến. Lời Chân sư đã dặn dò, là nên tri kỷ tri
bỉ.
Trường Canh Chân Nhân nói: Loại khí ngũ hành giao thắng, là
cùng trộm lấy huyền khí của đôi bên, tợ như trao đổi cho nhau, là
cơ sanh sát của vạn vật. Cả thảy đều nương theo đó. Đó là ngũ tặc
của Trời.
Loại ngũ tặc nầy hễ thuận theo thì thành người, hễ nghịch lại thì
nên Tiên. Nếu người nào được thông hiểu về chánh lý âm dương,
thâm đạt đến cơ tạo hóa, thực thấy về cơ mầu nhiệm của lý này, bèn
nghịch chuyên sát cơ, lấy thủy để diệt hỏa, lấy kim để công phạt
mộc. Sự thi hành của tâm, cùng với ngũ hành của Trời thảy đều hỗn
hợp tức diên hống đồng lư, tam hoa, ngũ khí đều qui Nhất, tự nhiên
sẽ được hoài thai là kết anh nhi. Lúc này cả vũ trụ đều ở trong tay,
và vạn hóa sinh thân, nên có lời nói: Sự hiện hình đó là cơ xương
thịnh.
Trần Chân Nhân nói: Con người tu hành lấy thân làm quốc gia, lấy
tinh khí làm dân tộc. Tinh chẳng bị dao động là dân an, Thần và khí
đều được sung mãn là quốc phú. Lấy cầu đơn làm chiến dịch. Lấy
Tiên thiên nhất khí làm Thánh nhân. Luyện kỷ cũng là phương bảo
vệ lấy nguyên tinh, và di dưỡng Chân khí. Sau đó mới có thể dùng
chiến thắng mà đắc được loại khí Tiên thiên Chân nhất.
Tiên sư lấy sự chiến đấu làm ví dụ, khiến cho người tu hành biết,
hầu lo sợ để tu tĩnh.
Trường Canh Chân Nhân nói: Có người hỏi về thuật Tam phong
(núi) thể chiến?
Ngộ Chân nói: Cầu chiến tử đấu. Là lý gì vậy? – Cuộc chiến tam
phong, là cuộc chiến không quốc hưng sư. Lời nói của Ngộ Chân
về chiến đấu, là lực lượng quân bình tương dịch của hai thành phần
âm dương, như dùng nước diệt hỏa, dùng kim phạt mộc. Là có cái
lý chiến đấu, và có sự vô chiến.
Dịch viết: âm nghi ư dương tất chiến.
Truyện viết: Nghi giả, quân (bình quân) dịch nhi vô đại tiểu chi
xưng.
Bài thi tứ tuyệt nầy, hai câu đầu nói về: Long hổ giao cấu đều
nương theo mậu kỷ. Là nói về sự đắc dược. Còn hai câu sau nói về
ôn dưỡng trục thiêm, có dụng công về quẻ Phục và quẻ Cấu, đó là
công phu hành hỏa.
Tử Dã nói: Long đông hổ tây sở dĩ gián cách, muốn gặp nhau phải
nương mậu kỷ, Long hổ đã được giao cấu, sẽ sản thành tử kim đơn,
thì lo dưỡng hỏa nơi Phục và Cấu.
Đào Chân nhân chú giải:
Long tùng hỏa xuất, thanh long gọi là xích long.
Hổ hướng thủy sinh, bạch hồ bèn gọi hắc hổ.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
140
Chỉ có: Long, hổ, Xích, hắc, bốn chữ cũng gồm đủ cho ngôi Tứ
tượng.
Đó là cơ vận dụng về hỏa công trong mười tháng.
Nam bắc đông tây đều qui về mậu kỷ, danh gọi Đao khuê.
Hình dáng của Đao khuê tương tợ như hạt Tắc châu, có hào quang
sáng rực, chiếu thấu núi Côn Lôn sơn.
Sau đó mới tấn dương hỏa nơi quẻ phục, mới thối âm phù nơi hào
cấu.
Đó là cơ vận dụng về trục thiêm.
Chẳng có loại công phu nào không đi vào trung độ, và cái đạo kim
đơn có ngày sẽ thành.
Trần Chân Nhân giải thích:
Cái đầu của thanh long là kỷ.
Cái đuôi của bạch hổ là mậu.
Long với hổ nhân theo mậu kỷ mà được giao hội.
Quẻ Phục với quẻ Cấu cũng nương theo mậu kỷ mà vận dụng.
Kim đơn đắc mậu kỷ mới thành công.
Than ôi! Biết được cơ diệu dụng của mậu kỷ chẳng phải dễ dàng.
Thực hành cơ diệu dụng của mậu kỷ cũng khó khăn!
Dực Chân Nhân chú thích:
Mậu kỷ cùng Tứ tượng đối hiệp nhau cũng tại Trung cung. Sách
Tham Đồng Khế có chép:
Cả thảy đều bẩm thụ nơi Trung cung, là do công phu của mậu kỷ.
8. KIM LAI TÍNH MỘC
Ngộ Chân Thiên
Kim Công bổn thị đông gia tử.
Tống tại tây lân ký thể sinh.
Nhận đắc hoán (kêu) lai quy xá dưỡng.
Phối tương Trạch nữ kết thân tình.
Lời nầy nói rõ bạch hổ qui gia. Khảm thể dương bi hãm trong âm,
là điểm Chân dương, danh Kim Công.
Nhưng Chân dương nầy, vốn từ hào của Càn đến, Khôn thành
Khảm, tức đông gia có Tây nữ ký ngụ. Tây, đông cũng chỉ âm
dương, bất tất thực cầu quái vị sở tại. Nhận được lý này, là đã dò
xét được lúc hào phát động. Hoán lai: là gọi dược về. Chân dược
nhập Trung cung phối với kỷ hống và tương y tương luyến, là để
kết thân tình. Dưỡng tức ôn dưỡng. Kết là kết đơn.
Lý Chân Nhân nói: Khôn thể vốn không, nguyên vô diên hống,
nhân sau khi Càn giao cảm, thọ một điểm quang Thần hỏa, Khôn
mới biến ra Khảm, nên gọi Kim Công, vốn con nhà đông gia, mới
gọi: Tống tại tây lân ký thể sinh. Quân tử chân tu, lúc nầy đức Chí
thành đến tột, nhận được trong Khảm có Càn kim, đích danh là
diên, dùng phục thực đưa về Trung huỳnh phong cố bền chặt, để
tùy cơ mà phối với Chân hống, đủ số một cân, kết tượng tròn viên,
nên nói:
Nhận đắc hoán lai qui xá dưỡng.
Phối tương Trạch nữ kết thân tình.
9. KIM MỘC QUI THỔ
Ngộ Chân Thiên
Trạch nữ du hành tự hữu phương,
Tiền hành tụ đoản, hậu hành trường.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
141
Qui lai khước nhập Huỳnh bà xứ,
Giá ca Kim Công tác lão lang.
Tử Dã Chân Nhân chú thích: Trạch nữ là Kỷ âm hống. Trước
thuận khứ sau nghịch qui.
Thuận khứ là chỉ trong một loáng, giao tiếp với thành phần kia.
Nghịch qui thì từ dưới lên trên châu lưu khắp thân thể rồi rơi vào
Trung cung, cùng Chân diên hiệp, để kết Thành thai.
Tiên ông nói: Trạch nữ là hống khí gọi là hống hỏa.
Du hành hữu phương: là tiền hành của tác dụng ngoại dược, chỉ
trong một thời mà dụng công hai hầu, nên nói: Tu đoản.
Còn hậu hành mới thực tác dụng của nội dược, chỉ trong một thời
mà dụng công bốn hầu nên nói: Tu trường.
Có đủ hai phần dụng công này nên nói: Hữu phương.
Huỳnh bà là nội tướng.
Kim thai là Thổ phủ.
Kim công là Chân diên.
Lão lang là tượng của thuần dương.
Trần Chân nhân chú giải: Trạch nữ là loại tinh của Kỷ thổ.
Du hành hữu phương: Lúc nguyên tinh sanh hằng có thói quen
muốn theo con đường thục lộ mà ra bên ngoài.
Lúc thường nhân giao cảm, tình dục vừa phát động âm thần cũng
đao biến, tam thi thì kéo lên trên thất hách lại lôi xuống dưới.
Loại tinh này noi theo hai con đường bên trước đi lên theo ngũ
tạng, lên Nê hoàn, cùng với tủy đồng đi xuống, từ Giáp tích song
quan, đến ngoại thận giao cấu. Đó là loại tinh ngũ trược của thế
gian, và cũng là con đường thuận hành.
Kim đơn thì không phải vậy mà thực hành theo cái đạo điên đảo
nghịch tu.
Những người đại tu hành, sau khi Luyện kỷ đã thuần thục, thì thân
tâm bất động, hồn phách thọ chế, tình dục không còn liên can,
thường tạo cho tinh khí được dinh mãn, chờ cho lúc nhất dương sơ
động, Tiên thiên Chân diên gần đến, tinh khí trong thân ta bất động
chỉ có nơi dưới nội thận gần tới tiện xứ, ta liền vận một chiểm Chân
hống tiếp nghinh. Đó gọi là tiên hành đoản dã.
Chân diên đã độ Thước kiều qua hướng đông, hống cùng diên hỗn
hợp, lại theo Chân diên lên Ly lư tam xa, đo Tam quan lên Nê hoàn,
đi khắp chín cung, chuyên chú vào đôi mắt, giáng xuống kim kiều,
hạ trùng lầu, nhập giáng cung để huân luyện đó gọi là hậu tu
trường.
Sau khi đã hườn qui Thần thất, giao kết thành đơn, đó gọi là qui
nhập Huỳnh bà xa và gả cho Kim Công.
Đó là pháp nghịch tu về điên đảo ngũ hành. Cho đến thời gian
mười tháng ôn dưỡng để thành bậc Chân nhân, cùng Trời sống
bằng tuổi thọ, gọi là Lão lang.
Trạch nữ cũng có nội ngoại hai hiện tượng. Lúc đầu dùng hống
hỏa để dụ Chân diên là ngoại tượng. Lại dùng hống hỏa để phối với
Kim Công đó là nội tượng.
Trạch nữ cựu (củ) du thục lọ tức con đường của Kim Công đến.
Lúc ban đầu chỉ một mình ra đàng sau rồi về.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
142
Tiền đoản hậu trường chỉ thành hai hầu và bốn hầu như trước đã
nói.
Tiên Ông chú thích: Lại phân ra: Sơ thì phục đơn, sau thì dưỡng
hỏa, đó là sự chờ đợi tạm thời, chẳng phải là đoản trường.
Huỳnh bà chỉ về nội tượng.
Chẳng nói về Kim Công nơi Thần thất, mà chỉ dối ngữ về Trạch
nữ với Kim công. Cần phải dụng Huỳnh bà mới có sự mệnh danh
này.
Tôn Nữ Trung kim đơn 500 chữ có chép: Hỏa hầu phân văn võ,
kim thủy biện trược thanh, diên sản ư Qui nội, dương sinh ư diên
tâm. Tam bách thất thập ngũ, dụng ý yếu kiền thành. Thái quá tắc
thương bỉ, bất cập đơn bất thành. Nhi hầu đắc dược tất, đăng (ngơ
ngác) khái xích sắc môn. Giá khỉ Thông thiên kiếm, thôi dược
thượng Côn lôn. Giáng đắc Trùng lầu hạ, minh nguyệt chiếu Càn
khôn. Tứ hầu hiệp đơn tất, Chân như tọa Huỳnh đình.
Căn cứ theo đó, là nhị hầu đắc dược, chính là thời Địa Thiên Thái.
Tính theo sổ tức là 375, để làm chuẩn tắc.
Lúc này là lúc đắc diên khí, tức Càn khôn phân ra ngôi vị. Cấp
dùng nghịch chuyển hà xa, tự hạ nhi thượng, tùng hậu nhi tiền,
nghinh dược nhập vào Trung cung. Cần phải lặng lẽ điều tức.
Xích sắc môn là Càn gia ngoại tượng.
Thông thiên kiếm là Càn thể nội tượng.
10. LƯƠNG GIA TƯƠNG KIẾN
Ngộ Chân thiên
Tuyết sơn nhất vị hảo đề hồ,
Khuynh nhập đông dương Tạo hỏa lư.
Nhược ngộ Côn lôn tây bắc khứ,
Trương khiên thủy đắc kiên ma cô.
Tuyết sơn đề hồ: ví loại Chân dược trong Khảm.
Khuynh nhập đông dương: ví chiết Khảm điền Ly.
Côn lôn tây bắc: ví dược nhập đơn điền.
Trương khiên ma cô: ví diên hống giao hợp.
Tuyết sơn đề hồ còn gọi Tây phương kim dịch.
Sách Tham Đồng Khế nói: Kim hoa tiên xương (trước thì cuồng
dại), giải hóa vi thủy (nước) Đông dương Ly nhạt chi vị (ngôi).
Tạo hóa lư: chỉ hạ đơn điền.
Khuynh nhập: âm tại thượng, dương hạ bôn.
Ngoại dược nhập lư nên theo lên núi Côn lôn mà đi qua, là lúc hà
xa nghịch thượng cùng âm hống hội hiệp như trương khiên kiên ma
cô. Trương khiên là ví về Khảm diên, Ma cô ví Ly hống. Có chàng
Lang quan trang phục màu sắc đỏ. Còn nữ tử thì mặc áo xanh.
Côn lôn sơn trong thân ta vốn sinh xuất tại hạ nguyên hải trung,
hình dáng tợ núi Côn lôn, nên gọi Côn lôn sơn. Chính thực là nơi
phát hỏa.
Côn lôn đảnh có môn hộ, tên gọi Huyền môn, tại Tây bắc Càn vị.
Chân hỏa phát xuất từ núi Côn lôn theo cửa Huyền môn để vào, tức
cùng Chân diên trong đảnh tương kiên mà có cơ biến hóa.
Lúc này khí Chân diên dụng hóa bên trong cùng với ngoại hỏa
giao tiếp, rồi Khôn sách biến thành Càn sách dương hỏa đuổi theo
âm phù, lưỡng hỏa giao thông, diên hống kết hợp.
Cái đạo Thần Tiên căn bản ở chỗ này.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
143
Trương thiên thừa tra là đến nguyệt cung gặp Nữ túc ví dụ âm
dương tương hiệp.
Dực Chân Nhân nói: Côn lôn có hai vị trí, một tại Nê hoàn, cao
như hình cái đầu của con người, là địa xứ cực dương.
Hai là hạ đơn điền, xuất phát từ trong hạ ngươn khí hải, hạ Côn
lôn phát sinh từ nơi Tinh tú hải. Còn thượng Côn lôn là nơi vận
hỏa, hạ Côn lôn là nơi phát hỏa.
Nói: Tây bắc khứ là nói về hạ Côn lôn.
Đề hồ là nhủ tô (váng của sữa) tinh dịch.
11. ÂM DƯƠNG HÒA HIỆP
Ngộ Chân Thiên
Sao trục hoán qui thôn ngọc chi,
Cổ cầm chiêu phượng ẩm đao khuê.
Cận lai thấu thể kim quang hiện,
Bất dữ phàm nhân thuyết thử qui.
Hai câu trên nói về phương thể dược.
Hai câu dưới nói về hiệu nghiệm đắc dược.
Đơn phòng khí manh có kiếm có cầm, đó là hai khí tượng âm
dương.
Trúc trung hư mà ngoại trực. Qui hay duỗi mà cũng hay co, là ví
dụ trong cơ thân của ta.
Cho nên phải sao chi hoán chi, là gõ ống tre để kêu rùa về để tạo
tác thành chân khí.
Cổ Cầm là dùng ngón tay để gãy dây đàn, mà con chim phượng từ
dưới đơn huyệt bay lên, đó là ví dụ về công phu thể dược.
Cổ chi chiêu chi để phát động về tình, là con rùa ở dưới mà
ngưỡng cổ lên để nuốt lấy cỏ ngọc chi. Còn chim phương đậu trên
cành cây thì cúi xuống để uống Đao khuê.
Đó là ví dụ hai khí âm dương giao hiệp. Cả hai đều có cái dạng
thôn phục vào miệng.
Ngọc chi bình viên sản tại Hòa trì.
Đao khuê sắc bén xuất từ kỷ thổ.
Lại có sự phân biệt bỉ thử.
Tử Dã Chân Nhân nói: Sáo trúc cổ cầm là hòa thịnh của âm dương
tương cầu. Trúc vốn lòng trống, nên có ứng mà vô dục.
Cầm có chánh âm, hòa mà chẳng loạn.
Gọi con rùa, với chim phượng, là bản nguyên nơi Trời, là thân
thượng, bản nguyên tại địa thì thân hạ.
Sách Nhập Dược Cảnh gọi Thượng hạ Thước kiều.
Lý Chân Nhân nói: Chiêu với hoán cũng không ngoài Chiêu
nhiếp. Còn thôn với ẩm, là phân minh cái danh ẩm thực.
Cổ cầm chiêu phụng, Cổ nhân vốn có sự.
Sáo trúc hoán qui, tuy là giả tượng, mà vốn có căn cứ. Là việc
nuôi rùa dưới hồ, người ta dùng ống tre gõ để kêu rùa lên ăn.
Đao đầu khuê giác, là ví đắc dược trong cơ vi dương.
Trường Canh Chân Nhân riêng dẫn một thuyết: Đao khuê tức mậu
kỷ hai thổ.
Đới Tiên Sinh nói: Phàm lúc vận hỏa, hoặc biết nơi Vỹ Lư có vật,
trực xung Giáp tích song quan, lai rai dường như có âm thanh, đi
ngược lên Nê hoàn, rồi xuống Thượng ngạc, rồi nhỏ giọt giọt xuống
miệng, mùi vị tợ sữa băng, ngọt ngào thơm ngát.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
144
Biết được có trạng thái nầy, đó là kim dịch hườn đơn. Ta hãy từ từ
thực về Đơn điền. Cứ thường thường có mãi hiện trạng đó thì ngũ
tạng sẽ được thanh hư.
Là lúc nên bế mục nội quán, rõ ràng tợ ngọn đuốc soi, dần dần sẽ
có muôn đạo hào quang chiếp khắp châu thân, như hỏa luân, như
mưa móc.
Chỉ những người có Tiên căn, mới tu chứng được cảnh tượng nầy,
là đại hạnh phúc vậy.
Còn những kẻ thế gian làm sao có được chứng quả nầy, chỉ vì
phúc bạc căn còi.
12. KIM MỘC GIAO TÍNH
Ngộ Chân Thiên
Nhược yếu Chân diên lưu hống,
Thân trung bất li gia thần.
Mộc kim gián cách hội vô nhân,
Toàn trượng mai nhân câu dẫn.
oooOooo
Mộc tính ái kim thuận nghĩa
Kim tình luyến mộc từ nhân.
Tương thông tương hám hựu tương thân,
Thủy giáo nam nhi hữu vựng.
Diên và hống nương nhờ mai nhân, mới ngoại tượng tánh tình
tương thân, mới được nội tượng điền lai nghinh hống, rồi sau đó
mới được cùng nhau hợp tác.
Cũng như mộc đông, kim tây, bị thử lưỡng gián cách, nếu không
nhờ mai nhân câu dẫn, làm sao mộc kim được tương hội tụ. Sở dĩ
được câu dẫn, vì do nhân duyên của âm và dương, của tánh và tình
tương thân luyến ái, cho nên mỗi lần giao cấu thì cùng nhau hỗn
hợp giao kết thân tình, và sinh đơn thai.
Nam nhi mà có thai vựng, là do chân chủ ngoại lai đó là kỹ thuật
điên đảo của kim đơn.
Y thư lấy tâm làm quân hỏa, lấy thận làm tướng hỏa, lấy tinh khí
làm dân hỏa.
Lại gọi thận là Tác cưỡng, tức là gia thần.
Gọi là thân trung, gọi là gia thần, gọi là mai nhân, đều đồng một ý.
Bành thị dẫn Thái Thượng Thần đơn chủ: Lấy hống làm gia thần,
tức vận hống nội đơn, để nghinh tiếp diên khí.
Cổ chú: Nhất là diên là quân. Nhị là hống là thần. Nếu diên bất
chân thì hống khó thân. Nếu diên đắc chân, chẳng mất gia thần.
Dực Chân Nhân chú: Mộc nuốt kim tinh, kim nuốt mộc dịch, tức
nội cảm Chân khí, ngoại ứng Chân hỏa. Vô trung sinh hữu, mà Tiên
thai tự thành.
Trần Chân Nhân chú: Chân diên sinh trong hang Tạo hóa. Chân
hống cư tại thân Tạo hóa.
Nếu không thường Luyện kỷ trì tâm thì hống tẩu. Chẳng thường
án xét về thời, thì lúc lâm lư diên sẽ bay mất.
Gia thần tức kỷ hống, nếu luyện đã thuần thục, tức sẽ chịu sự điều
kiển của Chân ý.
Mộc tuy thọ kim thuận nghĩa, nếu không có mai nhân làm sao toại
lòng. Kim tuy luyến mộc đa tình, nếu không có mai nhân cũng khó
thông.
Mai nhân đã tạo được sự cảm thông tốt, thì hai bên được kết tình
hoan hỉ, cùng nhau hỗn hợp mà nam tử được hoài thai.
13. ĐƠN CƠ QUI NHẤT LUẬN
Kim Đơn Đại Thành
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
145
Cổ nhân có lời nói: Đắc kỳ nhất, vạn sự tất. Là một lời nói chí lý
vậy.
Chính ta muốn đơn giản hóa Đơn kinh và chỉ nêu lên những phần
trọng yếu.
Cơ sở của kim đơn vốn đã có thiên kinh vạn luận thiên biến vạn
hóa. Căn cư theo yếu ngôn để nói: Thiên hồn địa phách tức nhật
tinh nguyệt hoa, hồng diên hắc hống tức kim tinh mộc dục, ô thố
tức qui xà, mã ngưu tức long hổ, châu sa thủy ngân tức huỳnh nha
bạch tuyết, đơn sa thu thạch là loại giống bạch kim hắc tía.
Cách biệt nhau là nam nữ phu thê. Theo thể vật là kim mộc thủy
hỏa. Theo loại có thanh u từ dương.
Theo tượng là Càn Khôn Ly Khảm, có thuyết hà xa. Có thuyết
Huỳnh bà. Có thuyết kim sa ngọc hống. Có sự phân chia hắc bạch.
Có cơ phân hóa xanh vàng. Có biết bao từ ngữ và thí dụ lăn xăn,
cũng chẳng qua kỳ thực chỉ có hai chữ âm dương, hay gọi là hai
thành phần.
Lúc nào hai thành phần âm dương được hiệp nhất, thì gọi là một
vật, gọi là thủ nhất đàn, là mậu kỷ hợp, là Huyền quan nhất khiếu,
là huyền tẩn môn, là Thần thủy, hoa trì diên lư, thổ phủ, Châu sa
đảnh, Yển Nguyệt lư, Trung huỳnh cung, Đơn nguyên phủ, Quan
nguyên, Đơn điền, hô hấp căn, ngưng kết sở … cả thảy đều nói một
chỗ.
Lại còn có: Đông chí Hạ chí, Xuân phân, Thu phân, mẹo dậu giáp
canh, Huyền vọng hối sóc, Tí Ngọ Tị Hợi, Dần Tí Khôn Thân, 24
khí, 72 hầu, nhất niên giao hiệp, nhất ngoại châu hội, Khảm Ly
tinh, thố kê nguyệt, Càn Tốn huyệt, nhị bát môn, triêu Truân, mộ
Mông trú Cấu, dạ (đêm) Phục.
Nếu người chẳng biết để tạo thực quả, cần phải nương theo thời
xét theo tiết, thôi thúc khí, trắc lượng hầu, phân tích số pháp, chuẩn
tắc chu hào. Cho nên ban ngày xem nơi Thổ khuê, ban đêm xem cơ
khắc lậu. Có nhiều người rất lầm lẫn.
Lại phải biết về chu niên tạo hóa, là tinh khí chu vận trong châu
thân. Ngày đêm thời khắc có cơ biến thái của tinh khí. Trong đó có
suy có vượng, có thăng có giáng, có phù có trầm, có thanh có trược.
Cho nên Thánh nhân mới dùng ngoại tượng để làm chứng. Thù bất
tri, Thiên địa khí số, tại nơi một thời công phu.
Sở dĩ trung gian có chứng quả là âm dương hàn thử, có hiện trạng
dược sinh sát dinh khuy, nhỏ thì xét nơi trăm khắc, lớn thì như một
năm. Cũng chỉ tại một thời.
Nhưng một thời tức có một chỗ, một chỗ tức có một vật. Có người
nào biết được chỗ Nhất nầy, liền thể thủ có pháp, vận dụng có độ,
cân lượng có qui tắc, thủy hỏa có đẳng bậc. Cùng với cơ mầu của
trục thiêm tấn thối, với ảo diệu của mộc dục giao kết. Cả đều phải
phòng nguy lự hiểm.
Nếu chỉ một hào li sai thất, thì kim hống sẽ bị lìa hư. Chẳng biết
thâm sâu về cơ tạo hóa, thì làm sao hiểu được Chân nghĩa của âm
dương.
Cho nên mới liệt vào cơ bí mật.
Nhất âm nhất dương chi vị Đạo, tức là Kim đơn.
Cổ nhân dạy về luyện thất phản cửu hườn kim dịch đại đơn, là con
đường tắt nhập Đạo.
Cho nên có một thời công phu, và có lời nói: Tự nhiên giao cấu,
hồi phong hỗn hợp, bách nhật công linh.
Công phu chín năm gọi là Cửu chuyển.
Luyện trong một năm là ôn dưỡng Thánh thai.
Đó là những điều dấu kín, không để lộ, vì là điều cấm bí của
Thượng thiên. Là không khinh tiết cái Đạo nầy, nhất là Cốc Thần.
Chẳng biết rành về Cốc thần, nên không biết chỗ phục qui, khiến
cho kim mộc bị gián cách, thủy hỏa bất tương tế.
Cổ nhân nói: Thần ngưng tức khí tụ,
Khí tụ tức Thần linh,
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
146
Thần linh tức Linh giác.
---oOo---
14. THÁI CỰC ĐỒ THUYẾT
Tánh Mạng Khuê Chỉ
Vô cực dương động, Thái cực âm tịnh.
Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ
Đồ này O, Thích gọi Viên giác, Tiên gọi Kim đơn, Nho gọi Thái
cực.
Gọi Vô cực mà Thái cực là: Chẳng đến tột mà tột.
Con người lúc mới sinh, một điểm linh quang làm chủ hình hài, đó
là Thái cực.
Trước khi cha mẹ chưa sinh, chỉ có một khối thái hư là vô cực.
Độ sư nói: Dục thức bổn lai Chân diện mục. Vị sinh thân xứ nhất
luân minh.
Doãn Công nói: Thái cực có một lý, tự vận hành gọi là thời hầu.
Trời đất cũng không ngoài một hơi thở, tự ngưng kết mà thành
Chân chủng. Một hạt thóc bao cả Trời đất, đêm nghỉ để qui căn, tra
minh là thời hầu. Thái cực thai vựng là kết trái. Giao cấu kết thai là
Chân chủng. Người bảo
15. THÁI CỰC PHÁT HUY
Tánh Mạng Khuê Chỉ
Cao cả thay về ngôi Thái cực trong thân ta
Sanh sanh hóa hóa cùng Trời đất chung đồng.
Trường sinh bất tử, siêu xuất ra ngoài trời đất.
Lòng những thích sống ghét chết, nên mắc vòng sanh tử. Chẳng
nghĩ về cuộc sống giả tạm, không quan tâm đến sự chết, mới có thể
trường sinh, mới có thể bất tử, mới có thể khác với phàm phu.
Trường sinh bất tử cùng với Tiên Phật đồng.
Sở dĩ được hiệu quả đó đều từ trong Thái cực xuất phát, nhưng về
tác dụng có chỗ bất đồng.
Có người biết Thái cực có trước khi chưa có Thiên địa vạn vật,
nhưng không biết trong Thiên địa vạn vật đều có Thái cực.
Thái cực có thời hậu, có chân chủng.
Lúc chưa có Thiên địa vạn vật, thì Thái cực tại nơi hai hội Tuất
Hợi.
Thái cực vốn có một nguyên Tạo hóa.
Trong mỗi năm, Thái cực tại tháng Tuất tháng Hợi. Có hai tháng
Thái cực này mới có cơ Tạo hóa tiếp nối. Trong mỗi tháng có 5
ngày Thái cực, từ ngày 26 đến ngày 30 âm lịch. Có 5 ngày Thái cực
này mới có một tháng Tạo hóa tiếp nối. Trong một ngày có hai giờ
Thái cực Tuất Hợi. Có hai giờ Thái cực này mới có một ngày Tạo
hóa tiếp nối. Có một thời Thái cực tại yểu yểu minh minh, là hai
hầu. Có hai hầu Thái cực này, mới có một thời tạo hóa.
Các loại động vật, Thái cực tại qui trập (núp)
Các loại thực vật, Thái cực tại qui căn.
Con người, Thái cực tại lúc an nghỉ có nửa tỉnh.
Giao cấu có thời, điều dưỡng có pháp.
Chẳng gây sự tổn thương cho Thái cực, thì cuộc sống thân tâm
mới được an bình.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
147
Lúc nào đoạn tuyệt được dâm dục, rồi nhập định vào trạng thái
Thái cực, công phu không gián đoạn, có thể đoạt được trường sinh
bất tử, có thể thành Tiên, có thể tác Phật, chẳng còn bị sự hủy hoại
tánh mạng như trước.
16. VÔ CỰC ĐỒ THUYẾT
Kim Đơn Đại Thành
ooOoo
Vô cực cũng là Đạo và hình nhi thượng cũng gọi là Đạo, đó là Thể
của Đạo.
Vô cực nhi Thái cực, bao hàm cả ba làm một, trong đó có đủ số là
55.
Trong Vô cực là bản thể. Thái cực nhất phán thì Lưỡng nghi sinh,
là do cơ động và gốc ở âm. Còn cơ tịnh là gốc ở dương.
Đó là dương biến âm hiệp, mới sanh thủy hỏa thổ kim mộc.
Thủy sanh số 1, thành số 6
Hỏa sanh số 2, thành số 7.
Mộc sanh số 3, thành số 8.
Kim sanh số 4, thành số 9.
Thổ sanh số 5, thành số 10.
Đó là số của dương cơ (lẻ) âm ngẫu (chẵn).
Nhất dương nhất âm chi vi Đạo.
Sanh sanh bất cùng chi vi Dịch.
Con số 1 là con số lẻ. Con số 2 là con số chẵng.
Dương cơ âm ngẫu tức nhị (1+2) sanh tam.
Thuần Càn là Chân tánh. Lưỡng Càn thì thành Khôn là mạng,
cũng như tinh với khí.
Càn lại tiếp nối với Khôn mà thành Khảm. Trong cung Khảm có
một dương là nguyên tinh, cho nên gọi Càn Đạo thành nam.
Khôn lại tiếp nối với Càn mà thành Ly. Trong Lý có một hào âm
đó là Chân tinh nên gọi Khôn đạo thành nữ.
Càn nam Khôn nữ, là lấy khí hóa mà nói.
Ly là tượng của mặt nhật. Khảm là tượng của mặt nguyệt. Nhật
nguyệt hiệp mà thành Dịch, mà cũng thành Minh. Là hai nền văn
minh của Hậu thiên và của Trung thiên. Là cái đạo giản dị thường
hành, thiên biến vạn hóa, có sở diệt mà cũng có chỗ bất diệt.
Về nguyên tinh vốn tịch nhiên bất động, vốn cương kiện trung
chánh.
Loại thuần túy tinh được bảo tồn, mà tánh có chỗ ký gởi, là căn
của mạng.
Loại Thần trong tâm cảm mà toại thông, thất tình còn là chỗ ký
gởi của mạng, là guồng máy của tánh.
Chế trừng được sân hận thì tâm hỏa hạ giáng.
Ngăn ngừa được dâm dục thì thận thủy thượng thăng.
Quân tử huỳnh trung thông lý, chánh vị cư thể, thì lạc tại kỳ trung,
sướng cả tứ chi, nên tu luyện ở đó là điều rất tốt đẹp. Là nhân lúc
rảnh rỗi hằng bảo tồn đức Chí thành. Suốt ngày tợ như ngu, Thiên
lý thuần toàn, qui căn là tịnh. Tịnh là phục mạng. Cực động lại tịnh.
Cực tịnh lại động. Vạn vật hóa sinh. Lấy hình mà nói, hình nhi hạ
gọi là khí, đó là sở dụng của Đạo. Nam Hiên nói: Chân tri căn
nguyên là hiểu Đạo. Biết được Đạo mới có thể siêu xuất ra ngoài
Tạo hóa, cao chót vót và thường tồn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
148
---oOo---
Chương Mười Tám
BỔ TÚC
1. KHUYẾN TU
Ngộ Chân Thiên
Bất cầu Đại đạo xuất mê đồ.
Túng phụ hiền tài khởi trượng phu.
Bách tuế quang âm thạch hỏa xán.
Nhất sanh thân thế tợ bào phù.
Chỉ tham lợi lộc cầu vinh hiển.
Bất giác hình dung ám tụy khô.
Thí vấn đôi kim như đại nhạc.
Vô thường mãi đắc bất lai vô.
Tạm dịch:
Chẳng cầu Đại đạo thoát mê đồ,
Cậy ở hiền tài há trượng phu.
Trăm năm bóng nguyệt như lửa chớp,
Cái kiếp thân nầy tợ bọt trôi.
Chỉ tham lợi lộc cầu vinh hiển,
Chẳng ngờ hình dung đã héo khô.
Thử hỏi vàng chất cao như núi,
Có mua ngày chết đến nơi không?
Cõi trần hoàn dẫy đầy thinh sắc, Lợi danh là chốn lấy khổ làm vui,
lấy giả làm chân, tổn tinh hao khí mai một tánh mạng, chỉ còn chờ
chết mà thôi.
Nếu người nào đã được chứng ngộ thì được siêu xuất thành bậc
Chí nhân.
Nếu kẻ nào không hiểu gì hết tức sẽ bị hãm vào trong mê đồ,
thành kẻ mê nhân!
Từ xưa các bậc đã thành được đạo Chân Tiên, từ lúc còn trẻ đã
nên một người hiếu thuận trong gia đình toàn vẹn nhân luân, cho
đến lúc ba bốn mươi tuổi đã biết công phu về sơ Thiền, Luyện kỷ
trúc cơ nên mới được bảo toàn tánh mạng.
Trải qua trăm năm tuế nguyệt, tai mắt dẫy đầy vinh nhục buồn vui.
Nếu không biết phản bổn hườn nguyên, qui căn phục mạng, rồi
ngày đại hạn kề bên, dù có vàng ròng vô số cũng buông tất cả và ra
đi, nên Tiên Ông mới nói:
Thí vấn đôi kim như đại nhạc,
Vô thường mãi đắc bất lai vô.
Cổ Tiên có nói:
Thiên niên thiếc trụ hoa khai dị,
Nhất thất nhân thân bất khả tầm.
Tạm dịch:
Trụ sắc ngàn năm trổ hoa dễ,
Lúc mất thân nầy kiếm khó ra.
KHUYẾN TU BÀI II
Ngộ Chân Thiên
Nhân sinh tuy hữu bách niên kỷ,
Thiên thọ cùng thông mạc dự tri.
Tạc nhật nhai đầu du tẩu mã,
Kim triêu quan nội dĩ miên thi.
Thê tài phao hạ phi quân hữu,
Tội nghiệp tương hành nan tự khi.
Chân dược bất cầu hà đắc ngộ,
Ngộ nhi bất luyện thị mê si!
Tạm dịch:
Nhân sinh tuy có hạn trăm năm,
Tuổi thọ, cùng thông khó hiểu ngầm.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
149
Ngày trước buông cương rong tuấn mã,
Hôm nay trong quách ngủ âm thầm.
Vợ con tài sản không còn một,
Tội nghiệp mang theo đến cõi âm.
Chân dược chẳng cầu sao được gặp.
Gặp rồi không luyện cũng mê lầm.
---*---
Người đời đoạt lợi tranh danh ngày đêm lao lực, lại còn nói tuổi ta
sẽ lâu dài, và mãi hưởng cuộc đời hoan lạc!
Nhưng họ làm sao hiểu được sẽ chết sớm hay sống lâu, cũng như
vận mệnh cùng hay thông, được hay mất, làm sao biết trước được.
Chớ gọi trên đời ít có người được trăm tuổi nhưng dù có sống
được trăm tuổi, nhưng cuối cùng cũng không khỏi ra cõi mồ hoang.
Thường thấy người đời thoạt còn thoạt mất. Cũng như có những
người mới trong đương nói đương cười, thình lình bị bạo tử!
Còn có những sự chết chóc vô cùng thảm khốc là tai họa chiến
tranh xương núi máu sông!
Con người lúc còn mở mắt vợ con của cải đều thuộc quyền sở hữu
đều luyến luyến ái ái.
Nhưng đến khi nhắm mắt, một vật đều không, chỉ còn mang theo
tai họa nghiệp trần!
Sao không lo sớm kháng phá tất cả những gì gọi là tai kiếp, để
được nhẹ nhàng trong ngày nhắm mắt ra đi?
Sao không sớm tầm Chân sư để cầu Chân dược?
Thoảng như cơ duyên tương phùng thì trên thế gian này có loại
hạnh phúc nào bằng.
Nếu là người có đại căn cơ, tức có Tiên căn ắt sẽ có mãnh lực tu
luyện, ắt có thể xuất tử nhập sanh để hoàn tất kiếp số vô thường.
Giả như có người đã đắc ngộ Chân truyền mà không hạ thủ quyết
tâm tu luyện, lại còn tự bạo tự khí, có phải là kẻ si nhu không?
Con người có một loại quí báu vô giá là tri, là giác, cao tột là Chân
tri chân giác.
2. PHÁ NGHI CẦU BÍ QUYẾT
Kim Tiên Chứng Luận
Tăng Hoát Nhân thất vấn:
1. Đệ tử ngu ám, nhờ Lão sư truyền thọ cho pháp môn Hỏa hóa
đoạn dâm, con đã dụng công bốn tháng, chứng nghiệm được cảnh
hải trung hỏa phát, đối đẩu minh minh.
Lại được nhờ Lão sư trao cho mật ngữ về Pháp luân thường
chuyển. Con hành trì 50 ngày thì dâm căn tự đoạn, vĩnh vô sanh cơ,
phản chiếu Bắc hải, tợ như ánh quang với màu sắc trắng như bạc,
ánh sáng ấy phóng lên đôi mắt, là biết đã thành xá lợi.
Ngày trước, lúc con còn theo đả thất môn, chẳng thấy thành tựu,
lại thấy nhiều người bị thổ huyết, là do lẽ nào?
Lão sư đáp: Từ lúc đức Như Lai khai hóa, Tây thiên 28 vị Tổ,
Đông độ 6 đời, đều không có pháp môn nầy. Loại pháp môn nầy do
nhóm tăng Cao Phong môn nặn ra, di hại hậu nhơn. Chỉ vì Cao
phong chuyên tập bế khí bàng môn. Cao phong lấy bế tức nắn khí
làm pháp môn chính yếu, đó là phương sát nhân vô kiếm.
Thổ huyết là do quì hương nắn khí, tổn thương tạng phủ. Còn
phương đả tọa hương bảng, nên gây tổn thương cho tích lạc, dầu
cho Lư y Biển Thức cũng đành khoanh tay.
2. Lại hỏi: Tham thiền vấn thoại đầu, chẳng thấy thành công là tại
sao?
- Như Lai có chỗ thí vấn, là để xem đệ tử về Tánh đạo, đã minh hay
chưa minh. Còn về giáo ngoại biệt truyền là Huệ mạng, nếu người
nào không đắc được, thì không thể thành Chánh quả.
3. Lại hỏi: Có nhiều người chuyên niệm kinh niệm Phật, sao không
thấy một người thành?
- Kinh giả kỉnh dả. Là lời nói tắt, là con đường tắt. Thánh nhân
dùng lời kinh tóm tắt để chỉ con đường tắt cho người tu hành, tu
mau đến nơi đến chốn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
150
Lục tổ có nói: Đông phương nhơn tạo nghiệt, niệm Phật cầu sanh
Tây Phương. Tây phương nhơn tạo nghiệp, niệm Phật vãng sinh hà
phương?
4. Lại hỏi: Thích giáo ta tham thiền, con người phải được: Thân
như cảo mọc, tâm tợ hàn khối (tro lạnh), không hề dấy lên dục
niệm, mà vẫn còn tẩu lậu, không thành bản thể kiên cố, là tại sao
vậy?
- Là con người lúc đã đến 16 tuổi thì quan khiếu đã khai mở. Nếu
quan khiếu đã khai, tức sẽ bị tẩu lậu. Còn việc niệm kinh gây sự tổn
thương cho trung khí. Cách khô tọa làm cho tâm và thận không
được giao hội, và sẽ bị tẩu lậu. Cho nên cận đại những người xuất
gia thường bị ngược chứng, nước trong người khô, thổ huyết, đôi
mắt khô, đều do nguyên nhân trên.
Cách làm cho thận được kiên cố, phải dùng Chân hỏa huân hóa, ví
như đặt nồi nước lên trên lò lửa, mới được lửa tự nhiên biến hóa
thành khí, đức Như Lai có nói: Hỏa hỏa di hậu, thâu thủ xá lợi.
Thực có Chân truyền.
5. Lại hỏi: Ngày nay có một số người tu Thiền, không hề quan tâm
đến việc tẩu lậu, mà tự nói: Chỉ lo tu sẽ được thành công, như vậy
có kết quả không?
- Trên Thiên đường không có một người nào bị tẩu lậu cả. Chỉ bị
tẩu tiết một lần tức là kẻ phàm phu, nên không thành.
6. Lại hỏi: Phật dùng pháp nào để khỉ thủ?
- Phật dùng pháp đối đẩu minh tinh kỉ thủ.
Đối: Trung Hoa gọi là phản quán.
Đẩu: là Bắc Đẩu, là Đơn điền.
Chẳng dụng công phu theo pháp đối đẩu minh tinh, thì vạn vật vô
sở thành. Là một pháp rất bí mật của Thích giáo.
Nay ta đã toàn lộ, các ngươi nên thận tư, nên thận tư.
7- Lại hỏi: Ngày nay Thích giáo truyền pháp, người nào sau khi đã
được thọ pháp thì tự xưng là đại hòa thượng. Sự thọ pháp đó có
phải là Chân pháp không?
- Người đắc pháp đó, khác gì người đương nằm mộng được vàng,
cũng như kẻ lên hí đài xưng vua xưng chúa, làm gì có sự thật.
Từ đức Đạt Ma Tổ sư đến Lục Tổ, chỉ khẩu truyền tâm thọ.
Ngũ Tổ nói: Mật phụ bản âm.
Còn việc truyền pháp ngày nay là truyền trên giấy, cũng không
đúng theo Chân pháp.
Vương Hội Nhiên thất vấn:
1. Lời hỏi: Con nhờ Lão sư trao truyền hạ thủ công phu, tu luyện
hai tháng thì được cảnh dược sản. Lại nhờ khẩu quyết truyền trao là
Châu thiên, con dụng công 3 tháng thì ngoại thận bất cử, Đơn điền
thường tự ôn noãn, con tự biết là đơn đã thành. Chẳng biết về các
pháp môn khác, tu có được thành công không?
- Chẳng được Thần khí giao hiệp, sản xuất Chân chủng, vạn vật sở
thành. Ngoài ra dù có chuyên cần, cũng là tự rước lấy bệnh, nên
nói: Vạn ban sai biệt pháp, tổng dữ kim đơn sự bất đồng.
2. Lại hỏi: Có một vị Tiên sinh tự nói là đã đắc cảnh dược sản. Lại
cũng thường pháp thăng giáng, trường tọa mười năm, mà vẫn còn
tẩu lậu, và không kết đơn, tại sao?
- Tuy đắc dược sản, mà không biết hỏa hầu. Tuy có thăng giáng
mà không biết cơ hạp tịch, độ số, rồi cưỡng vận, nên đơn không kết.
3. Lại hỏi: Có một vị nói dạy người ngưng thần nhập khí huyệt, lúc
dương sinh thì hậu thăng tiền giáng mà cũng không kết đơn là tại
sao vậy?
- Chẳng biết pháp khỉ thủ, không có dược mà trước dụng công
thăng giáng, đó là mượn lửa đốt nồi không, nên đơn chẳng kết.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
151
4. Lại hỏi: Có một vị nói lúc dương sinh thì lưỡi trụ vào chân răng,
rồi đưa lên trên để thâu tân dịch giáng hạ, cũng không kết đơn, là vì
sao vậy?
- Dương này là khí vị dương, chẳng phải loại dương của dược sản,
nên dầu có dụng công thăng giáng cũng thành vô dụng.
Lại không biết rõ con đường đạo lộ, nên loạn để khí tà hóa, tất bị
chứng thổ huyết.
Còn thôn nước tân dịch của người này là vật hữu hình, nên bị rơi
vào đại tiểu trường, rơi theo hai con đường tiện mà xuất ngoại, có
lợi ích gì đâu.
5. Lại hỏi: Có một giả đạo nhân dạy người lúc dương sanh dùng hơi
thở mà the. Cứ một hơi thở the, thì có một hơi thở phong, gọi là nhị
hầu, tả biên thượng, hữu biên hạ, cứ một hơi thở thì có một chuyển,
gọi là một Châu thiên, nhưng cũng không kết đơn, là tại sao vậy?
- Người đó chưa phải bàng môn, mà là chưa đắc quyết, tự giả dối
tạo ra lời nói này, để mê hoặc người mê.
Có một vị Chân nhân nói: Chẳng hiểu được Chân pháp nên chỉ
vận hành theo ngũ tạng mà tuần hườn, chẳng phải Châu thiên, nên
đơn không kết.
6. Lại nói: Chuyện ngưng Thần tại khí huyệt thường xuất âm thần,
mà không kết đơn là tại sao vậy?
- Là do không biết lúc dương sinh dụng pháp hô hấp nên đơn không
kết.
7. Lại hỏi: Chẳng đả thất, cũng thổ huyết, và bị bệnh tật là tại sao
vậy?
- Là do cái lỗi bị lầm tin manh sư. Xung Hư Tử sư nói: Tấn dương
hỏa quá trì trọng, tức dẫn tà hỏa vào, nên đầu vựng, mắt đỏ, thủng ê
chướng bệnh, khái thấu, đàm hỏa, thổ huyết, ung thư …
Nếu thối âm trì trọng, tức bức trầm tinh khí, quán nhập vào thận,
sanh dông thống, sa trụy, phúc trướng, thủy cổ. Có khi đến chết.
Liễu Nhiên Ngũ Vấn:
1. Lời hỏi: Bàng môn ngoại đạo, đệ tử bất tất hỏi, mà chỉ muốn
nghe về hỏa hầu của Chánh đạo. Chung Ly Tổ sư có nói: Càn dụng
cửu, Khôn dụng lục, là lẽ gì?
- Về danh thì đúng, về pháp thì chẳng phải.
2. Lại hỏi: Xung Hư gọi giờ Tí hành 36, giờ ngọ vận hành 24, là lý
gì?
- Về danh thì đúng, mà pháp thì chẳng phải.
3. Lại hỏi: Chân nhân gọi dương hào 180, âm hào 120, là lẽ gì?
- Về danh thì đúng, về sự chẳng phải.
4. Lại hỏi: Hứa Sinh Dương gọi dương dùng 216, âm dùng 144, có
đúng không?
- Về danh thì phải, về hỏa không đúng.
5. Lại hỏi: Cả bốn đều chẳng phải sao?
- Đạo rất trọng tại khẩu truyền. Chẳng đắc Chân truyền nên tứ giai
phi.
Như quả đắc Chân sư, thì cả bốn đều Chân. Chẳng những là bốn
pháp ấy được Chân mà cả thảy cũng đều Chân, vạn Thánh đều hiệp
về cơ huyền diệu của hỏa nầy.
Tam giáo, những người thành Đạo, cũ đều do cơ huyền diệu của
hỏa nầy.
3. HẠ THỦ CÔNG PHU
Tiêu Dương Kinh
Công phu hạ thủ chẳng tại hữu tác hữu vi.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
152
Tại hữu tác hữu vi đều thuộc Hậu thiên.
Ngày nay trong cửa tu hành đa phần đều mắc phải nạn này, cho
nên trên đời ít có người Chân tu.
Lại cũng không được chấp nhất ở vô vi, nếu chấp nhất vô vi tức bị
rơi vào nẻo ngoan không. Ngày nay nhiều người đã bị mắc vào tệ
hại này. Chánh đạo sở bất hành là do người tu bất minh Chánh lý.
Sơ công tại tịch diệt tình duyên, táo trừ tất cả vọng niệm, mới có
thể hạ công.
Trừ tạp niệm là công phu ở Sơ thiền Luyện kỷ Trúc cơ. Lại phải
khắc trừ tư dục, trừng tâm tập tịnh lay phàm tâm như Thiền tâm.
Mỗi ngày phải thanh tịnh tối thiểu là một giờ.
Chờ cho lúc nào thân tâm đều an tịnh, khí tức điều hòa, mới dùng
song mục vi khai, thùy liêm quán chiếu vào trung tâm của Cốc thần,
chẳng dừng chẳng lìa, chớ quên chớ trợ, vi vi dày lên Chánh niệm,
Ngưng chiếu nơi trung, tai mắt đều thâu vào trung, vạn niệm đều
mất, chỉ còn một tâm linh giác. Đó là Tiên thiên Chân niệm.
Lúc đầu niệm chưa manh nha tức Chân ý là Chân thổ là Huỳnh bà.
Trong loại niệm nầy như có như không, chẳng nên quá chấp, lại
không nên quá phóng túng, mà phải thung dung tự tại, phải linh
động siêu nhiên. Lại dẫn khí vi vi hô lên trên mà chẳng xung tâm,
hấp hạ vi vi mà không xung thận. Lân lân hiển hiện một lại một
qua, như mất như còn, một chiếu một dụng.
Nếu niệm thâu khẩn, ắt có cái hỏa thái viêm, tất có nỗi lo nguồn
nước khô kiệt.
Nên thơ thơ hưởn hưởn. Như có một niệm phóng túng, ắt sợ nước
thành dinh mãn, tất có nỗi lo cái tệ hỏa hàn.
Cần lo chiếu cố nơi trung, công phu dần dần, từ một thất đến hai
thất (2x7=14), tự nhiên thận thủy sẽ được huân chưn, yêu du khí ấm
ngày càng thêm thịnh. Chừng ấy tức không cần điều, mà trên dưới
thảy đều bất xuất bất nhập. Đó là thai tức, đó là Thần tức, đó là
Chân nhân chi tức dĩ chùng. Chủng là chân nghĩa thậm thâm. Đó là
Chân tức, đó là Qui tức, đó là qui căn phục mạng.
Nhưng nhất hạp nhất tịch, tuy vô hình mà hữu cơ, đó là Chân thác
thược, đó là Chân đảnh lư, đó là huyền tẩn môn Thiên địa căn.
Lúc Chân khí đã đúng thời, như hoa vừa trổ nhụy, như thai mới
kết trong bào, tự nhiên Chân khí huân chưn vinh vệ, phát xuất từ Vĩ
lư lên Giáp tích, đến Nê hoàn, xuống Thước kiều, qua trung lầu,
đến Gián cung, và rơi vào Trung đơn điền. Đó là hà xa sơ động,
nhưng khí đã đến mà Thần chưa hoàn, là chẳng phải Chân động
vậy. Cũng không nên điều ý, mà ta chỉ vi vi ngưng chiếu để bảo thủ
Trung cung. Cứ mỗi bước công phu, thì tự có vô cùng quan tiết, vô
cùng cảnh tượng, vô tận sanh cơ. Đó gọi là sự nuôi dưỡng Cốc thần.
Lúc thấy được một sự xuất hiện quang cảnh, thì âm dương mới có
môn hộ, Chân khí mới có thăng giáng, Càn khôn mới có vãng lai.
Công phu độ một vài tháng, Thần của ta mới được an tịnh. Tịnh
tức vô vi, và Thần ích sinh. Đó là công phu luyện tinh hóa khí.
Còn pháp ôn ôn hỏa hầu, công phu cũng độ một vài tháng hoặc
trăm ngày, tức tinh thần thêm trưởng vượng, Chân khí dần dần sung
mãn, huyết thủy có dư, tự nhiên Khảm Ly giao cấu, Càn Khôn hội
hiệp, Thần dung khí sướng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
153
Công phu trong một thời gian, Can khí hỗn hợp, tự có một trận
trăm mạch tự xung, đó là Cân hà xa phát động tại trung gian.
Nếu có một điểm Linh quang giác chiếu tại Hạ đơn điền, đó là sự
kết nên hạt tấc mễ huyền châu. Đó là trồng một hạt huyền châu
dưới đất bùn, đó là địa lôi chấn động, đầu núi nhờ nước mưa rửa
sạch, huỳnh nha xuất hiện từ dưới đất lên. Lúc này là lúc nhất
dương sanh hoàn tất, khác nào như trăng thu chiếu soi xuống đầm
nước trong xanh, như hồng nhạt mới nhố lên, mờ mờ thăm thẳm
chiếu vào thương hải, tợ như móc mà không phải móc, như ẩn như
hiện, như Thần long dẫn thủy, như mây vượt trong điển quang …
Các cảnh tượng không thể nào tả hết.
Lúc Khảm Ly chưa giao, ta phải giữ cho tâm hư vô tịch tịnh, rồi
dùng Thần ngưng chiếu vào ngôi Trung. Công phu như vậy độ trăm
ngày không gián đoạn, mới được thành thai. Đó là ngũ hành phối
hợp, thủy hỏa tương giao, Khảm Ly hiệp nhất. Gọi là nhị hầu thể
thủ, là Tiểu châu thiên, là tiên hành đoản.
Càn Khôn Khảm Ly đã giao, là tức hầu đắc dược, huyền châu
trình tượng. Thần cư tại trong đảnh, đơn quang chẳng lìa, hà xa
nghịch chuyển. Là lúc phải dụng công theo Đại châu thiên, cũng
gọi là Cửu chuyển Đại hườn đơn. Gọi là hậu hành trường.
Nếu trong đảnh đơn quang không có ánh sáng, cần phải phối hiệp
với Chân hỏa và chờ đến lúc nào đơn quang được rực sáng, mới có
thể hành Đại châu thiên hỏa.
Nếu dụng công sớm, là lúc chưa có Đại dược, khác nào lửa đốt nồi
không, làm cho dược tán.
Lức ngưng tụ Chân khí, tâm phải tịch tịnh hư vô, mới thấy được
một điểm Chân cơ của tánh Ly, mới nghe được cơ huyền diệu của
tự nhiên thượng thăng. Là lúc dùng cơ vi của Chân ý để thể thủ, là
có cơ trổ hóa vậy. Cho nên lúc thời cơ đã đến là dương sinh, lập tức
thể thủ.
Công phu phối hợp được thuần thục, thì Tiên thiên tự nhiên được
vận dụng, là vô trung sanh hữu. Nên có lời nói: Hữu tác hữu vi giai
thị ảo. Vô tướng vô hình thủy thị huyền.
Trong cơ tịnh có Thiên cơ, tâm phải biết, thần phải vận, tự nhiên
Chân khí dần dần hiện rõ, gọi là nguyên thủy Tổ khí, lại gọi thọ khí
sanh thân, đó là một điểm Chân dương tinh, là Khảm Ly tinh, là
Chân chủng tử, là thủy trung Càn kim là huyền tẩn.
Thần khí lúc chưa hiệp, đó là một điểm Chân dương. Nếu còn hệ
thuộc về hai nhà, tức ẩn giấu nơi trong thinh tức thị dục, thì vô hình
vô trạng.
Tánh mạng đã giao, Thần khí đã hiệp, đó là một điểm Chân khí,
do 2 khí âm dương hỗn hợp làm một. Lúc đã rõ ràng, là dục tận, là
tình lặng, mà có tượng có tinh, đến địa vị nầy Chân tức phải trụ nơi
thai. Là lúc tám mạch đều dừng, dương khí tự thăng, âm khí tự
giáng, thời khắc không sai, ngàn giống sáng rực, và có muôn loại
cảnh tượng. Lúc nầy ta chỉ vi vi ngưng chiếu nơi trung, bất xuất bất
nhập, vô khứ vô lai, rồi nương theo long tranh hổ đấu, hà xa vận
chuyển, Thiên đại một phen phản phúc. Chỉ trong giây phút động
cực thì tịnh sanh, Chân dược tự nhiên thượng thăng, rồi nhập vào
cơ hạp tịch.
Lúc nầy nơi đảnh ôn ôn, có hào quang soi thấu màn rèm, Chân ý
luôn luôn chiếu ứng, miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần, hồi
quang phản chiếu, Chơn thần thường tịch nơi Cốc thần.
Trong một thời gian mà niệm không sinh, thì Chân ý cũng trụ
trong bào thai. Long hằng tĩnh tĩnh không mất, suốt năm niệm cũng
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
154
không xuất, đó là phong cố hỏa hầu, đó là công phu an Thần nhập
đảnh.
Nếu chỉ biết thể thủ, mà không biết phong cố rồi cứ mãi theo đó
mà công phu, cuối cùng cũng bị hạ lạc.
Cho nên dù có thấy long mà chẳng biết long, dù có thấy hổ cũng
không biết hổ, cứ an Thần nhập đảnh, thì một điểm Chân cơ tự
nhiên trường tồn. Đến đây mới có hai dương sinh, trăm mạch châu
lưu, có một điểm tĩnh tĩnh, dừng tại trong bào, rực sáng mãi mãi, vô
khứ vô lai, không xen không tạp, như anh nhi trong bụng mẹ, hoàn
toàn không dấy lên một niệm. Cứ theo đó mà công phu không gián
đoạn Thân sẽ được tự nhiên. Lúc nầy mây trắng khắp trời huỳnh
nha ngập đất. Từ một dương hai dương ba dương, Chân ý mãi quán
chú. Nay lại một ngày, một ngày là một châu thiên. Từ tế vi đến
hiển hiện, dần dần thịnh đại, như trăng tròn rực sáng nơi không
trung. Trời đất như một cái kiếng sáng tròn trịa, muôn ống sáo thảy
đều bặt tiếng, Càn Khôn trong cảnh tượng tịch tịnh.
Công phu cho được bốn dương, năm dương, sáu dương, mười
tháng viên mãn công phu, thì trong ngoài đều hư không sáng lạng,
khắp cơ thể đầy kim quang mới thành Thuần Càn. Đó là do thời
điểm của hoảng hốt, của tra minh, là do Chân tinh ngưng kết mà
thành. Chỉ có thể dùng Chơn thần để xem, mà không có thể tưởng
tượng cầu.
Cứ như vậy mà công phu từng bước, từng bước, thì tự nhiên thành
công. Chẳng nên vượt bậc trợ trưởng. Cho nên sau khi một dương
sanh, Thần cư tại đảnh, đơn quang chẳng lìa.
Lại còn phải có Chân hữu điều độ, uống ăn lạnh nóng, tất cả đều
đủ, mà không hề liên quan đến tâm.
Suốt ngày tợ ngu, như gà giữ trứng, như rồng dưỡng châu. Niệm
tư tại tự, kim đảnh thường ấm, ngọc lư không lạnh. Chỉ lo mặc thủ
một điểm Linh quang.
Ta vô vi mà thần tự hữu vi, khiến cho dần dần ngưng, rồi dần dần
kết. Đó là khí hóa thần, là lúc đắc đơn, tiên kinh gọi một điểm rơi
vào cung huỳnh đình.
Thần nhập khí thành thai, khí qui thần đơn kết. Chỉ vì người dục
vọng mong sớm được kết đơn, nếu niệm đa thì đơn chậm kết.
Người tu phải có quyết tâm đoạn từ tạp niệm, mới có hy vọng
thành công.
Chánh pháp vốn giản dị, là hồi phong hỗn hợp trong thời bách
nhật công linh. Công phu tấn tốc, như bóng theo hình.
Sau khi đắc đơn, chỉ có mười tháng công phu, và đến đây sẽ có
thần quang phản chiếu.
Lúc này trăm ma đều xuất, và cùng nhau dẫn nhập vào ma tông.
Trong lúc bình thời, phải lo tích công lụy hạnh, thì thiên thần tự hộ.
Sau khi kết đơn, tức có bao cảnh tượng, đều do túc tập tạp niệm
trong.
Thuở bình sanh, đến đây cũng tận xuất. Các loại ảnh tượng đó
chẳng phải là thân cảnh tượng.
Chẳng nên để cho những cảnh tượng đó dẫn dụ, ắt sẽ bị kinh
khủng vì cảnh tượng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
155
Chỉ lo dụng công theo thần pháp, không được gián đoạn. Suốt
trong mười tháng không có một hào tạp niệm, chân ý nhập vào
trung cung.
Nếu không được như vậy, ắt sự tán thất, và đại đơn không được
kiên cố.
Tọa ngọa hành trụ, chân lý không được lìa thánh thai, đại để là
miên miên tịch chiếu.
Lúc nầy tạp niệm đều tiêu tán mà chỉ còn giác chiếu. Gọi là chân
không ôn ôn hỏa hầu. Tự nhiên cơ pháp động, chân khí triều
nguyên, Càn Khôn phản phúc, tấn thối có độ, động tịnh có qui.
Thời hành phải hành, không nên ngăn trở. Cứ tự nhiên mà hành thì
mây thâu, móc cuốn, tợ như hạo nguyệt độc minh.
Thời chỉ phải chỉ, không được cưỡng hành, tự nhiên mà chỉ. Đó là
Thiên cơ tự nhiên, là cơ sanh thành của Tạo hóa, chẳng do sức
người làm được.
Như chấp nhất về hữu vi, tức thuộc Hậu thiên.
Nội đơn hỏa hầu từ thủy đến vỹ, chỉ có ôn ôn là chủ yếu. Chỉ an
Thần tức, một nương thiên nhiên, Chân hỏa. Chân hỏa là Chơn thần
khí. Hầu là không gián đoạn, không dứt, không nôi, bất xuất bất
nhập, vật vong vật trợ, miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần.
Dụng chi bất cần tức là ôn ôn vậy.
Chẳng phải như ngoại đơn có công gia giảm, có pháp vận dụng.
Đó là một điểm Chân cơ tĩnh tĩnh. Thích gia gọi viên đà đà, đó là
thấy Tánh thành Phật.
Tiên gia gọi: Vô du đăng chiếu thập chương. Cái đèn không có
dầu mà chiếu khắp mười phương. Là ám chỉ Kim đơn.
Sách Tham Đồng Khế có chép: Kim lai qui tánh sơ, nãi đắc xưng
hườn đơn.
Là nói về một điểm Chân dương trong Khảm thượng thăng, cùng
nguyên Thần hỗn hợp nơi Trung cung. Cho nên nói: Tánh mạng
song tu.
Tâm hỏa hạ giáng, thận thủy thượng thăng. Nếu hỏa chẳng hạ
giáng, tức thủy không thượng thăng (tức thủy không …)
Chân tinh một điểm ngời ngời do hạ đan điền lên thượng trung
điền, rồi từ trung điền lên Thượng điền, đều theo qui luật tự nhiên
của Tạo hóa chẳng hề dung chấp một hào trí lực.
Chân âm khí là Thần là Tánh là Chân vô trong hữu.
Chân dương khí là mạng, là một điểm linh quang, là chân hữu
trong vô.
Hữu vô tương hiệp, thần khí hỗn dung, tức là đơn vậy, là đạo vậy,
nên gọi: thái ất hàm chân khí.
Cứ theo đó mà hành trì, đi thẳng một đường không gián đoạn, tự
nhiên trăm mạch đều trụ, hồng huyết hóa ra bạch cao, hà xa đại
định, chân khí vẫy tràn và bất động.
Công phu đến đây thì kim quang rực thể, đó là chân cảnh tượng.
Thời gian dần dần tự giác và được xuất nhập, là sự viên mãn của
mười tháng công phu. Có người được phi vũ nơi tam quan. Có
người thân vượt bay lên cõi tiêu bích. Có người xung thăng lên
thượng viên. Đó là thân ngoại hữu thân.
Lúc nầy không được dụng công trở lại công phu trước. Gọi là địa
linh tạo hóa quái, là hỏa hầu túc, mạc thương đơn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
156
Đến đây chỉ dụng công về chân không tịnh tọa.
Có khi một năm, hai năm, ba năm, năm năm, đến 10 năm, 20
năm, …100 năm, để đã phá hư không, để dùng thái hư đồng thể. Đó
là luyện thần hườn hư.
Công phu trước là mười tháng đã mãn, sau đó phải thời thời chiếu
cố anh nhi, là tập đi từ mười bước đến trăm bước, đến ngàn muôn
bước, dần dần mà xuất.
Nếu có phóng túng, e sợ phong tuyết.
Công phu tập luyện xuất nhập lâu ngày, mãi cho đến lúc được
cường tráng, có thể xuyên qua vàng đá, vào nước dày lửa, thông
Thiên đạt địa, khứ lai vô ngại, ẩn hiện không lường.
Lòng muốn một được một, muốn trăm được trăm, biến thành ngàn
muôn ức hóa thân.
Lại còn phải tiếp tục cho công phu được viên mãn, mới ra tế thế
trợ nghèo.
Sau khi phục thực Thần đơn đại dược tự nhiên hình thần đều có
huyền diệu.
Có người ban ngày được phi thăng.
Có người cỡi chim loan, chim hạc.
Lại còn do ở công đức thâm hậu hay thiển bạt, hay do từ lịch kiếp
công phu và lập đức mà hiện kiếp tuy đồng tu mà dị chứng.
4. LẠC ĐẠO CA
Kim Đơn Đại Thành
Xả vọng tầm chân ẩn thị tân
Luyện diên phanh hống kết hoàn đan.
Thời nhân bất mộ Trường sinh đạo.
Thinh sắc phiền tâm nhất mộng gian.
Liễu Chân Tử duy lạc đạo.
Kỳ lai diệu tại hồi tâm tảo
Phù danh phù lợi tổng hư hoa.
Thế gian duy hữu tu chân hảo.
Thuyết tu chân, nhân tối đa.
Cùng thông biểu lý vô nhất cá.
Nhân đáo đơn sơn gộ Chí nhân.
Nhất ngôn dữ ngã độ quyết phá.
Đắc quyết qui lai thí luyện kha.
Long tranh hổ đấu phiến thời gian,
Văn thâu võ tán vạn duyên tịch.
Triệt dạ phong lôi hám vạn san,
Tịch địa tru mao trúc Thần thất.
Bế quan tuyệt tục cập tinh chiên,
Thiền tọa mao lư duy thủ Nhất.
Ngọc lư dưỡng hỏa bất tăng nhàn,
Tùng kim đạp phá sinh tử lộ.
Phiên thần khiêu xuất quỉ môn quan,
Côn lôn đảnh thượng kham lai vãng.
Thời dan Nguyên thần khứ hựu hoàn,
Duy lạc Đạo, luyện kim đan.
Ngũ khí triều nguyên ngọc động khoan,
Phách thủ hoan xuy vô không địch.
Ngoạn long huyền châu cửu khúc hoàn,
Diên long hống hổ giao cấu thời.
Nhất thiếp hỏa diệm phi thiêu Càn,
Điều biến hỏa công nghi tử tế.
Cương nhu văn võ mạc đa man,
Triêu Truân, mộ Mông hữu quân thần.
Tri túc thường thúc qui bản vị,
Tiền hành tu đoản, hậu tu tràng.
Xuân hạ thu đông y thứ đệ.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
157
Nhị thập bát tú qui nhất lư.
Thủy hỏa yếu phân tiền hậu đội,
Phục, Lâm nhị quái nghi ôn dưỡng,
Tráng, Quan mộc dục tu hồi tị,
Hườn phản công phu nhập Khôn cung.
Luyện đắc kiên ngưng thành nhất khối.
Truân ban thủ đoạn xuất tác gia.
Thí vấn thời nhân hội bất hội.
Liễu Chân Tử duy lạc Đạo,
Kỳ lai diệu tại hồi tâm tảo.
Cấu diện bồng đầu nhiệm sở nghi.
Tịch mịch vô nhân tương quát nào,
Khát ẩm kim tương dữ ngọc tương,
Cơ thực giao tương tịnh hỏa bức.
Tường luân nhật nguyệt nhiệm đông tây.
Ngưỡng quan Tạo hóa công phu xảo,
Tây biên Đoài kim vị thuộc dậu,
Đông biên Chấn mộc vị thuộc mão,
Linh đài hiệu khiết vô nhân tu,
Huyền đàn tịch tịnh vô nhân tảo.
Luyện tinh hóa khí, khí hóa Thần.
Đại đô Thần khí tinh vi bảo (bửu).
Kim mộc tự nhiên hội giao linh.
Thủy phạ dậc hề, hỏa phạ táo.
Như long dưỡng châu thường tự cố.
Như kê dưỡng noãn thường tự bảo.
Kim dịch hườn đơn tại nhãn tiền,
Mê giả đa nhi ngộ giả thiều.
Hữu nhân nhật dạ luyện lai xang,
Vị thắng đề hồ chân cá hỏa.
Văn ngã nhật hạ dụng công phu,
Mất li đảnh môn Chân nhất khiếu.
Xuất tự hư vô phiếu diếu gian,
Tiên thiên Tiên địa vi Đại đạo.
Học nhân đắc ngộ đại hườn đan,
Ư thử ca trung tế tầm thảo.
Ngã nhược phan hào ngọ học nhân,
Vạn kiếp phong đao đương thọ khảo.
Tạm dịch:
Lìa vọng, tầm Chân ân thị hành,
Luyện diên chữ hống được lai sanh.
Người nay chẳng mến Đạo bất tử,
Thinh sắc rộn lòng suốt năm canh.
Liễu Chân Tử chỉ vui vì đạo,
Lạ mau do tại sớm hồi tâm.
Lợi danh mộng ảo quá mong manh,
Chỉ có tu chân, vô giá bảo.
Lời nói Chân tu biết bao người,
Cùng thông nội ngoại mấy ai đâu!
Chỉ đến đơn đài cầu Chí thánh,
Ban cho bí quyết thắng vàng cân.
Ngày đêm ra sức lo huân luyện,
Luyện cho long hổ kết gia thân.
Luyện cho lòng ta tuyệt trong ngần.
Luyện cho sóng dậy san bằng núi,
Luyện cho Thần thất phát hào quang.
Luyện cho tình tục tiêu tan sạch.
Thiền tọa chòi canh giữ Cốc thần.
Lò ngọc ôn ôn không gián đoạn.
Là đã ra ngoài cõi tử sanh.
Là đã vượt xa vùng ải quỉ.
Côn lôn thong thả mặc ngao du.
Là lúc xuất thâu Thần tự tại.
Chỉ vì vui đạo luyện kim đan.
Ngũ khí về nguồn động ngọc mở.
Sáo Tiên không lỗ giọng vang vang.
Huyền châu sớm kết do Cửu chuyển.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
158
Là lúc hống diên hiệp một đàng.
Lửa hồng đốt ấm cung Càn kiện.
Điều biến hỏa công phải kỹ càng.
Cương nhu văn võ chớ lầm lẫn.
Truân Mông sớm tối có quân thần.
Chỉ cảnh, chỉ hỏa, về bản vị.
Tiền hành là đoản, hậu hành tràng.
Xuân hạ thu đông đúng thứ tự.
Hai tám sao về chung một lư.
Thủy hỏa phải rành sau với trước.
Phục, Lâm hai quẻ dưỡng ôn ôn.
Tráng, Quan mộc dục nên cần mẫn
Hồi quang phản chiếu tại Khôn cng.
Luyện được kim đơn thành một khối,
Gian nan công sức biết là bao.
Thử hỏi người nay có hiểu không?
Liễu Chân Tử chỉ vui mùi Đạo.
Lạ mầu thay do sớm hồi tâm,
Lao tâm lao lực tùy qui tắc.
Lặng lẽ không người không tiếng vang,
Khát uống kim tân với ngọc dịch,
Đói ăn Chân hống với Chân diên,
Chuyển vận hà xa đúng Tây Đông,
Ngửa xem công khéo của Tạo hóa,
Đoài kim bên Tây thuộc cung Dậu,
Chấn mộc bên Đông thuộc cung Mão,
Sơ thiền Luyện kỷ mấy người tu.
Cung huyền lặng lẽ không ai đến,
Luyện tinh hóa khí, khí hóa thần.
Là ba linh vật Thần khí tinh,
Thần khí tự nhiên được giao hội.
Nước sợ tràn trề, lửa sợ khô,
Như rồng dưỡng Châu thường chiếu cố.
Như gà dưỡng trứng, chẳng hề lơi,
Kim dịch hườn đơn thấy trước mắt.
Si mê quá nhiều, giác quá ít,
Có người ngày đêm cầu phục thực.
Chỉ có Chân dược vô giá bửu,
Nghe Ta ngày đêm dụng công phu.
Chẳng hề lìa xa ngôi Cốc thần,
Xuất tại hư vô từ thăm thẳm.
Trước trời, trước đất, là đại đạo.
Người học hiểu được sẽ hườn đơn.
Cứ theo lời ta tầm cho kỹ.
Nếu hóa chi tiết sợ người lầm.
Vạn Kiếp tai nguy nên chịu khảo.
5. BỔ TÚC TRÚC CƠ
Thiên Tiên Chánh Lý
Xung hư tử nói: công phu tu luyện về tiên đạo, sơ thủy là trúc cơ.
Trúc: là dần dần tích lũy được tăng ích.
Cơ: Là căn bản tu luyện dương thần, là cơ sở an thần định tức.
Cơ phải được kiến trúc trước tiên, vì dương thần là sự thành tựu
của nguyên thần đến độ thuần toàn và được hiển linh, là thường
nương theo sở dụng của tinh khí.
(thần hậu thiên vốn thuộc âm, tinh khí vốn thuộc dương. Chỉ nhờ
nương chân dương tinh khí, mới thành dương thần, mới được thuần
dương).
Tinh khí vượng thì thần cũng vượng, và pháp lực cũng sẽ thịnh
đại.
Tinh khí hao thì thần cũng hao và suy nhược.
Muốn cho nguyên thần được trường trụ và trường linh giác, tất
phải luyện cho tinh khí trường trụ và được trường tồn cơ chỉ.
Lúc cơ chưa kiến trúc, nguyên thần thường buông rong theo ngoại
cảnh.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
159
(thí dụ mắt trông thấy sắc, tâm liền nghĩ dạm thấy của quí lòng
liền dậy tham …)
Theo ngoại cảnh thì nguyên khí tán, nguyên tinh bại, tức là Cơ
càng bị hủy hoại! như vậy lấy gì để kiến trúc nên Cơ.
Loại tinh trong người cứ mãi rong duỗi theo giao cảm. Năm đầy
tuế lụy luyến luyến ái căn, mà mong chỉ trong một buổi đoạt vô lậu,
làm sao có được? Cho nên gọi vô Cơ!
Còn khí thì bị tán theo hô hấp, hơi ra hơi vào mãi mãi không dừng,
rồi muốn cho một buổi chấm dứt hô hấp, làm sao có được? Cũng
gọi là vô Cơ.
Lời nó trên nhằm minh khai về lý vô Cơ, là do Tinh khí thần đều
bị hủy hoại, con người bị trở thành một bệnh nhân, chỉ chờ …!
Cổ nhân đều nói: lấy tinh để luyện tinh, lấy khí để luyện khí, lấy
Thần để luyện Thần. Chính là sở dụng của Trúc cơ.
Chỉ có phương dụng công là tam bửu phải hiệp luyện thì tinh mới
bổ cho tinh, khí mới bổ cho khí, Thần mới bổ cho Thần.
Trúc mà được thành Cơ chỉ do hiệp nhất. Nếu không thì tinh khí
thần chẳng được trường vượng, mà Cơ cũng không thành. Cơ đã
kiến trúc thành, tức tinh được kiên cố Chân khí cũng được phản
hườn, và trở thành Linh cơ bất hoại, trường sinh bất tử.
(Sách Huyền cương luận có chép: Đạo năng tự vô nhi hữu, há
không tạo cho hữu bằng vô sao? Hữu có được đồng với Vô, tức bất
diệt).
Trường sinh bất tử là quả sơ chứng của phẩm nhơn tiên. Là đã
được siêu xuất ra ngoài cõi dục giới và lên cõi sắc giới. Cũng là cơ
chỉ. Là do ở công phu bách nhật trúc cơ luyện tinh hóa khí. Lên cõi
sắc giới, là cõi luyện khí hóa thần, thập ngoạt hoài thai, đó là cơ chỉ
nơi sắc giới.
Công phu suốt mười tháng không bị hôn trầm, đó là dược cơ vậy.
Suốt mười tháng không ăn không uống, không ảnh hưởng nóng
lạnh, đó là có dược cơ vậy. Trong mười tháng thần không ngoại trì,
mà được nhập đại định, đó là có dược cơ vậy.
Sở dĩ luyện khí mà khí liền định, trải qua ngàn muôn ức hiếp,
tuyệt nhiên không có hơi thở hô hấp. Còn luyện thần mà thần hườn
hư, cũng trải qua ngàn muôn ức hiếp thần chẳng hôn mê, chẳng tán
loạn, không buông trì, cùng trời đất đồng thọ lượng. Cũng là cơ
vậy.
Lại được cùng với các bậc thánh chân có thần thông linh ứng.
Cũng là cơ vậy.
Đó gọi là dương thần có cơ.
Cơ được thành là do dương tinh vô lậu, và được mệnh danh là lậu
tận thông.
Chẳng được vậy gọi là vô cơ, là tinh còn tẩu lậu, chưa chứng được
quả lậu tận, mà đã chứng nhập thần thông, chẳng qua cũng là tánh
âm linh, là quả ngũ thông mà thôi.
Chỉ chứng ngũ thông, tức thận căn chưa kiên cố.
(dương tinh vô lậu, tức được trường sinh bất tử, thành kim cương
kiên cố).
Chẳng kiên cố, tức không khỏi chết ở đây mà sanh ở bên kia. Có
người được bí quyết là mượn xác của người khác, cũng là cách thay
tên đổi họ, cũng là kiếp hư phụ kim sinh, và con mang kiếp âm
thầm, có ích gì đâu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
160
Như vậy về Cơ của Dương thần há không kiến trúc được sao? há
không cấp cứu sao?
Trên đời còn có số người vì dâm cấu mà gây sự bại hoại cho Cơ,
lại dám đòi người bày pháp Thể bổ trúc Cơ. Chẳng khác kẻ đui dắt
người mù.
Người đã quyết tâm tu hành theo chánh đạo, há chẳng quan tâm
đến điều đó sao?
HIỆU NGHIỆM THUYẾT
Kim Tiên Chứng Luận
Hoa Dương nói: Tiết này nói về cảnh dược sản là nguyên cho
những Tu sĩ có chí sớm thành Đại đạo, đó là tâm nguyện của Ta từ
lâu.
Sự hiệu nghiệm của dược sản chẳng phải tạm thời mà đắc được cái
Đạo chí chân, chính là do một thời gian đã dày công đối với pháp:
Ngưng Thần phản chiếu khí huyệt đã được thành thục, sau đó mới
có cơ hiệu nghiệm.
Có khi một tháng Nguyên quang hiển lộ.
Có khi vài tháng Đơn điền vô âm.
Chậm nhanh khác nhau mà điều quí trọng là do đúng lúc vi dương
sơ động, chẳng sai lầm về công phu điều dược, thì lúc dược sản tự
có hiệu nghiệm.
Chân khí sung mãn thì dược linh.
Lúc có một thời cực tịnh, thì Thiên cơ phát động. Lúc bấy giờ thân
tâm con người có dạng tợ như tự nhiên châu thân dung hòa khoái
lạc, phát khởi từ nơi mười ngón tay, rồi dần dần đến toàn thân, cơ
thể buông thẳng lên như nham thạch cao sơn. Cõi lòng tự nhiên hư
tịnh, tợ trăng thu chiếu xuống đầm bích thủy. Tất cả các khiếu nhỏ
tợ như ngứa ngáy. Thân tâm khoái lạc tự nhiên dương vật bột cử.
Đơn điền ấm ấm dung dung, thoạt nhiên một tiếng gầm, thì thần khí
tợ như nam châm và sắt hút lấy nhau. Ý tức tợ như loài trung ẩn
trốn bao hàm lấy nhau. Cảnh tượng bên trong không thể nào hình
dung cho hết.
Có lời ca: Kỳ tai! Quái tai! Nguyên quan đốn biến liễu, tợ phụ
nhân thọ thai, hô hấp ngẫu nhiên đoạn, thân tâm lạc dung tai. Thần
khí chân hỗn hợp, vạn khiếu thiên mạch thai.
Lúc này con người đột nhiên như nhập vào trạng thái yểu yểu
minh minh, hồn hồn luân luân như nửa tỉnh nửa mê. Trời đất nhân
ngã thảy đều quên hết, cũng không biết ta đương đi về đâu.
Lại chẳng chỉ trong hiện tượng vô vi ảo minh, mà thần tự thông
khứng bỏ thần, tự nhiên như nhiên, kết cấu một đoàn. Nơi trong tạo
hóa tợ thi tợ hấp, nhưng thực chưa thấy thi hấp. Tợ tẩu tợ tiết,
nhưng thực chưa thấy tẩu tiết. Dung dung hấp hấp, nhiệm mầu
không thể nói hết.
Lúc vi dương sơ động, vốn có vô cùng tiêu tức, thoạt nhiên có
trạng thái hoảng hoảng hốt hốt, tâm được phục linh, hô hấp lại khởi.
Chân khí nơi nguyên khiếu tự nhiên đi xuống rồi ra sau, rồi vận
hành theo căn của thận quản.
Cả thảy các mao khiếu như ngứa ngứa, sự khoái lạc nơi thân tâm
không thể nào ngăn được.
Chân khí lúc này mới thật sung mãn, mạch nhâm và mạch đốc mới
tự khai mở.
Lại có lời nói: vận hành tự kiểu kỉnh lộ.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
161
Lúc vị dương sơ động, phải lập tức để thể dược qui lư, để huân
chưn, rồi phong cố, rồi vận châu thiên.
Cơ động tịnh đã phản phục phải lo huân luyện tuần hườn không
dứt.
TẬP THUYẾT HUỆ MẠNG KINH
Liễu Hóa Dương Soạn
Hoa Dương viết: Thành Phật tác Tổ thị bổn tánh linh quang,
bất đắc Huệ mạng Lậu tận, bất năng liễu Đạo, trực nhập ư Như
lai thái không.
Bổn tánh và Linh quang, danh tuy có hai nhưng vốn là một. Tại
định gọi là tánh, định trung Huệ chiếu gọi là quang.
Huệ mạng là danh từ của Như Lai, lúc đầu dùng để khải thị cho
mọi người, là Phạn ngữ của Tây phương. Trung hoa nói là bổn
nguyên của con người. Nho gia gọi Tiên Thiên khí. Đó là phương
tiện tu Phật là quyền bỉnh tác To. Mạnh Tử gọi: Thiện dưỡng Hạo
nhiên chi khí.
Lậu tận là danh từ của đức Thế Tôn dùng để khải thị cho A Nan,
cũng là Phạn ngữ của Tây phương, Trung hoa gọi là tẩu lậu. Nho
gia gọi tẩu tinh, Y gia gọi tiết Nguyên khí.
Lậu tận là do nơi Huệ mạng tạo hóa. Trước khi chưa động vốn là
mạng. Đến lúc vi dương khởi động, vì không biết cách tu luyện nên
nguyên tinh mới biến thành hữu hình tinh, rồi theo con đường
dương quan mà xuất ngoại! Nho gia gọi: khí hóa tinh.
Con người lúc còn đồng chân thể vốn kiên cố, nguyên không có
hiện tượng lậu tận. Lúc nầy nếu được gặp chân sư chỉ truyền cho
pháp thể dược qui lư, rồi thời thời đĩnh ngộ, khắc khắc giác chiếu.
Cứ theo đó mà công phu một trăm ngày là luyện tinh hóa khí, tức
dâm căn được đoạn, nam gọi tru bạch hổ, nữ thì luyện huyết hóa
khí, và gọi là trảm xích long.
Luyện tinh hay luyện huyết hóa khí đã thành, Chân chủng tử được
kết, lập tức lo quá quan phục thực. Tiếp theo là mười tháng ôn
dưỡng Thánh thai. Lăng Nghiêm kinh gọi: Ký du dạo thai, thân
phụng giác ứng.
Lúc này phải công phu cho thật chuyên cần, Chân khí sẽ được
sung túc, thì tự nhiên sẽ được xuất thai. Đến đây thì Pháp thân được
quảng đại.
Lăng Nghiêm kinh gọi: Hình thành xuất thai, thân vi Phật tử. Đó
gọi là đốn pháp.
Còn như những người từ 16 tuổi về sau, thì mạng bửu mãn túc, túc
tất tự lậu!
Nếu biết được pháp thể dược qui lư để luyện, và luyện cho thành
vô lậu, đức Như Lai gọi là Lậu tận.
Người đời học Phật, nếu không hư tâm để cầu cho được Chân sư,
được chỉ điểm Chân quyết hỏa hóa mà cứ theo cách đả thất tham
Thiền, hành trì ngoan không trường tọa, thì vạn vô nhất thành!
Lăng Nghiêm kinh có nói: Bất cẩu thử diệu pháp, chung bất thành
Bồ đề.
Cho nên đức Như Lai mới phát đại từ bi, khải thị pháp môn hạ thủ
tiếp tục thiêm du, để bổ túc Huệ mạng cho thật viên túc như thuở
ban sơ 16. Đó là tiệm pháp.
Đức Quang Minh Như Lai nói:
Lão tăng hội tiếp vô căn thọ,
Năng tục vô du hải để đăng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
162
Lại phải cần cần tu luyện, chẳng phải một mai một chiều mà được
thành ngôi Chánh giác, nên đức Thế Tôn mới bảo A Nan: Đệ nhất
Lậu tận nan thành.
Lậu tận là lời ví dụ của Phật là Chân pháp tu luyện Huệ mạng.
Nếu tu tánh mà không tu mạng, thì tạp khí khó tiêu, dầu cho có đạt
được tướng đại khôi ngô, cũng thuộc quỉ Ngũ thông, làm sao khế
hợp với Lục thông của Như Lai. Cho nên quyển Đại Phật Phương
Đẳng Đại Tập kinh có chép: Tu tập về Ngũ thông đã tu và sắp thành
Lậu tận, nhưng không được ấn chứng là tại sao? Là do không biết
tu luyện theo pháp Huệ mạng, cho nên Thiệu Tiên Sinh mới nói:
Đạo thông Thiên địa hữu hình ngoại,
Tư nhập phong vân biết thái trung.
Nhi Huệ mạng Lậu tận bất đắc Phong hỏa luyện pháp, bất năng
hòa hiệp ngưng tạp nhi thành Đại đạo.
Phong là động lực hỗ trợ cho hỏa được hừng lên. Hỏa là công
năng huân hóa dược vật.
Cho nên đức Như Lai mới nói: Vi phong xuy động. Lại nói: Hỏa
hóa di hậu, thâu thủ xá lợi.
Phong hỏa và Lậu tận đều dụng, tự nhiên sẽ được hòa hiệp ngưng
tập và thành Đại Đạo.
Thị dĩ Phật pháp thứ đệ dụng công chi Chân truyền, khởi vô
bằng chứng?
Chân đạo có chân thực thứ đệ công phu.
Nếu có công phu hỗn tạp, là không phải cái đạo của Như Lai, đó là
bàng môn ngoại đạo.
Thứ đệ, như lúc hạ thủ, công phu hòa hiệp Chân chủng. Lúc
chuyển thủ có công phu luyện xá lợi. Lúc liễu thủ có công phu ôn
dưỡng Đạo thai. Lúc tản thủ (buông tay ra) có công phu xuất thai
diện bích.
Nhưng về thứ đệ không dám vọng luận, mà chỉ hội tập bí vân thứ
đệ dụng công của Phật Tổ, rồi phân từng tiết, để làm bằng chứng,
mỗi câu đều có cước chú.
Vọng dĩ nhất ngôn bán cú nhi vi Đạo tai.
Ngày nay đa số người tu chưa đắc Chân truyền mà đã ra công giáo
hóa mọi người. Có kẻ nói phụ mẫu lúc trước chưa sanh. Có kẻ dạy
người chỉ lo niệm Phật. Có người đứng ra thuyết pháp, nhưng pháp
đã thuyết không biết dụng công vào đâu. Có người dạy vào giờ
dương thì tấn dương mạnh, vào giờ âm thì thối âm mạnh! Có kẻ nói
thuyết luyện tinh khí Thần là của tà đạo!
Thả thiên cổ chí kim, mạc bất dĩ manh dẫn manh,
Khanh khảm vô số chi thiện tín thâm nhập Cửu tuyền,
cảnh bất năng xuất đầu kiến Phật chi quang hoa!
Phật pháp từ đời Hán Minh đế mới nhập Trung Hoa. Trước kia
Tần Thủy Hoàng không chấp nhận các vị Chân tăng từ Tây trúc
sang.
Sau đó nhờ có Tổ sư Đạt Ma từ Tây trúc sang rồi truyền được 5
đời Tổ, đều là khẩu khẩu tương truyền tâm tâm tương thọ, mà Chân
truyền không chép ra nơi kinh văn. Cho nên đại đa số người tu hành
đều bị manh sư dẫn dắt hóa nên mê lại gặp mê, nên có 96 mối thiên
chấp ngoại đạo, có 24 pháp quán bàng môn, có pháp môn đả thất
quì hương, có phái môn chuyên luyện bế tức, có nhiều người nói
tám vạn bốn ngàn pháp môn, tu pháp nào cũng thành!
Các giống ngoại đạo bàng môn đó đã gây tai hại cho vô số người
tu hành, thật đáng thương!
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
163
Thích giáo bên Tây phương có 28 vị Tổ, bên Đông thì có 6 đời,
vốn không có những tà pháp trên.
Tại Trung Hoa có phái Cao Phong môn, dạy người chuyên bế tức
nên mười người bị thổ huyết và chết hết 9.
Lại có phái môn dạy người suốt 49 ngày đêm không ngủ, khiến
cho Tâm và Thận không được tiếp giao, rồi phát sinh chứng lao!
Còn thêm cách đánh vào tích lạc gây tổn thương tạng phủ!
Cũng như cách quì hương, làm cho Chân khí bị tiêu tán, tà hỏa
nhân đó mới xâm nhập, gây nguy cơ cho tánh mạng không ít!
Sự hình phạt lớp người tu hành đến đời Đường đế mới giải nguy,
là sau đó không ai dám dụng công về tà pháp như trước.
Cái Đại Tạng chi pháp bửu, bổn thị toàn chỉ. Nại nhân đương
sơ học giả, hữu thiên thâm căn, hữu lợi đốn ngộ, thử tiền hậu
hôn tập, thực bất khản thành kỳ trục tiết chi thứ đệ dã.
Đại tạng giáo có quyền pháp, có thực pháp, có vô vi pháp, có hữu
vi pháp. Chẳng phải chỉ một khái luận, chỉ do người có học hay
không học.
Tánh mạng song tu cũng tại trong đó.
Nhi hậu lai chư Tổ sở đắc dĩ thành giả, diệc bất khẳng tịnh tiết
nhi đồng luận.
Chư tổ đời sau có sở đắc, rồi được thành Chánh quả, nhưng không
khứng trao truyền cho đại chúng, nên mới dùng quyền pháp để chế
phục tục tăng, gọi là ngộ tánh, để khỏi gây ra đa sự rồi sanh biệt
niệm.
Còn thực pháp thì chỉ tư phụ mật ngữ cho những người có trí tuệ
tốt, có thiện căn, có đại chí, gọi là Giáo ngoại biệt truyền, riêng
thông tiêu tức, như Đức Thế Tôn không truyền cho đường đệ A-
Nan, mà chỉ tư phụ cho Ca-Diếp làm Nhị Tổ, như Ngũ Tổ không
truyền cho thủ tọa Thần Tú, mà tư phụ cho Lô Năng làm Lục Tổ.
Cho nên việc thành Phật tác Tổ là sự nghiệp đại bửu, há truyền cho
kẻ vô chí sao. Tức chỉ truyền cho những người có đại chí đạt thành
ngôi Tổ.
Phật pháp vốn bí mật, những kẻ phàm phu tục tử, hay kẻ không
thật tâm tu hành, làm sao nghe được, do đó nên chư Tổ không hề
tiết lộ đối với những thành phần trên.
Hoặc hiển ư vô vi, nhi ẩn ư hữu vi.
Vô vi là pháp ôn dưỡng Thánh thai và diện bích. Chẳng phải như
ngày nay nhiều người áp dụng cách khô tọa, rồi gọi là vô vi.
Còn pháp hữu vi là ngưng tập hòa hiệp, tu theo pháp tiền bán (nửa
công phu trước) của Huệ mạng, có bằng cớ, là cơ diệu dụng của
Tiên thiên Chân khí, không phải như pháp hữu vi của thế gian.
Bửu tích kinh có chép: Nhất thiết chư pháp, tốt như ảo hóa. Thị
trung khước hữu nhất pháp hòa hiệp nhưng tập quyết định thành
tựu.
Lại trong quyển kinh tụng có:
Thái Thượng tu hành giải thoát môn.
Chuyển ích từ bi cầu Phật pháp.
Tri chư hữu vi hòa hiệp tác.
Chí lạc quyết định cần hành Đạo.
Lời kinh có nói: Sở vị nhị thừa đọa vào vô vi, bị chôn vùi quá rộng
quá sâu, chẳng được siêu thoát chứng quả.
Cổ Đức nói: Hữu vi tuy ngụy, nếu bỏ đi thì công phu chẳng thành.
Còn vô vi tuy Chân, nếu vượt qua tức quả Thánh khó chứng.
Ngày nay đa số người tu, khi nghe đến hữu vi cho là chấp tướng,
nên bỏ đi và không dụng công.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
164
Thù bất tri, hữu vì nầy là diệu đạo của hữu vi trong định tịnh. Thí
dụ như Thiên địa là thành phần vô vi, mà Thiên địa sở dĩ sanh ra
vạn vật ấy là thành phần hữu vi. Tức là Phật pháp tối thượng nhất
thừa cũng như vậy. Lúc nào nhơn tâm đã được đến thời vô vi, tức
trong đó có một vật siêu nhiên xuất hiện, nếu không dùng Chân ý
để thể thủ, tức vật này sẽ tán ra ngoại cảnh, và không còn là vật sở
hữu của ta!
Theo pháp thể dược qui lư, gọi là pháp hữu vi, Lục Tổ gọi vãng
bắc tiếp độ.
Hoặc hiển ư vô vật nhi ẩn ư hữu vật.
Vô vật là phần nửa công phu về sau thuộc tánh.
Hữu vật là phần nửa công phu về trước, thuộc mạng.
Ngày nay người tu hành nghe nói hữu vật, liền nhàm chán. Thù
bất tri vật nầy là căn bản của Đạo, là rường cột của Chân pháp,
người người vốn có, mà không phải là loại vật của tư lự, mà là linh
vật của Nguyên quan, nên Lục Tổ nói: Ngã hữu nhất vật vô đầu vô
vỹ, vô danh, vô tự, vô bối, vô diện.
Phó Đại Sư nói:
Hữu vật Tiên thiên địa, vô hình bổn tịch liêu,
Năng vi vạn tượng chủ, bất trục tứ thời điêu.
Đó là vật Tiên thiên, tế dục hậu thiên, tán phát thì vô hình, chương
trụ thì thành Xá lợi.
Viên Ngộ Thiền Sư nói:
Hà vật cao vu Thiên? Sanh Thiên giả thị.
Hà vật hậu (dày) vu địa? dục địa giả thị.
Hà vật khoan (dày) vu hư không, bao hư không giả thị.
Hà vật siêu Phật vượt Tổ? Thực (tạo) Phật Tổ giả thị.
Đó là loại vật căn bản sinh hóa vạn hữu, cùng với ta đồng đường,
nên nói: Vật ngã đồng nhất đại phụ mẫu.
Thuận theo cơ biến hóa của âm dương hậu thiên, thì sanh người
sanh vật. Còn nghịch lại cơ biến hóa đó thì thành Phật thành Tổ.
Thuận khứ thì vật cùng ta đồng biết.
Còn nghịch lại, chỉ có Chân sư mới hiểu.
Vân Phong Thiền Sư nói:
Có một vật bí mật cứu người, sao lại người không biết?
Đó là Chân khí Tiên thiên thuần dương rất cương kiện. Khí này
nếu tán phát ra thì châu lưu khắp toàn cơ thể, nếu co rút lại thì tụ tại
Huyền quan. Cho nên Hàn Tử mới nói:
Khả quí thiên nhiên vật. Độc nhất vô bạn lữ.
Mích tha bất khả kiến. Xuất nhập vô môn hô.
Xuất chi tại phương thốn. Diên chí nhất thiết xứ.
Nể nhược bất tín thọ. Tương phùng bất tương ngộ.
Đại tắc bao tàng Pháp giới.
Tế lắc lật mễ vi trần.
Tạm dịch:
Phải quí trọng thiên nhiên bửu vật.
Chỉ một thân không bạn không bè.
Tìm khắp nơi cũng không thấy được.
Ra rồi vào không hộ không môn.
Co rút lại chỉ trong vuông tấc.
Bung nó ra chỗ nào cũng có.
Nếu nhà ngươi không lòng tín thọ.
Có gặp nhau cũng tợ như không.
Lớn rộng thì bao tàng Pháp giới.
Thu nhỏ bằng hạt thóc vi trần.
Vân Phong Thiền sư nói: Trời đất mà tóm lại thì nhỏ bằng hạt
thóc. Tuy là như vậy, nhưng trước phải cần hòa hợp. sau mới có
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
165
được vật, đức Thế Tôn gọi là Bồ Đề Chủng, Pháp hoa hội thượng
Long nữ hiến dâng, là hiến dâng Tiên thiên Chân khí.
Hoặc hiển ư vô sự, nhi ẩn ư hữu sự.
Vô sự là pháp của Tổ sư dùng để chế ngự chúng nhân, là pháp tiểu
thừa.
Hữu sự là pháp của Tổ sư về phương ẩn tàng mặc thọ đối với bạn
Thượng thừa.
Những kẻ phàm phu vô căn không tin ở pháp hữu sự nên đức Thế
Tôn có nói: Ngã vu ngu trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, vị nhất thiết thế gian thuyết thử nan tín chi
pháp, thị vị thạm nan.
Lại nói: sự việc của đức Thế Tôn như vậy, người đời khó tin, nếu
Tổ sư nói cho hàng hạ nhơn, ắt sẽ có lời phản ngôn phi lệ.
Pháp Hoa kinh nói: Nhĩ thời Phật cáo Xá Lợi Phật Chỉ bất tu phục
thuyết (hãy chấm dứt đi, chớ nên nói lại pháp này). Nhược thuyết
thị sự, nhất thiết thế gian chư Thiên cập nhân giai đương kinh nghi
(nếu thuyết việc này ra nữa thì tất cả chư Thiên thuộc thế giới hậu
thiên cùng nhân loại trong các cõi đó sinh tâm kinh nghi).
Lại nói: Duy thử nhất sự thực, dư nhị tắc phi Chân (chỉ có một sự
thực nầy, còn bao nhiều đều là tà thuyết).
Vả lại, hữu sự chẳng phải là sự việc của bàng môn, mà là việc do
Nguyên quan phát động có dược vật sản xuất, ta dùng Chân ý để
thể dược qui lư, bằng cách dùng hô hấp thu về, nên gọi: hữu sự.
Huệ mạng là tên riêng của Nguyên khí.
Hoặc hiển ư Tiểu Thừa, nhi ẩn ư Đại Thừa.
Tiểu thừa pháp là quyền pháp thực thi của các vị Tổ sư là tham
Thiền đả tọa, là niệm Phật khán kinh là những việc vun trồng nhân
quả của hàng thiện căn.
Còn pháp Đại thừa là mật ngữ thọ ký của Tổ sư là Huệ mạng thọ
mạng là Lậu tận ma âm là siêu phàm nhập Thánh.
Hoặc hữu ngôn chi dị nhi dụ chi thiên giả,
dương trục tiết dĩ thục ngoạn, bất khả mạo thị dả.
Tham ngộ vô nghi, tái cầu ấn chứng, sử đồ chấp kỳ
thiên kiến, thủ tông ư vọng nhân chi khẩu, hà kỳ vu da.
Có những lời nói dễ nghe, và thí dụ cũng rõ, cần phải phân tích để
nghiên cứu, chẳng nên xem thường. Tham khảo cho thật hiểu, cho
hết chỗ nghi ngờ, lại phải phát tâm cầu ấn chứng, khiến cho những
điều thiên kiến và theo tông phái mà buông lời sái quấy, còn đâu
dối được. Lời nói rõ ràng dễ nghe, đó là tánh mạng công phương.
Nếu chưa đắc Chân quyết làm sao tỏ ngộ, tất phải trước sau thấu
hiệp, cứu cánh tằng thứ. Lại phải cầu Chân sư ấn chứng, mới khỏi
bị một kiếp không tu lầm lạc, như những sở truyền sở chứng của
phái Tông lâm, chẳng phải Chánh pháp của Như Lai.
Sau muôn năm có một thời Cực bỉ, tức sẽ có một thời Cực thái
tiếp nối, nhân loại sẽ được một cuộc sống đại hạnh phúc, là có một
nền Thiên đạo ra đời làm sáng tỏ Chân truyền Đại đạo, người tu
không còn lạc vào nẻo bàng môn.
Dư Cố viết:
Thoát tục li trần mích quá tri.
Đoạn dâm ngộ Đạo, quí Chân sư.
Nhậm tha chỉ thuyết vạn ban pháp.
Dư ngã thân tâm nan tự qui.
Cách ngoại cao đàm phi Chí đạo.
Phiến ngôn ám điểm thị Lương y.
Đắc lai tạm thí tùng đầu khán.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
166
Nhất khắc công phu quả tự hi.
Cổ nhân nói: Dục đăng sơn thượng đảnh tu vẫn vãng nhân.
Cũng như muốn thoát li cõi trần tục phiền não tử sanh để đoạt cơ
Liễu tử siêu sanh phải cầu cho được bậc Chân sư dạy cho ta pháp
đoạn dâm và Chánh lý âm dương Tánh mạng song tu, mới là Chân
đạo.
Công phu đoạn dâm rất hệ trọng đối với người tu hành là phải
đoạn cho được dâm căn, nam gọi tru Bạch hổ, nữ gọi trảm xích
long.
Long và Hổ có tru trảm được, mới phục hồi lại phần Thượng đức
của mình.
Trong giới tu hành ngày nay có những người liệt danh vào hàng
giáo phẩm tối cao nhưng vẫn còn tẩu lậu, vẫn còn dâm căn chưa
đoạn, như vậy có khác gì kẻ phàm phu tục tử!
Lăng Nghiêm Kinh có nói: Công phu đoạn dâm là rường cột để
thành Phật, là giới răn cấm đầu tiên. Lại còn nói: Là người đã mang
danh tu hành mà tinh khí còn tẩu lậu, khác nào nấu cát trông cơm!
Công phu đoạn dâm phải cầu Chân sư mới thành công.
Chỉ có một điều quan trọng trong công phu tu hành là đoạn dâm.
Còn ngoài đoạn dâm dù có thiên ngôn vạn ngữ thiện xảo, đều là
rỗng tuếch, không có gì để làm qui củ chuẩn thằng cho bước đường
tu hành.
Cuối thế kỷ 20 là thời văn minh khoa học độc tôn về mặt văn
chương ngôn ngữ tiến bộ cũng khá cao. Các nhà lãnh tụ các tôn
giáo cũng trang bị cho bản thân mình và cho hàng Giáo sĩ về tài
năng ngôn luận, thuyết phục được vô số người tín ngưỡng, nhưng
những lời thuyết phục đó cách xa Chân đạo Chân truyền hằng vạn
ức dặm!
Chỉ có một lời mật phu của Chân sư mà được cứu vãng lấy tánh
mạng hậu thiên sanh tử của ta, là được phục hồi là Chân tánh mạng
Tiên thiên bất sanh bất tử.
Chân truyền đã đắc, Chân quyết đã được Thầy trao, phải lập tức hạ
thủ công phu.
Công phu đúng Chân pháp, cứ tiến lên một bước là có được hiệu
quả, 5 bước có 5 hiệu quả nên mỉm cười.
Ức văn chi Tâm kinh viết: Quán tự tại Bồ Tát.
Hoa Dương nói: Lời nói nầy là một đại ân đức của Như Lai, dạy
người khỉ thủ song tu Tánh mạng, là lời trọng yếu của Chánh pháp.
Người phàm phu không hiểu được yếu chỉ của Như Lai, cũng như
không đắc được Chân truyền, nên lấy niệm quán niệm, gọi là Quán
tự tại Bồ Tát, là điều quá sai lầm vậy!
Chỉ vì họ không hiểu, niệm đó là duyên tập sở hữu, do thức thần
sở kết, chẳng phải nguồn gốc của nền Chân đạo.
Cho nên Trình Tử có nói: Chánh đạo định lý quả thị tâm hồ, ứt phi
tâm hồ.
Lời nói nầy là lời khải thị cho người tu hành, về cơ tiêu tức đã tột
ý vậy.
Quán cùng với Bồ Tát là lời diệu dụ của đức Như Lai, là đích chỉ
của hai loại vật song tu.
Nếu nói niệm là Chân đạo, là còn xa cách vạn trùng dương!
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
167
Viên giác kinh nói: Nhất thiết chúng sanh vọng nhận tứ đại vi tự
kỷ thân tướng, lục trần duyên ảnh vi tự kỷ tâm tướng.
Nguyên diệu tông nhất cũng nói: Linh đài trí tánh, giá cả thị sanh
tử căn bản, vọng tưởng duyên khí chỉ nhân tiền trần, nhi hữu phân
biệt.
Truyền pháp Như Lai nói: Không vương điện nội vô tông tích,
nhược nhân vi chân thực, tắc Bồ Tát y cựu mai tàng vu địa, bất đắc
xuất đầu biến hóa thành Như Lai chi diệu tướng không phí thử sanh
nhất đại nhân duyên.
Niệm nầy là do âm khí trong tâm, là sự biến hóa của thức thần, đã
trải qua ngàn muôn kiếp dẫn dắt lớp người si mê rơi vào nẻo tham
trần ái dục, chẳng được giải thoát, cho nên làm gì có sự chứng quả,
để chuyển hóa kiếp mê muội.
Chỉ vì họ không biết cho xuất xứ của Bồ Tát, nên vọng nhận Thức
thần để làm niềm vui!
Cho nên Cảnh Thiền Sư có bài thi:
Học đạo chi nhân ( ) bất thức Chân,
Chỉ vị tùng tiền nhận Thức thần.
Vô thủy kiếp lai sanh tử bản,
Si nhân hoan tác bổn lai nhân.
Nam Tuyền Thiền nhân nói: Tâm bất thị Phật, trí bất thị Đạo.
Mã Tổ lại nói: Tức tâm thị Phật, nãi chỉ nhi đề (cấm em bé khóc)
há chẳng lầm sao?
Người tu học ngày nay nghe nói: Tâm chẳng phải Phật, trí không
phải Đạo, liền bị rơi vào nẻo không vong, mịt mờ vô chủ.
Có người hỏi: Lấy gì để tu luyện?
Đáp: Quán lấy linh quang trong Chánh niệm.
Bồ Tát trụ cứ Tịnh độ, hai vật cách nhau tám tấc bốn phân, nếu
không dùng Quán làm sao tương hội, nên sau đây sẽ nói về hòa
hiệp ngưng tập, quyết định thành tựu.
Bồ Tát là Huệ mạng, chính thực là Phật tánh.
Lúc ta mới lìa khỏi bụng mẹ, là lúc Chấn địa phát lên một âm
thanh.
Quán với Bồ Tát hai cùng cách trở. Bồ Tát lại ẩn vào một nơi
thâm mật. Nếu không cầu Chân sư thân chỉ dù có thông minh linh
ngộ đến đâu cũng không thấy được nên mới gọi: Đạo tâm duy vi.
Nếu cứ tự phụ ỷ lại vào trí thông minh của mình, tức bị Thức thần
dụng sự. Cho nên đức Phật tổ mới nói: Nhử vô Phật tánh.
Là do đức Như Lai phát đại từ bi chỉ điểm đại địa, để cho chúng
sanh thời thời khắc khắc quán chiếu lấy Bồ Tát này. Bồ Tát có thọ
đắc phần huệ của Linh quang, lâu ngày người tu có dạng như mộng
như giác, rực sáng tợ như có lửa huân chưn, sinh động như bồn
châu hoát nhiên linh tĩnh, hào quang lực phóng đại bao la. Lúc
Thần lực đã mãn túc, hốt nhiên có một cơ động vượt lên, cùng với
Thức tánh của ta hiệp lại làm một. Đến đây, Thức tánh tử, Phật tánh
sinh, linh hiển linh linh, dường dường như cũ. Đó là chủ nhân ông,
có vầng hào quang chiếu khắp cõi Sa giới. Lục thông đều phải
nương theo Chủ nhân ông. Nếu nương theo hướng khác sẽ biến
thành trần cấu.
Về phần ta thì riêng một an nhiên nhất tánh viên dung cùng thái
không, nên nói: Nhất thiết hàm linh giai hữu Phật tính.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
168
Quán là quán về Cốc thần, là nơi sinh Tiên sinh Phật. Chẳng biết
về Cốc thần mà tọa Thiền gọi là Thiền không, dầu cho có cố chí tu
hành đến muôn kiếp muôn đời cũng không thành công.
Bửu Tích Tinh Vân: Hòa hiệp ngưng tập, quyết định thành
tựu.
Đây là lời mật ngữ của đức Thế Tôn, là bí văn của Đại Tạng giáo,
là pháp Tánh mạng song tu, nên mới nói: Quyết định thành tựu.
Đạo này từ Hán Minh Đế đến nay, chưa có một người thành công.
Sau nhờ có Đạt Ma và Tịch Vô hai Tổ sư mật thọ, nên nhục thân
được biến hóa vượt lên thái không, doãn chứng kim thân.
Đạt Ma chỉ mới vi lộ, còn Tịch Vô lại trước tác thành kinh điển và
xiển dương Chân đạo.
Chỉ vì môn nhân tàng bế kinh thư, nên người tu hành không có
chỗ nương!
Ta nay giải minh toàn bộ, nguyện cho đồng chí được khải thấu để
được chứng quả, hầu không bị rơi vào chốn bàng môn ngoại đạo,
không bị lâm phải tật bệnh và yểu tử.
Hòa là khí âm trong Tâm hòa với khí dương trong Thận. Âm khí
có đắc được dương khí, thì tâm mới an, mạng mới lập.
Hiệp là khí dương trong Khảm thận thừa thọ khí âm trong Ly tâm.
Tức mạng căn được kiên cố, tinh khí không còn tẩu lậu nữa.
Dịch kinh gọi: Nhất dương nhất âm chi vị Đạo. Thiên âm thiên
dương chi vị tật.
Cố vãng kim lai chư Phật chư Tiên đều theo phương Tánh mạng
song tu mà thành ngôi Chánh giác, và chẳng từng thiên cố.
Ngưng là pháp ngưng thần tại khí huyệt.
Tập là phương tập mạng.
Nếu mạng không tập thì tu chẳng thành.
Con người lúc ra khỏi bụng mẹ thì Thần không thường chiếu cố
đến khí, khí cũng chẳng thường chiếu cố đến Thần.
Thần thường ẩn tàng nơi tâm, rồi phát ra đôi mắt thất khiếu cũng
ruỗi theo, khiến cho ba báu ngày càng hao tổn.
Còn khí thì tàng nới Thận rồi phát ra dâm căn, khiến bị hạ hao.
Thần khí mãi bị hao tổn, tuổi thọ bị giảm thiểu!
Thần khi nếu hao tận, thì tánh mạng ô hô!
Nếu chẳng cầu Chân sư chỉ điểm ngưng tập, dù có quyết tâm tu,
cũng chỉ tu một điểm âm trong tâm ly hỏa tức không bao giờ thành
chánh quả, nên đức Thế Tôn mới dạy người: Nhị lục thời, hành chỉ
tọa ngọa, dĩ niệm thâu liễm vi tế chi Thần, ngưng nhập vào mạng
căn.
Mạng căn có được Thần này, khác nào vị hiền thần gặp được
Thánh quân.
Thần được khí củng phục, tất được tự định, không còn thiên cô
hay ngoại hao.
Cứ như vậy mà dụng công, lại phải bồi bổ trí tuệ, và cứ mãi hướng
thượng công phu, thì sự tu luyện nhất định sẽ được thành công.
Lục Tổ Đàn Kinh viết: Hữu tình lai hạ chủng.
Tình là dược vật của Thiên cơ trong phương hạ thủ tu Huệ mạng.
Nếu không có tình nầy, thì vạn vô nhất thành. Thí dụ như nhà
nông không có thóc giống, lấy đâu mà trông đến mùa thu hoạch.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
169
Ngày nay đa số người tu hành không được thành công, là do
không biết được loại tình này.
Ngày xưa tiền thế của Ngũ Tổ là Tài Tông đạo nhân, đến cầu đạo
nơi Tứ Tổ.
Tứ Tổ thấy người già nua mà không còn tình, mới bảo: Nhà ngươi
hãy chờ kiếp sau.
Tài Tông liền lập trụ mà thác, rồi tự đầu thai vào Châu thị. Sau đó
mới thành ngôi Ngũ Tổ.
Lục Tổ nói: dâm tánh thị Phật tánh.
Long Nha Thiền sư có làm bài thi:
Nhân tình nồng hậu, đạo tình vi.
Đạo dụng nhân tình thế hãn tri (ít biết)
Không hữu nhân tình vô Đạo dụng.
Nhân tình năng đắc kỷ đa thì.
Nhân tình là tinh khí của con người, sau khi khí vi dương sơ động
mới có.
Câu 1: Đạo tình vốn vi diệu, khó nói.
Câu 2: Tu theo Chân đạo trước tiên là luyện tinh khí người đời ít
kẻ hiểu được.
Câu 3: Con người mà tinh đã khánh kiệt, muốn tu phải chờ kiếp
sau.
Câu 4: Có tinh xuất hiện, hoặc do Chân động mà có, hoặc do vọng
động mà có tinh sanh.
Chân động là tâm bất động mà thận động, đó là Chân cơ, tức có
Chân dược.
Vọng động là tâm và thận đều động, nên sanh ảo đơn tức trược
tinh.
Sau đời Lục Tổ về đích truyền Huệ mạng của Như Lai cấm bế bất
truyền cho những kẻ vô đức, vô thiện căn.
Có người hỏi: Tình nầy như thế nào?
Hoa Dương đáp: Loại tình này do Huệ mạng hóa sinh là lúc cơ
quan Tổ khiếu đơn khai, Huệ mạng tuy tàng tại Nguyên quan, đến
lúc cực tịnh thì phát sinh vãng ngoài, rồi nương ngoại hình mà dấy
lên, cùng với tâm ta tình cờ có sự trí giác, đó là tâm với thận đều
động, gọi là tình.
Cần phải phân biệt: Tâm động sau thận cũng được gọi Chân động.
Còn vọng động là do tâm phát động trước thận động.
Cho nên về pháp bế dương quan, đức Như Lai có dạy: Chẳng biết
động tịnh học Đạo vô ích.
Lại hỏi: Sao gọi là hạ chủng?
Đáp: Loại tình hay sanh người, sanh Phật, là do cơ tạo đoan thuận
và nghịch. Chỉ có Chân ý thì tinh khí mới được nghịch qui, đó là
dùng pháp thể dược qui lư, rồi huân chưn, rồi phong cố, rồi vận
hành. Cứ như thế mà tu cho đến lúc thành Chân xá lợi gọi là hạ
chủng.
Lại hỏi: Tu luyện tại chỗ nào?
Đáp: Đã biết ngưng pháp, tức là biết được chỗ ngưng, là Huyền
quan khiếu.
Lại còn phải biết pháp luyện: Luyện là luyện đơn nấu thuốc, để tạo
cơ chỉ cho Tiên đạo.
Luyện phải dùng hỏa, dùng phong. Có gió lửa mới hừng lên, để
thanh lọc phần âm trong dược vật, cho thành Chân dược thuần
dương, gọi là Chân xá lợi đã kết.
Hựu Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh viết: Thời.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
170
Cú pháp nơi các loại Chân kinh đều có song ý, như câu này có chữ
Thời.
Thời ở đây là lời của đức Như Lai căn dặn chư đệ tử, cần phải
quan tâm chí thiết về Thời.
Thời này không phải là thời hầu, tức là thời manh động trong cơ
Thiền định. Cổ Đức nói:
Nhược ngôn kỳ thời vô định thời,
Thanh phong lãng nguyệt tự gia tri.
Nho giáo có nói:
Nguyệt đáo Thiên tâm xứ, Phong lai thủy diên thời.
Chư Ông tuy nhiên diệu, Du phát kỳ Thiên cơ.
Phước tông bất khả thuyết, Xuất thị cá thậm mạ
Thời lai thả giáo nhân, Tương hà sở dụng hồ.
Câu 1: Tuy nói nguyệt đến Thiên tâm nhưng nguyệt vốn tại Thiên
tâm, Thiên tâm là Tổ Khiếu.
Câu 2: Là dùng cơ hô hấp để thổi loại lửa nơi cung Khảm thủy
hừng lên.
Câu 3: Chư ông là Chân ý, làm chủ về công phu Thiền định, và tạo
nên cơ huyền diệu.
Câu 4: Là ví dụ về Thiên cơ phát động.
Câu 5: Thiên cơ bí mật từ xưa không dám lộ.
Câu 6: Là nói về Chân chủng sản xuất.
Câu 7: Chỉ truyền cho người tu về thời vi dương sơ động, đây là
sự bí mật.
Câu 8: Là đem về Đơn điền để huân chưng.
Ta vì thương mến những người Chân tu, nên đã nói ra những gì
gọi là bí mật của huyền cơ, là mong cho họ khỏi bị lạc vào nẻo
bàng môn, và sớm thành Chánh quả.
Thời này là thời Huệ mạng trong thân ta đến lúc Chân động. Cổ
Đức gọi Hượt Tí thời.
Sanh cơ của nó tợ như liệt hỏa, tráng tợ diêm phong. Nếu chẳng
phải Chân sư truyền thọ về tam tức tương y, thì làm sao chế phục
dược.
Loại dược vật này có danh hiệu là mãnh hổ, chuyên thôn nuốt tánh
mạng của con người, hút cốt tủy người. Các bậc anh hùng hào kiệt
vì không đắc ngộ Chân truyền, nên đều bị con cọp dữ nầy gây hại!
Các hàng chí sĩ Cao nhân, trước lo chế phục con mãnh hổ nầy,
thành con Chân hổ, hầu đoạt quả phẩm Chánh giác.
Lúc con hổ này mới phát động, cơ thể ta vô cùng đầm ấm, như
tắm như gội. Sáng sáng rỡ rỡ, tợ như lửa mới hừng lên, tạo cho ta
phát sinh ra tinh cường liệt, tợ nung tợ nấu, rồi đi ra ngoại thận.
Con cọp này có uy lực oai trấn độc lập về phần tinh hoa của con
người, cả thảy đều tuân theo mệnh lệnh của nó.
Nhưng con cọp này cũng là yếu tố đề thành Phật, để tác Tổ.
Thế Tôn viết: Ư kiệt dà Long cung thuyết pháp. Tiết trên nói về chữ thời, và nơi sở dụng, không ngoài ngôi Trung.
Lại còn sợ người tu lạc vào nẻo không, nên tiết này nói rõ về chỗ
Chân thực, khiến cho người hạ thủ công phu không bị mắc vòng
Thiền không.
Long cung là phạn ngữ của Tây phương. Tiên gia gọi Đơn điền,
khí huyệt. Lão giáo gọi Cốc thần. Nho giáo gọi ngôi Chí thiện, Y
gia gọi Tịnh khiếu. Thích gọi Tịnh độ, khổ hải, hải để. Đều là
những lời thí dụ về chỗ của Chân chủng hòa hiệp, chỗ kết đơn, chỗ
tịch chiếu, chỗ thành Tiên tác Phật.
Lại còn ví dụ là Lư, là lò luyện đơn nấu thuốc.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
171
Tâm kinh giải có chép:
Thâu lai phóng tại đơn lư nội.
Luyện đắc kim ô nhất dạng hồng.
Quang Minh Như Lai nói: Lư trung hỏa phát.
Lại nói:
Lư trung hỏa phát tiết Thiên cơ.
Bất ngộ nhi lai tức thị mê.
Viên Thông Thiền Sư viết: Bắc đẩu lý tàng thân.
Bắc đẩu cũng là Long cung.
Tàng thân là chỗ ngưng tập.
Tổ sư dạy: Chân niệm phải luôn luôn tàng cư nơi Bắc đẩu, thì âm
tự hư không, mạng tự kiên cố.
Tịch Vô Thiền Sư viết: Ngưng Thần thâu nhập thử khiếu chi
trung, tắc khí tùy Thần vãng nhiên qui ư thử xứ.
Tịch Vô đắc được Như Lai đích truyền ở toàn chỉ của Đạt Ma về
Huệ mạng, cho nên lúc ẩn lúc hiện, biến hóa vô cùng. Thời vua
Ung Chánh tại Thái ấp, hóa dương thân đến tại vài mươi gia đình,
cùng với người nhà đàm tiếu, ăn uống. Lúc ẩn thì bặt vô tông tích.
Có khi cho người kim ngân mỹ nữ. Có khi hiện ra hổ báo, thủy hỏa
theo đồ đệ.
Ngưng là ngưng trụ nơi Long cung.
Khiếu là Đơn điền là Lư.
Thần trụ chỗ nào thì khí tụ theo chỗ đó.
Thần có lúc lìa khí, nhưng khí không lìa Thần.
Thần trụ tại Long cung, khí cũng qui tụ về Long cung. Lâu ngày
kết thành xá lợi.
Hựu viết: Công phu bất gián đoạn, tức tức qui thức. Hoặc
nhất ngoạt nhị ngoạt tiện năng tự giác, khiếu trung dung dung
noãn khí triền động.
Tức: Là khí hô hấp, Phật ví dụ phong (gió). Còn có danh trụ
trượng, như vị Lão thành chống gậy để đi lại. Tu theo Huệ mạng,
nếu không có khí hô hấp thì Lậu tận chẳng hóa, Chân xá lợi cũng
không thành. Có vị Thiền sư nói:
Vi đáo thủy cùng sơn tận xứ,
Thả tương tác bạn quá thời quan.
Loại khí hô hấp của con người có khi chỉ vào đến cổ họng, có lúc
vào đến Đơn điền, là do ở người biết điều tức hay không. Có người
biết xuất mà không biết tấn. Có vị Thiền Sư nói: Vô không địch
điên đảo lưỡng đầu xuy. Thần khí nếu được tương hiệp lâu ngày thì
Đơn điền có dạng ấm ấm, Pháp luân tự chuyển.
Có khi không đầy một tháng, có khi phải hai hay ba … tháng là do
ở khí lực của mỗi người.
Thái Tử là đức Thế Tôn. Lúc đức Thế Tôn nghĩ về việc đi tu, có
Thiên thần biến bạch mã đưa Thái Tử ra khỏi hoàng cung, đằng
không lên núi Tuyết sơn, dùng kim đao tự thí phát.
Lúc chưa đắc Chân truyền, phải tu theo bàng môn nên Lậu tận
không thành, còn về hình hài càng ngày càng gầy ốm.
Sau đó được A Tư Đà trao cho Chánh pháp Huệ mạng, mới thành
ngôi Phật.
Pháp Hoa kinh nói: Người theo đạo Tiên mà thọ diệu pháp của
Phật, cũng được thành Phật.
Thích gia phổ có chép: Tư Đà thấy Thái Tử hình hài gầy ốm, bèn
nói với Thái Tử: Có thể phục thực ngưu nhũ, để phục hồi lại bổn
nguyên. Thái Tử nghe lời, quả nhiên phục hồi được 32 đạo tướng
rất viên mãn. Ngài mới cầu đức Phật Nhiên Đăng thọ ký.
Lúc đầu đức Thế Tôn hạ thủ công phu theo Chân đạo, chưa đầy
hai tháng đã thấy minh tinh xuất hiện, mới tự nói rằng: Nhất thiết
chúng sanh đều có Phật tánh.
Đức Thế Tôn nói Phật tánh, tức là Huệ mạng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
172
Ngưu là Chân khí. Hải là Đơn điền.
Muốn tầm Chân khí, phải tầm nơi Đơn điền, còn các chỗ khác
không bao giờ có, nên nói: Bắc đẩu ly tàng thân.
Linh Sơn là tâm. Tháp hạ là Đơn điền.
Đức Như Lai dạy người tu hành, trước tiên tu nơi Tháp hạ, mới có
hiệu nghiệm ngưu về cố lý.
Tạng kinh nói: Người người đều có tháp Linh sơn. Quyết đến Linh
Sơn tháp hạ tu.
Tri tông: là trong Đơn điền hốt nhiên có hiệu quả vô trung sinh
hữu. Chân ý đột nhiên biết được cơ vi: Có hào quang từ trong phát
sáng, thân tâm thơ sướng, tợ như có sự khoái lạc vô cùng, Mã Tổ
gọi thông đạt đến tận da lông.
Qui là trở về cung Vô cực. Cố lý là Tâm điền.
Sơ thủy do từ hạ lên trung và lên thượng, là huân hóa thức tánh
thành Phật tánh, luyện chưng thức niệm thành Chánh niệm, thức
thần tử Chân tánh hiện, rạng ngời một vị Chủ nhân ông, nên gọi:
Qui cố lý.
Viên Thông Thiền Sư viết: Quần âm bác tận nhất dương phục
sinh. Dục kiến Thiên địa chi tâm, tu thức thừa âm chi pháp.
Quần âm bác vận: Như vũ trụ bên ngoài một năm đến tháng II âm
lịch. Còn về vũ trụ bên trong là lúc Bắc hải có một dương sinh.
Thiệu Tiên sinh nói: Đông chí Tí chi bán, Thiên tâm vô cải di.
Người nào muốn thấy được Chân tâm phải cầu luyện pháp, sau
mới thấy hiệu nghiệm và thấy Chân chủng sở sản, tức như đức Thế
Tôn kiến minh tinh.
Lăng Nghiêm kinh viết: Nguyện lập đạo tràng tiên thủ Tuyết sơn
đại lực bạch ngưu, khả thủ kỳ phân, dĩ mê kỳ địa.
Đạo tràng: là nơi khỉ thủ tu luyện.
Thủ ngưu phấn: Tức căn bản luyện Huệ mạng.
Đức Thế Tôn dạy người trước phải tu Huệ mạng. Nếu không tu
Huệ mạng cho thuần dương mà chỉ tu một thành phần trong tâm
hậu thiên là âm thần, ắt phải gặp loại âm ma như trong kinh Lăng
nghiêm đã nói. Như ngày nay đa số người chỉ biết tu tánh mà không
biết tu mạng, nên có số người phát sinh bệnh tật rồi chết!
Có người không hiểu rõ chỗ tuyệt diệu của Tuyết sơn bạch ngưu
phấn. Như vậy mà nói tu nói hành, có khác gì kẻ mài sành mà trông
nên gương.
Tuyết sơn: Là ví dụ nơi sản xuất Chân khí.
Bạch ngưu phấn: là ví dụ về Chân dược.
Địa: là Khôn địa là Đơn điền.
Có người mãi lo đồ danh trục lợi, đam mê tửu sắc tài khí, nên tinh
khí Thần ngày càng tiêu tán! Tiêu tán tận thì ô hô!
Lăng Nghiêm Kinh hựu viết: Tất sử dâm cơ thân thâm cu
đoạn đoạn. Tánh diệc vô ư Phật, Bồ đề tư khả hi ký.
Từ xưa đến nay, những người đắc Đạo đều trước đã được đoạn
dâm cơ, sau đó mới vượt lên ngôi Phật ngôi Tổ.
Người tu hành ngày nay ít quan tâm đến pháp đoạn dâm, và đã có
một số người có danh trong giới tu hành phạm dâm! Thật là điều vô
cùng sỉ nhục.
Cho nên đức Thế Tôn, người đã biết dâm cơ vô cùng nguy hại,
nên mới đặt giới dâm lên hàng đầu, để người tu biết đó là điều quan
trọng.
Thái Thiền Sư nói:
Tổ ý như không bất thị không.
Linh cơ tranh đoạt hữu vi công.
Pháp này rất giản dị, nhưng những kẻ không có thiện căn không
thể nào nghe được, nên dâm căn không bao giờ đoạn được! Nếu
không sớm được tâm hư để cầu Chân sư, rồi dầu có thiên vu vạn
luyện, dâm căn cũng mãi hoành hành, hủy hoại tánh mạng!
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
173
Có người hỏi: Lấy gì để chế phục?
Đáp: Cần phải đắc quyết, là lúc dương cơ gần phát động, ta phải
tự biết, liền dùng Chân ý quán thủ dâm cơ, tức cơ sẽ dừng. Là dùng
khí hô hấp để thu nhiếp về lư, Đạt Ma Tổ sư gọi là thể thủ.
Thần là hỏa, hởi thở là phong. Cơ phát mới đầu là khí, sau đó là
tinh có đặc tính lậu!
Nếu không thể thủ để huân chưn, tức loại tinh nầy sẽ làm cho thân
ta bị liên lụy theo!
Lấy Đơn điền làm lư, lấy cơ hạp tịch làm ống bể, lấy lửa để luyện,
lấy gió để thổi, lấy tin ấm ấm làm hiệu nghiệm, lấy sướng khoái
làm vô sự. Cứ như vậy mà hà luyện, lâu ngày dâm cơ sẽ tự chết,
dâm tánh sẽ tự đoạn, đoạn tính cũng không, thân tâm sẽ được thái
bình, ba loại dâm sự không còn chỗ hội tập. Có được như vậy,
Chánh quả lo gì không đoạt được.
Đây là bí pháp từ xưa chư Phật chư Tổ không truyền, ta nay tận
tiết.
Là người tu hành mà không đoạn được ba giống dâm sự, mà dám
tự nhận danh ta là hàng thiện tri thức, nên kinh Lăng Nghiêm có
chép: Ngũ thập tam chủng chi ma.
Tịch Vô Thiền Sư viết: Kỳ cơ kỳ phát, ngưng Thần nhập vu
Đơn điền, đương dụng võ hỏa thâu nhíp nhị qui, dĩ huân dĩ
luyện. Cơ chi vị phát, di Thần chiếu chi Đơn điền, đương dụng
văn hỏa bất li nhi thủ, dĩ phanh dĩ chưn. Tợ thử ngộ nhập, tài
đắc Chân chủng phát sinh.
Cơ phát là khí phát động nơi Đơn điền.
Lúc cơ đã phát, ta liền ngưng Thần, tất nhiên cơ lúc nầy phát động
sẽ chịu sự chế phục của Thần, tự nhiên hai thành phần này không
hề lìa nhau, như đá nam châm hút sắt, dù cho cách ngại cũng vẫn
tiềm thông hòa hiệp làm một.
Tổ sư lại sợ về cơ sanh vượng trong lúc lâm thời là con mãnh hổ
khó hàng phục, nên mới dạy ta phải dùng võ hỏa. Là một lời tiết tận
Thiên cơ, đức từ bi đã ban đến muôn đời sau, người tu học thảy đều
triêm ân.
Võ hỏa là mật pháp trong công phu tu luyện là bí cơ thành Phật
đắc Tổ, là đều Phật Phật tâm thọ, Tổ Tổ khẩu truyền, hiểu được rất
khó khăn, nên Ngũ Tổ mới nói: Sư sư mật phụ bản âm. Cũng như
đức Thế Tôn và Đạt Ma, tuy có lời nói hỏa hóa phong xuy hầu,
nhưng về văn hỏa dụng độ cũng chưa chép ra nơi tre lụa, nên đời
không biết song tu, và cũng không tin.
Sau thời Đạt Ma và Tịch Vô hóa thành vô hậu, nên không có Cao
tăng đạt được hình Thần cu diệu.
Lại hỏi: Sao gọi là võ hỏa qui nhiếp?
Đáp: Võ hỏa nhiếp qui là dụng khí hô hấp, chiêu nhiếp Chân khí
qui nguyên, và Chân ý không được lìa ngôi Chủ tể, nên nói: Nhất ý
trì nhi khí, cổ vũ nhiếp qui, đều tại năng lực của Chân ý.
Chân khí lúc sanh hằng muốn hạ xuất nên phải dùng khí hô hấp để
chiêu nhiếp. Nếu không mượn khí hô hấp của tiêu tức để cổ vũ mà
chỉ để cho một Thần thì Chân khí khó qui. Hai khí nguyên có kiêm
dụng, nên Thiền sư mới nói: Ngươi có Chân khí (trụ trượng), ta
cùng với người cũng có một loại Chân khí. Đó là ví dụ về cơ đồng
dụng của hai khí.
Lúc dương dụng cơ hô hấp, nơi ta phải theo âm kiều để nghinh qui
lư, tức Đạt Ma gọi thể thủ. Có khi dùng thập nghinh, có lúc phải
dùng vài thập nghinh, đến lúc nào ngoại thận qui đảo mới dừng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
174
Có minh được cơ tiêu tức hạp tịch của hai khí, tức nguyên khí mới
được qui lư.
Lúc dụng công về hai khí, Chân ý trong lư không được chấp hữu
về cơ hô hấp, chỉ nương theo nguyên khí mà thể thủ. Chẳng qua
cũng là mượn cơ hô hấp để làm khí cụ thể thủ, tức Lục Tổ gọi vãng
Bắc tiếp độ.
Lúc nguyên khí đã qui lư, lại nên huân luyện. Lấy ý định để làm
hỏa, lấy tức khư (hơi thở) để làm phong. Nung nấu một thời thì tinh
trọn hóa khí. Chân ý nhiếp qui trì trọng là võ hỏa.
Lại hỏi: Sao gọi là văn hỏa?
Đáp: Văn hỏa là bất tồn nhi thủ, bất tức nhi khư, thời thời khắc
khắc chẳng hề mê mụi, mà hằng tĩnh tĩnh mãi mãi. Cũng không dứt
hơi thở, mà hơi thở qui lư.
Cổ Đức nói: Trượng vãng trượng lai vô gián đoạn. Xá lợi thành
toàn hiệp ban sơ.
Tối kỵ về hôn mê tán loạn, một niệm không dấy, một ý chẳng tán,
tợ như loại lửa trong lò.
Cứ như vậy mà tu mà luyện, lo gì Chân chủng chẳng sinh, xá lợi
không sản, Đại đạo chẳng thành.
Thích gia phổ Thế Tôn viết: Đối Đẩu minh tinh nhi ngộ Đạo.
Đối: Là phản quán. Đẩu là Bắc đẩu, Đơn điền.
Minh tinh: Là ánh sáng của Chân khí phát hiện.
Chánh thị: là cảnh của Chân chủng sở sản.
Hưng Dương Thiền Sư mới nói: Áp địa hồng luân thâu. Hải để bất
khai hoa.
Viên Thông Thiền Sư viết:
Bắc đẩu tàng thân tuy hữu ngộ,
Xuất trần tiêu tức thiểu nhân tri.
Bắc đẩu tàng thân: Là tàng Thần nơi đó để khỉ thủ. Nếu không tu
luyện tại chỗ đó không thể nào xuất trần được.
Cũng như công phu chuyển pháp luân tiêu tức, đáng chuyển mà
không chuyển, tức Chân chủng sản mà vô qui, lại phế tiền công,
Hưng Dương Thiền sư gọi: Thối nhất bộ tắc thất sự. Cho nên có lời
nói: Xuất trần tiêu tức thiểu nhân tri.
Từ đây về trước đều nói về phép hòa hiệp Chân chủng.
Thử thượng số giả Huệ mạng kinh chi diệu pháp, hòa hiệp
Chân chủng chi Thiên cơ, cụ tại tư dư, nhi kỳ phong hỏa chi
công diệu bất ngoại thị hỉ.
Tiết này nhằm tổng kết thượng văn về pháp hòa hiệp Chân chủng
và phong hỏa, cổ Thánh chẳng khứng toàn bộ, nên nhiều người tuy
có hiểu về Đại đạo, nhưng đều bị đi theo con đường nhánh. Ta nay
nói ra rõ ràng, để cho các đồng chí không bị lạc vào ngoại đạo, và
sớm thành ngôi Chánh giác.
Còn những người đời nếu muốn quyết chí tu hành, nếu được đi
sâu và kinh nầy, rồi tự tu tự chứng, chẳng phải sung sướng sao.
Dư Cố viết: Tự thủy ngưng Thần phản chiếu Long cung, hồn
nhiên nhi định tịnh, dĩ song vong nhi dãi động, dĩ ý khí nhi
đồng dụng, dĩ Thần hỏa nhi hóa, dĩ tức phong nhi xuy, dĩ võ nhi
luyện, dĩ văn nhi thủ, cửu cửu huân chưn, khắc khắc vô gián, ý
khí lưỡng bất tương li, tắc hòa hiệp ngưng tập chi pháp đắc hỉ.
Tiết này tổng tự về pháp hòa hiệp sở sanh Chân chủng.
Long cung: là Huyền quan Tổ khiếu, là Đơn điền. Trong đó có
nước nên gọi Long cung. Tính nước trầm trọng nên hằng hạ lưu.
Thần tức là hỏa, tính hỏa khinh phù, nên hằng thượng xung, gọi là
thượng lậu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
175
Con người hậu thiên Ly hỏa ở trên, Khảm thủy ở dưới, nên cả hai
đều gián cách, thường hữu lậu, nên chẳng được siêu sinh liễu tử.
Phật Tổ mới dạy: Đem lửa đặt dưới nước, thì tâm tự hư không, lửa
không còn thượng lậu nữa. Còn nước nhờ có lửa đun, nên nước đều
hóa thành khí, và cũng không còn hạ lậu, khí cũng tự thượng thăng.
Lúc đương ngưng Thần, nội niệm bất xuất, ngoại niệm bất nhập,
không không lồng lộng, chẳng chấp nhất, chẳng trì trệ, hồi quang
phản chiếu. Lúc đã chiếu phải quên hình quên ý.
Nếu còn dụng ý tức là chẳng quên. Nếu quên tức không lấy được ý
chiếu. Tâm đã chẳng còn gọi là chiếu, dục đã không còn gọi là
quên.
Chiếu cùng quên tuy hai mà một, tuy một mà hai.
Lúc đương quên là tâm lặng vậy, nhưng chưa từng chẳng chiếu.
Lúc đương chiếu thì tiêm hào chẳng lập, cũng chưa từng chẳng
quên. Chiếu và quên đã được thuần nhất, tức được hồn nhiên định
tịnh, Thiên địa nhân ngã không biết đi về đâu. Còn chờ là để cho
hầu động, thoạt nhiên rực sáng hòa lẫn, ngoại hình bột khí, tức
dùng Chân ý đón nghinh Chân khí qui về lư.
Chân khí đã qui về bản địa, liền dùng Chân ý trụ định nơi trong,
nên dùng hô hấp để xuy khư (thổi).
Lúc hành trụ tọa ngọa cũng không lìa ngôi Trung, lo gì Chân
chủng chẳng sản.
Bất văn đắc Đạo Cổ Nho chi ngôn hồ:
Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa,
Nhân uân Thiên địa sạ hồi triều.
Từ đây về sau nói về thời Chân chủng sở sản. Cổ Nho tức Thiệu
Khương Tiết.
Có những người tu theo Thích giáo, nói Nho sĩ chẳng biết Đại đạo
là gì, lại tự dã thất Tham Thiền, khẩu đầu tam muội, gọi là đắc đạo,
thật đáng cười vậy.
Hoảng hốt là trạng thái tịnh định, hồn nhiên như Vô cực, bên
ngoài không thấy thân, bên trong chẳng thấy tâm. Là lúc vi dương
sơ động phát sinh nguyên khí. Tâm hồn tợ như nửa tỉnh nửa mê,
thân thể tợ như tắm như gội, nên Tịch Vô Thiền Sư nói: Lục hiệp
đồng Xuân.
Sạ: Hưng Dương Thiền Sư nói: Tạp địa hồng luân thấu (ánh sáng
của mặt nhật chiếu khắp vùng đất).
Hồi triền: Chân tinh triền động. Chính là lúc Nguyên quan thấu lộ.
Là đúng lúc thể thủ.
Lục Tổ Đàn Kinh viết: Nhân địa quả hườn sinh.
Địa: là Long cung, là Cốc thần.
Quả hườn sinh: Nhân có cơ hữu tinh lai hạ chủng hòa hiệp mà có
quả sinh. Quả là Chân xá lợi, là Bồ đề tử.
Vô Lượng Quang Minh Như Lai viết:
Phân minh động tịnh ưng vô tướng.
Bất giác Long cung hóng nhất thanh.
Vô tướng: Thích gọi Oai âm, Nho gọi Vô cực.
Loại vật này bổn lai vốn vô tướng, nhân tịnh định mới sanh.
Long cung: là nhân địa.
Hóng nhất thanh: kêu lên một tiếng, là hiện tượng báo trước quả
sẽ sinh.
Cổ Đức nói: Địa lôi Chấn động Tốn môn khai.
Lại nói: Lôi tùng địa hướng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
176
Tư Ma Quang Như Lai viết:
Hải để nê ngưu lộ bán hình.
Hải đề: là Long cung, là Bắc hải.
Nê ngưu tức Huệ mạng, là Chân chủng tử.
Lộ bán hình: Là pháp tượng Chân chủng tử gần sinh. Lúc nầy nên
tính để chờ, không nên gấp thể thủ. Chờ cho ngưu lộ toàn hình mới
thi công. Chẳng dụng tịnh mà dụng động là khởi niệm, ngưu sẽ
kinh hoảng, rồi ẩn tàng biệt vô tông tích, nên Viên Thông Thiền sư
gọi thái táo sinh.
Tịch Vô Thiền Sư nói: Tất có Nguyên khiếu sinh vật, mới nên
phát nơi dương lư, vốn không phát hỏa trước, mà cũng chẳng phát
hỏa sau. Thiên cơ nếu chưa đến mà trước lo trợ trượng tức ngoại
hỏa tuy có vận hành mà nội hỏa chưa ứng, nếu tự ý thể thủ, tức sẽ
bị thiêu đốt cơ thân là điều rất nguy hiểm, cần phải thật cẩn thận.
Viên Thông Thiền Sư viết:
Mai hoa vị phát thái tảo sanh,
Mai hoa dĩ phát thái trì sanh.
Mai hoa là khí Chân dương, là tín hiệu báo tin mùa Xuân sắp về,
tức ví dụ trong thân ta có cảnh tượng dương khí phát sanh.
Chưa phát là nói về lúc khí gần động, chưa động, lúc nầy nếu
vọng thể, tức khi còn non không thể thắng lên được, nên gọi thái
tảo sanh.
Còn đã phát là nói về khí đã động, vừa mới động, lập tức thể thủ
đem về lư. Nếu đã phát mà để trễ nãi rồi mới thể thủ, tức khí đã già
sẽ không kết đơn được, nên gọi thái trì sanh.
Viên Ngộ Thiền Sư nói: Tấn nhất bộ tắc mê lý. Thối nhất bộ tắc
thất sự. Là nói về chỗ này.
Hựu viết: Nhẩm ma tắc phong sương đô khiết tận, độc chiếm
phổ Thiên xuân.
Nhẩm ma: là nói về thời dương lệnh.
Phong sương khiết tận: là ví dụ về thời gian trong con người
không còn âm khí.
Thiên xuân: là ví lúc Đơn điền khí đã hoàn toàn thuần dương.
Trong cảnh tượng này như mộc như dục, châu thân rực ánh, hai khí
hòa lẫn, sướng khoái không gì sánh kịp, trong ngoài đều là khí
dương xuân. Đó là chân cảnh tượng Chân chủng sở sản.
Hựu viết: Thiết tu dạo trước.
Là lời của Tổ sư dặn dò người đời sau, nếu thấy được cảnh nầy
đến, lập tức nên hưng công thể thủ. Nếu không thể thủ là sai lầm.
Loại dược vật này thường có thói quen, là hay buông theo con
đường thục lộ, nên Hưng Dương nói: Thối hậu tắc thất sự! Cho nên
gọi là dạo trước, là sự cướp đoạt linh vật, có tính cách cưỡng đoạt.
Lúc nầy tâm lực phải dũng mãnh, dùng Chân ý chủ tể, dùng hơi thở
của ta để chiêu nhiếp, đem Chân chủng qui về đơn lư, rồi huân
chưn, rồi phong cố, rồi vận hành Châu thiên.
Tịch Vô Thiền Sư viết: Chí ư lục hiệp đồng xuân, vật vật đắc
sở.
Lục hiệp: là nói về châu thân con người.
Xuân: là ví dụ tín hiệu ấm trong người.
Vật: là nói về nguyên khí.
Công đáo thời chí là nói về lúc sở đắc tinh dược. Lúc nầy thình
lình trong Đơn điền phát rực sáng và có dạng hòa lẫn.
Tâm kinh có chép: Nhất dương sơ động, hữu vô cùng chi tiêu tức.
Hoảng hoảng, hốt hốt, tâm dĩ phục linh, hô hấp phục khỉ. Đơn điền
chi khí, tự hạ vãng hậu, thận quản chi căn, mao tế chi gian, dướng
(ngứa) sanh khoái lạc, thực bất năng cấm.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
177
Cho nên nói: Chân khí sung mãn, Nhâm Đốc tự khai. Lúc nầy nên
tiến nhanh là thể dược qui nguyên rồi chuyển Đại pháp luân.
Nếu không thể thủ, Chân dược đến lúc sung mãn sẽ tràn ra ngoài,
tức tiền công tân phế!
Tiết này toàn tiết Thiên cơ, ta phải trải qua 30 năm dư mới đắc
diệu pháp này. Sau nầy các tu sĩ dụng công đến đây cần nên ghi
nhớ, cần nên ghi nhớ. Chớ nên khước từ về cảnh tượng bên trong,
nếu có được hai ba lần, đó là Chân chủng sơ sản.
Đạt Ma Tổ Sư viết: Nhị hầu thể Mâu ni.
Đây là lời nói về hầu thể dược qui lư.
Nhị hầu là: tiền hượt dương sinh thời là một hầu. Lụy tích khí
Chân dương sung mãn nên Chân chủng sản, là một hầu.
Thể: loại vật nầy lúc đã sản xuất, vốn muốn buông ra con đường
thục lộ, thuận hạ, rồi lậu, nên phải dùng hô hấp để thể thủ qui lư.
Mâu ni: là biệt danh của linh vật, Nho gia gọi là nguyên khí.
Hựu viết: Nhị hầu thể Mâu ni, tứ hầu hữu diệu dụng, lục hầu
biệt Thần công. Tiết trước gọi nhị hầu là hầu sanh và hầu sản. Lại gồm hai hầu
nữa, là thể thủ hầu và phong cố hầu. Người tu học nên minh biện,
không nên khái lược. Nên xem ở pháp luân lục hầu đồ, thì được
thấy rõ.
Nhị hầu này là lúc Chân chủng sở sản, liền thể thủ qui lư, là một
hầu. Lư trung phong cố là một hầu nữa.
Sau khi Chân dược đã qui lư và phong cố rồi, phải dụng công vận
hành Châu thiên, thì thăng là một hầu, giáng là một hầu, rồi mộc
dục hai hầu, cộng là 4 hầu.
Cả thảy trước sau là 6 hầu (Thể + Phong + Thăng + Giáng + Mộc
dục (2) = 6 hầu).
Lục Tổ viết: Vãng Bắc tiếp độ.
Vãng: Là dùng Chân ý dẫn độ.
Bắc: Là long cung, là Cốc thần.
Tiếp độ: Là Chân ý tiếp thu Chân dược, rồi độ dẫn thăng, độ dẫn
giáng.
Tịch Vô Thiền Sư viết: Thể thủ dĩ thăng giáng, tùng Đốc mạch
thượng thăng Nê hoàn, tùng Nhâm mạch giáng hạ Đơn điền.
Nhâm Đốc hai mạch là đường đạo lộ vận hành Châu Thiên.
Nhâm mạch khởi hành từ Đơn điền, lên Giáng cung, lên Trùng
lầu, lên Ngân xỉ, rồi đi vòng vào bên trong mà trởi về vị trí cũ.
Đốc mạch khởi hành từ mặt trước của càn cung, lên Bách hội,
xuống Ngọc chẩm, xuống giáp tích, xuống Vĩ lư, rồi vòng vào bên
trong mà trở về chỗ cũ.
Trong một ngày đêm 20 giờ, hai mạch âm dương này vận hành
như trên đã nói và là thời gian hai mạch bị gián cách, nên con người
phải chịu tử sanh. Chỉ có 4 giờ Tuất và Hợi, gọi là thời Thái cực,
hai mạch mới được giao hội lúc vận hành.
Nhờ có hai giờ Thái cực nầy con người mới có cơ tạo hóa tiếp nối
sự sống còn tạm thời.
Các bậc Thánh nhân lấy đó để đạy cho chúng ta pháp phục qui
Thái cực.
Công phu vận Châu thiên có một chủ đích là khai thông Nhâm
Đốc, điều hòa ngoại dược, chiết Khảm điền Ly và tạo cho nội dược
giao hiệp.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
178
Hai mạch chủ của âm dương được thông, thì trăm mạch đều
thông.
Thể thủ dược vật, vận hành Phát luân, điều hành Chân tức, quá
quan phục thực và 4 chủ đích trên, đều do con đường đạo lộ này.
Dịch kinh viết: Hấp hô vị chi Khôn, tịch hộ vị chi Càn. Nhất
hạp nhất tịch vị chi biến. Vãng lai bất cùng vị chi thông.
Lời kinh nầy nói về cơ tiêu tức của hai khí trong công phu vận
chuyển Châu thiên.
Long Giang phương trượng hỏi: Tây phương phạn ngữ chưa thấy
chỗ nào nói về kinh dịch, nay chép vào đây là điều không hạp với
Thích giáo chăng?
Đáp: Đó là sự chấp nhất, tức sẽ bị bất minh về nhị. Chấp nhất tất
nhiên bị hệ thuộc vào bàng môn, như vậy làm sao thấy được chủ
đích của nền Thích đạo. Trăm ngàn đời về trước, trăm ngàn đời về
sau, những kẻ mang danh tu hành mà chấp nhất, thì vạn vô nhất
thành! Tam giáo há có hai đạo sao!
Thù bất tri, nguyên đầu của Dịch, là Tổ của nền Chân đạo.
Lại hỏi: Các Nho sĩ ngày nay nói kinh Dịch là bộ sách bói toán.
Chưa nghe người nào nói là bộ sách tu luyện. Là lý do gì?
Đáp: Thời văn bốc phệ, là loại văn của lớp người Nho tục trần.
Các bận Chân Nho ngày xưa, hằng đặt tâm tham cứu về lý Tiên
thiên, tham khảo về cơ hạp tịch, nghiên học về pháp môn Thủy Hỏa
Ký Tế để đoạt cơ Liễu tử siêu sinh. Cách vật cùng nguyên về Tánh
mạng của ta. Tìm hiểu cho rõ ràng về cơ đắc chánh và thất chánh,
lời thoán truyện của quẻ Thuần Càn có đoạn nói: Càn đạo biến hóa,
các chánh Tánh mạng. Lời nói nầy là lời của bốc chiêm ư?
Lại hỏi: Tu luyện như thế nào?
Đáp: Chân đạo dụng Tiên thiên, mượn hậu thiên làm trục bảng để
vận hành Châu thiên. Hạp hô là cơ hút vào, để chuyển hạ, nên gọi
Khôn. Tịch hộ là cửa thở hơi ra, đưa khí lên trên, nên gọi Càn. Đó
là lý nhất biên của hậu thiên. Biến là cơ tiêu tức của hai quẻ Càn
Khôn. Vãng lai bất cùng: là Tiên thiên khí và hậu thiên khí, là cơ
tiêu tức của hai khí vận chuyển không ngừng. Thông: là thông đạt
đến Nguyên quan, là cơ Càn Khôn chung vận.
Nếu dùng miệng mũi một hô một hấp, gọi là vãng lai bất cùng, thì
cách xa với nền Chân đạo.
Lại hỏi: Lý đó như thế nào?
Đáp: Lấy hơi thở của hậu thiên làm sở dụng cho hơi thở Tiên
thiên. Cơ hô là tịch là Càn. Cơ hấp là hạp là Khôn. Càn Khôn là
định vị của Thiên địa. Cái đầu của con người là Càn cung, Cái bụng
là Khôn cung.
Biến: là do sự chủ tể của Càn Khôn, tức là Chân ý của ta, dịch sử
cho cơ vận chuyển của hai khí, cũng như Nam Bắc đẩu tinh.
Vãng lai bất cùng: là sự chuyển vận của hai khí, hễ dương qua thì
âm lại, tợ như người dệt vải. Có khi dương lên trên âm xuống dưới.
Có lúc dương xuống dưới âm lại lên trên. Tuy là như vậy, nhưng
hai khí tiên hậu không nên chú trọng về khoảng dụng công thăng
giáng. Chân ý tuy làm chủ về đẩu tiêu, còn Thần thì chú trọng tại
Tiên thiên đồng hành. Chẳng qua cũng là mượn cơ hạp tịch của hậu
thiên, để vận chuyển khí Tiên thiên.
Lại hỏi: Con vì quá mê mờ, cầu Lão sư khải minh Chí lý, con mới
dám dụng công. Chỉ vì do tiết lậu mà có tội lỗi. Lời đức Thế Tôn
dạy: Lo độ tận chúng sanh mới gọi tự độ, mới không còn tội lỗi.
Còn giới tu hành ngày nay lại không có song tu, là do lẽ gì?
Đáp: Đó là bí cơ của công phu vận hành Châu thiên. Các bậc
Thánh xưa không hề nói rõ, cho nên diệu càng thêm diệu, vi càng
thêm vi. Các hàng tục tử, những kẻ không có thiện căn, làm sao
nghe được.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
179
Hạp hấp tuy là đưa khí đi xuống cung Khôn nhưng nguyên khí nơi
Khôn cung lại đi lên trên Càn cung. Còn tịch hô tuy là đưa khí đi
lên Càn cung, nhưng nguyên khí nơi cung Càn lại đưa xuống Khôn
cung. Đều do khí Tiên thiên và khí hậu thiên thăng giáng sau lưng
trước mặt.
Hựu viết: Càn hảo dụng cửu, Khôn hào dụng lục.
Tiết này nói về qui tắc vận Châu thiên và hạn số.
Càn dụng cửu là: 4x9 = 36, và 1, 2, 3 qui thứ đều nhân cho 4.
Cổ nhân áp dụng từ nhất qui đến lục qui làm cơ thăng. Thăng hạp
với Càn, nên dùng Càn hào Càn sách.
Càn hào dụng cửu, nhân cho 4 = 36.
Cho nên Châu thiên thăng cũng dụng đồng với tứ diệp.
Càn sách là tổng số về diệp tích của tứ tượng, ngũ hành với dụng
cửu: 9x4x5 = 180 cọng với Châu số của mẹo là: 180 + 36 = 216.
Khôn sách là tổng số về diệp tích của lục với tứ tượng, ngũ hành,
cùng Châu số của dậu âm là: (6x4x5) + 24 = 144.
Tổng cộng Càn sách với Khôn sách là 360.
Còn số nhuận dư 24, mới trọn đụ diệu số 384 Châu thiên của Dịch
lý.
Hoa Nghiêm Kinh viết: Chư Phật định năng ứng thời chuyển
diệu Pháp luân.
Tiết nầy nói về pháp mộc dục ở nhị qui.
Định năng ứng thời: tức là hai giới địa của mộc dục. Nhi gọi hai
thời mẹo dậu. Thích gia cũng như vậy.
Nếu không nói thời, lấy đâu để ứng với thời.
Định: là nói về hai thời không dùng hô hấp, là Thần khí bảo thủ
cho nhau.
Định rồi lại chuyển, Nho gia gọi hai thời này là phương sanh sát,
hình đức tương phản chẳng nên hữu sự, và định thủ cho đến vô sở
sự.
Lúc vận hành Châu thiên, phải giữ đúng qui trình qui tắc của mộc
dục.
Lại hỏi: Con chỉ mới nghe đông tây là mộc dục, chưa nghe qui qui
mộc dục, cầu được nghe?
Hoa Dương đáp: Chuyển pháp luân có qui tắc là khỉ tại hư nguy,
chỉ cũng tại hư nguy.
Cơ vận chuyển phải ứng dụng một nửa văn hỏa và một nửa võ
hỏa. Nếu bỏ văn hỏa mà toàn dùng võ hỏa, tức sẽ bị tẩu hỏa nhập
ma!
Nếu không dùng đúng hạn số Châu thiên của tứ chánh, tức không
có hiệu quả. Nếu dùng hạn số Châu thiên gấp rưỡi, gấp đôi, cũng bị
tẩu hỏa nhập ma, có khi bị tán mạng!
Lại còn phải vận hành cho đúng con đường đạo lộ, nếu đi con
đường khác Chân khí sẽ bị tán thát, hóa ra vô hiệu.
Còn phải nhớ: Trong hành có trụ, trong khỉ có chỉ. Chỉ khỉ hành
trụ đều giữ đúng qui luật tự nhiên, qui luật khắc lậu, qui luật Thần
ngự khí, qui luật tất cả đều do Chân ý chủ tể, nên mới gọi qui qui.
Lại hỏi: Sao gọi là mộc dục?
Đáp: Các thời mộc dục hoàn toàn dùng văn hỏa mà không dùng võ
hỏa. Có thể gọi cơ tịch chiếu cũng là mộc dục.
Thích gia phổ Thế Tôn viết: Nhập trì mộc dục.
Trì: là xứ địa của đông tây.
Đức Thế Tôn sau khi thấy minh tinh, liền vào hai trì (cái ao) để
mộc dục, là lúc huân chưn khoái lạc với văn hỏa ôn ôn.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
180
Hoa Nghiêm Kinh viết: Vi tiễn Như Lai sở hành chi đạo, bất
trì bất tốc, sát dế kinh hành.
Đạo: là con đường, là một phương hướng, là đạo lộ Nhâm Đốc.
Chẳng chậm chẳng nhanh: là hô hấp đúng pháp tắc (theo ý của tôi:
càng chậm càng tốt).
Sát đế kinh hành: phàm vận Châu thiên, Thần khí phải đồng hành
đồng trụ. Nếu đi sai lạc vào con đường khác, tức sẽ bị mờ mờ mịt
mịt, không thể nào kết xá lợi được.
Như Lai viết: Bất đắc cần, bất đắc dãi.
Công phu vận Châu Thiên phải hạp với tự nhiên, đồng với Đại
đạo. Nếu cần tức thái quá, sẽ sinh gió lớn. Châu thiên sẽ không
được chuyển vận, lửa sẽ hừng nóng, không thể chế phục, Chân ý
bất cập tức gió sẽ vi tiểu, công phu sẽ không thành trưởng vượng và
biến hóa.
Nhiên Đăng Phật viết: Thường chuyển Pháp luân.
Thích giáo gọi Pháp luân, Tiên giáo gọi Châu thiên, Nho giáo gọi
Hành đình, đều một chủ đích dùng Chân ý điều dẫn Chân khí lưu
thông theo con đường đạo lộ trong con người.
Thường: lúc Chân chủng sản, nên vận hành một chuyển. Nếu
không vận hành tức sẽ bị lậu hạ, xá lợi cũng chẳng thành.
Thế Tôn viết: Đương chuyển như thị diệu Pháp luân.
Diệu: là sự mầu nhiệm, không thể dùng ngôn ngữ để hình dung
được. Còn nếu không nói ra, hậu học làm sao hiểu được, cả hai
thuyết đều do có đắc ngộ được Chân sư hay không.
Đại đạo tối bí, ai dám toàn tiết.
Ta chỉ vì thấy đại đa số người tu hành không biết được pháp Song
tu, nên ta mới khải thị, để cho hậu học đạt trọn tinh vi.
Diệu: là tại cơ tiêu tức. Biết được thì rất giản dị. Chẳng hiểu thì rất
khó.
Chuyển Pháp luân là công phu điều hòa hai khí âm dương bên
ngoài, tạo cho nội dược diên hống phối hợp, khai thông đạo lộ âm
dương, chiết Khảm điền Ly, góp phần chỉnh định Càn Khôn, tái tạo
dinh hoàn, chánh định tánh mạng.
Lục Tổ viết: Ngô hữu nhất vật, thượng trụ Thiên, hạ trụ địa.
Vật: Nho gia gọi nguyên khí.
Trụ thiên: là thượng thăng Càn đảnh.
Trụ địa: là hạ giáng xuống Khôn phúc.
Thích gia phổ viết: Hải thủy quán Thái tử đảnh.
Hải: là Long cung, là Cốc thần.
Thủy: là nguyên khí, là Tào khê thủy, là động thủy nghịch lưu, là
hút hít nước Tây giang.
Quán đảnh: nước tưới lên tận cung Càn.
Thái tử: là chỉ về đức Thích Ca.
Thế Tôn viết: Hỏa hỏa dĩ hậu, thâu thủ xá lợi.
Lời nầy nói về lúc xá lợi sắp thành.
Hỏa: là Thần. Xá lợi đắc hỏa mới được thành công, tức có hiệu
nghiệm lúc thành, chẳng phải như không hư mà không biết.
Lúc xá lợi thành thì hư không phát sinh ánh sáng trắng bạch, Long
cung như nước nóng, Qui túc bất cử, liền dùng pháp thâu thủ, vận
quá tam quan, đem về Trung cung để dưỡng Thánh thai mười
tháng.
Hoa Nghiêm Kinh viết: Cụ trượng phu hình, thành tựu Như
lai, mã âm tàng tướng.
Mã âm tàng tướng: Tiên gia gọi Qui tức, là dâm căn đã đoạn. Nam
tru bạch hổ, nữ trảm xích long. Lúc nầy không còn phân nam nữ.
Nếu ngoại thận còn một mảy vi động, cũng chưa thành, tức còn
phải dụng công về Châu thiên vận và tịch chiếu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
181
Nếu không dụng công hà luyện đốt nung thì dược vật không được
thuần dương. Cũng như không ra công huân chưn on ôn hỏa dưỡng,
thì dược vật còn non nớt, dược lực kém yếu, không thể xung quan
được.
Lúc dược vật đã đúng độ, là không non không già, mới di lư hoán
đảnh. Lúc nầy có Chân cảnh xuất hiện, thì Châu thiên võ hỏa phải
lập tức ngưng chỉ. Nếu vọng hành, xá lợi tuy đã thành, nhưng cũng
bị bức lậu, tức trở thành một kẻ phàm phu.
Có những vị Lão thành ngoại thận bất cử mà gọi đã thành xá lợi,
là điều lầm lẫn.
Người nào tinh lực đã cạn kiệt, tất phải chờ kiếp sau. Còn người
tinh lực kém thiểu, nên phải gia công tu luyện, cho đến lúc nào
ngoại thận cử động, mới có hi vọng.
Thế Tôn viết: Năng bất tử A La Hán.
Chẳng chết: là tâm và thận bất lậu.
Tu sĩ nào tu luyện mà được ngoại thân bất cử, tức dâm căn đã
đoạn, xá lợi kết, là đã thành người con của Phật.
Ca Diếp trụ thế bảy trăm năm, sau nhờ đức Thế Tôn trao cho pháp
quá quan, mới thành ngôi Nhị Tổ. Bửu Chưởng Hòa Thượng trụ thế
1712 năm, sau nhờ đức Đạt Ma truyền pháp Quá quan, mới được
siêu thoát.
Còn những người tuy đã đắc xá lợi, nhưng chưa minh về Đạo thai,
nên phải trụ lại đời.
Thử dĩ thượng giai ngôn chuyển pháp luân thành xá lợi chi
công, nhi Huệ mạng chi đạo tận tại tư hỉ.
Tiết này là lời tổng kết về pháp thành xá lợi, đạo Huệ mạng đến
đây cũng đã trọn đủ.
Tư viết: Thành xá lợi chi đạo, công pháp thậm đa, viết: Chơn
thần viết: Chân khí viết: Chân ý viết: hô hấp viết: Chủ tể viết:
vận hành, nan dĩ bị ký.
Phàm lâm cơ chuyển Pháp luân chi tế, nhất ý ngự nhị khí, nhi
vận hành chi pháp, hựu tại hô Thần chi hiệp Chân khí nhi đồng
đồ, bất khả sử vu tha. Kiến ư, thập nhị qui, toàn trượng hô hấp
thôi vận, dĩ tức số định kỳ pháp tắc, tự thế dĩ chi ư qui căn, bất
khả tu du lị dã. Lị tắc đoạn nhi bất tục, bất thành xá lợi hỉ.
Thành xá lợi đạo, công pháp tuy có nhiều, mà đều là pháp giản dị.
Lúc mới hạ thủ tuy có khó, nhưng khi đã được thành thục thì dễ
dàng. Chủ yếu là dụng công về tiêu tức theo tự nhiên. Nếu có chỗ
chấp nhất tức không thành dược vật.
Lúc chuyển Pháp luân, Chân ý phải chủ trì nơi Đơn điền để làm
luân xa tâm, Thần vận khí để làm luân xa trảo (tăm xe) hô hấp thổi
bức để làm luân xa cốc (cái trục xe). Cả thảy đều xuất phát từ tự
nhiên như nhiên đối với cơ tiêu tức. Như vậy có gì khó.
Chẳng khởi theo tha kiến: Là lúc vận Châu thiên, ngoại trừ nhĩ
mục, nội tuyệt tư lự, chỉ còn một điểm Chơn thần điều hành Chân
khí tuần hườn, nếu có một mảy khởi niệm về sự khác, tức Chân khí
sẽ bị tán phát, và đi lạc vào con đường khác, khiến thành không
chuyển vô ích.
Tức số: là hạn số theo hơi thở của từng giờ, như thăng thuộc
dương, dương thuộc Càn. Càn dụng cửu như đã nói ở trước. Còn
giáng thuộc âm, âm thuộc Khôn, cũng như vậy.
Tức số đúng hạn độ, đồ bộ không sai một hào li về qui tắc, tức có
huyền diệu.
Bất văn Thế Tôn dữ Ca Diếp chi ngôn hồ, viết: Chánh pháp
nhãn tạng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
182
Thích giáo gọi Chánh pháp nhãn tạng, Tiên gia gọi dĩ Thần ngự
khí, Nho gia gọi Thủy Hỏa Ký Tế. Danh từ tuy khác nhau, nhưng
chủ đích có một. Chẳng qua cũng là sự ví dụ: lấy lửa đun nước, cho
nước bốc thành hơi, và nước lửa không còn lậu, tâm tức, Thần khí
tánh mạng đều vô lậu, tức bất sanh bất tử.
Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế là một sự thị hiện về Chánh pháp rất cụ thể,
rất dễ hiểu.
Hựu dữ A Nan viết:
Nhược bất tri tâm mục sở tại.
Tác bất năng hàng phục trần lao.
Tiết này là diệu chỉ của kinh Lăng Nghiêm, là mật cơ tạo thành xá
lợi.
Nếu không dùng tâm mục để cố thủ Long cung, thì Chân dược
không thể xuất lư, nên tiết trước nói Chánh pháp nhãn tạng.
Sở tại của tâm mục là Long cung, Cốc thần. Người nào biết được
sở tại này rồi thường xuyên dùng Chân ý cố thủ, an trụ, thì Cốc thần
bất tử, muôn vạn trần lao thảy đều tan biến, cực lạc quốc sẽ thị hiện
nơi thân tâm ta.
Pháp Hoa kinh viết: Ngã kim vị thử bảo nhiệm thử sự, chung
bất hư dã.
Nhử đương cần tâm tinh tấn, hành thử tam mụi ư thất nhật
trung, tư duy như thị sự.
Sự: là danh từ riêng biệt của Thích giáo.
Là một sự việc: Chân khí đắc phong hỏa mà thành Chân xá lợi,
nên nói: Chung bất hư.
Lại phải ngày đêm với công phu niệm tư tại tư, nên nói: Cần tâm
tinh tấn.
Luyện tâm cho vạn lự tận thông, mà chỉ còn một điểm Linh quang
chuyên mầu (trong) xá lợi, nên gọi: tư duy như thị sự.
Thất nhật: Là tổng quyết thể thủ xá lợi. Nho gia gọi: Thất nhật
phục kiến Thiên địa chi tâm. Lại nói: Thất nhật nhất dương lai
phục. Thất nhật chẳng phải là bảy ngày, thất là thành số của hỏa,
hỏa là mẹ của thổ, thổ là Chân ý, nên nói: Thất nhật. Là Chân ý thể
Đại dược Quá quan.
Thế Tôn viết: Lục chủng chấn động.
Hựu viết: Mi gian thường phóng bạch hào quang.
Lục chủng chấn động: là nói về cảnh xá lợi sở sản. Lục chủng là
sáu xứ trong thân người. Là nhãn phát kim quang, tai có tiếng gió,
mũi có khí rúc, sau não có tiếng chim Thứu kêu, thân người phát có
dũng động, Long cung xuất hiện hỏa châu.
Lúc xá lợi thành, từ lưỡng mi gian phóng xuống tề luân một luồng
bạch quang. Trong ám thất hóa nên bạch sắc.
Thế Tôn viết: Lô nha xuyên tất.
Lô nha xuyên tất: là diệu dụ về xá lợi quá quan. Lúc xá lợi quá
quan không chấp ý xuyên quan, nếu chấp ý tức bị hệ thuộc đạo
bàng môn, nếu không dụng ý thì bị lỗi lầm ở cơ tương tùy. Cả hai
đều không được phạm lỗi bất dẫn và bất dụng, ắt có Thiên cơ, phải
cầu Chân sư.
Chỉ truyền trúc bạch không dám vọng tiết.
Đạt Ma Tổ Sư viết: Chiết lô độ giang.
Cũng là diệu dụ quá quan phục thực.
Ngày nay đa số người tu chưa đắc Chân truyền, nên nói: Tổ sư bẻ
lá lau làm thuyền qua sông.
Thế Tôn viết: Nhất tiễn xạ thấu cửu trùng thiết cổ,
Hựu viết: thiền duyệt vi thực.
Tiển là ví dụ Chân khí, Chân dược, Xá lợi.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
183
Xạ: là pháp Thần khí đồng hành.
Cửu trùng: Sau lưng nới đường số có tam quan: Vĩ lư, Giáp tích,
Ngọc chẩm, mỗi ải quan có 3 khiếu cọng là 9 khiếu, nên gọi cửu
trùng.
Thiết cổ: là trống sắt là ví cột sống.
Thiền duyệt: là cảnh khoái lạc.
Thực: Là quá quan phục thực.
Quá quan có hai thước kiều nguy hiểm, nên cẩn mật.
Hựu viết: Pháp hỉ sung mãn.
Pháp hỉ: là nói Chân khí qui Trung cung.
Sung mãn: Là Chân khí qui tụ về Trung cung dần dần sung mãn.
Thời gian mười tháng ôn dưỡng Chân thai, có khi ba tháng, có lúc
bốn tháng bất thực.
Nếu định lực chuyên cần thì được bất thực sớm, nếu định lực tán
thì đoạn thực chậm.
Sự đoạn thực không được miễn cưỡng.
Lúc nào Thần khí sung mãn, Chơn thần được định tự nhiên bất
thực.
Thế Tôn bản hành kinh viết: Nhược chí hằng hà thủy, nam
ngạn an ổn, trụ định như Tu di.
Thủy: cũng là ví dụ về xá lợi.
Nam ngạn: Là trung cung.
Xá lợi đã qui Trung cung, Thần và khí sẽ cùng nhau hỗn hợp, hai
thành phần này không còn lìa nhau.
An ổn: là tự tại, Nho gọi doãn chấp khuyết trung. Thức tánh dần
dần tiêu ma. Chân tánh dần dần linh giác. Chẳng còn vọng niệm.
Chánh niệm tự tồn. Lăng Nghiêm Kinh gọi: Yến tọa tịnh thất, hằng
tác thị niệm.
Trụ định như Tu di: Thần khí đã được trụ định nơi Long cung, tức
được kiên trụ như núi Tu di sơn, là núi cao nhất lớn nhất.
Lăng Nghiêm kinh viết: Hành dữ Phật đồng thọ Phật khí
phần, như trung âm thân tự cầu phụ mẫu âm tín minh thông,
nhập Như Lai chủng danh, sanh quí trụ.
Hành: là công phu ôn dưỡng Thánh thai.
Sau khi xá lợi đã qui Trung cung, thì Chơn thần được thọ lấy Phật
khí, để chế phục cơ trì ngoại. Thần đắc được khí thì định, khí đắc
được Thần thì trụ, tương thân tương luyến dung hóa làm một, nên
gọi hành cùng với Phật đồng, thọ Phật khí phần.
Tánh vốn thuộc âm, nên gọi âm thần.
Phật khí là khí của cha, còn khí hô hấp là khí của mẹ. Công phu
đến tiết độ này, lại chẳng nên khô tịch vô vi.
Phật khí có cái lý sinh hoạt, còn khí hô hấp thì có cơ tư dưỡng.
Tức phải lấy tánh để cầu sự xung bị của hai khí, để bổ trợ cho lúc
Phật khí sinh, khiến được qui nguyên, hầu vừa giúp cho thai của ta
được viên mãn.
Còn hô hấp liền nhau, là để trợ cơ hóa dục của thai ta, nên gọi tự
cầu phụ mẫu.
Lại không nên chấp nhất mà mê ở nhị.
Công phu đến hiện tượng thái không này, tự nhiên có một khí từ
minh đường lại và qui về Trung cung, Chân ý liền cổ động cơ hạp
tịch, khiến được châu lưu khắp cơ thân, để khử trục toàn cả âm khí
trong châu thân hóa thuần dương thể, 360 đốt xương, 84.000 mao
khiếu, thảy đều thông đạt, nên gọi: âm tín minh thông.
Lúc này tợ như quên mất cái hình thể phàm phu, mà chỉ còn có
một Linh thai của Thiên chân, của Phật thể, nên gọi Như Lai chủng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
184
Linh thai tuy vô hình vô tướng, nhưng định huệ rất viên minh, nên
gọi: sanh quí trụ.
Thế Tôn viết: Ư dục, Sắc thiên nhị giới, trung gian hóa thất
bửu phường, như tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thậm
thâm Phật pháp, linh pháp cửu trụ.
Dục giới và sắc giới là phạn ngữ của Tây thiên, Trung hoa gọi là
Hạ đơn điền và Trung đơn điền.
Sách chỉ quán có chép: Tây phạn ưu đà na. Là cơ diệu dụng của
Chơn thần, là pháp ôn dưỡng Linh thai. Linh thai tuy tại Trung điền
nhưng kiêm dụng cả Hạ điền, hiệp lại hóa thành một hư cảnh. Nếu
Chơn thần chỉ chấp trụ một Trung điền, Linh thai ắt bị trở ngại, và
không phải là Thất bửu phường.
Tam thiên thế giới là tam điền.
Tục phu gọi quá khứ một ngàn, hiện tại một ngàn, vị lai một ngàn,
nên gọi tam thiên.
Lúc luyện tinh thì trụ tại Hạ điền, dụng công tại đây gọi là nhất
thiên thuyết pháp. Nhưng phải theo cơ tuần hoàn của Thượng điền
và trung điền.
Lúc ôn dưỡng Linh thai, thì có công phu mười tháng trụ nơi Trung
điền, nên nói: Linh pháp cửu trụ, cũng gọi là nhất thiên thuyết pháp,
nhưng phải nương theo Thượng điền và Hạ điền làm con đường đi
qua. Còn sau khi khí xuất định thì trụ tại Thượng điền, cũng gọi là
nhất thiên thuyết pháp. Cọng lại là tam thiên công quả.
Hoa Nghiêm kinh viết: Dĩ định phục tâm, cứu cánh vô dư.
Định: chẳng phải ngồi tọa khô thiền, ngoan không cưỡng chế, mà
được định.
Thực có cơ định tịnh tự nhiên, có Chân truyền.
Lúc xá lợi qui về Trung cung, thì thức tánh sẽ chết, còn Chân tánh
vẫn sống còn, là lúc Pháp hỉ Thiền duyệt (vui đẹp), chân an diệu lạc
vô nội vô ngoại, hồn nhiên một khối.
Thiền định, đối với những kẻ phàm tu làm sao sánh kịp.
Công phu viên mãn thì lục căn dốn tịnh, bát thức toàn không, ngũ
uẩn tuy có cơ tuần hoàn, nhưng Chân tánh vẫn an nhiên vô dư.
Thế Tôn viết: Như lý nhi lai, như lý như khứ.
Tiết trên nói về sự chứng nghiệm đắc xá lợi.
Tiết này nói rõ về tu pháp sơ nhập Linh thai.
Lai khứ: là ví dụ về khí hô hấp, để khải thị cho người tu lúc ôn
dưỡng Linh thai, phải nương theo hơi thở, mà sau đó được lìa trần.
Lìa cảnh đến tịch diệt, nên nói: Như lý nhi lai, như lý như khứ. Có
một Thiền sư nói:
Vị đáo thủy cùng sơn tận xứ.
Thả tương tác bạn quá thời quang.
Cần phải dùng Chân ý làm chủ tể, mới định được Chân tức. Lúc
Chân tức chưa định phải dùng Chân ý để điều hòa. Chân tức chưa
điều hòa và chưa định, thì chưa thành Chánh quả.
Lúc mới nhập thai, về pháp điều tức không thể thiếu được.
Như lý như lai như lý nhi khứ, là nói về công phu điều tức, với
cách vi vi không gián đoạn.
Phó Đại Sĩ có bài thi:
Lục niên tuyết lạnh vị hà nhân,
Chỉ định điều hòa khí giữ Thần.
Nhất bách khắc trung độ nhất tức,
Phương tri Đại đạo hiến tam thừa.
Như Lai viết: Hữu dư Niết bàn.
Hữu: là có hơi thở. Lúc mới nhập vào Linh thai, Tâm phải nương
theo tức, tức phải nương theo tâm. Chẳng cập chẳng hưỡn, thính
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
185
tùng theo tự nhiên. Lại không được theo sự lồng bồng buông trôi.
Chẳng biết Chân tức có tự nơi trong, nhưng vốn thực có, nên kinh
Kim Cang nói:
Bất tri thùy giai cưỡng an bài,
Niết tụ (qui tụ) y nhiên hựu phóng khai.
Mạc vi Như Lai thành đoạn diệt,
Nhất thinh hườn tục (tiếp) nhất thinh lai.
Cũng nói về tâm tức tương y.
Phạn Cương giới kinh viết: Như như nhất đế nhi hành, ư vô
sinh không, nhất thiết Phật, Hiền, Thánh giai đồng vô sanh
không.
Như như nhất đế nhi hành: Tức Tiên thiên khí và hậu thiên khí
tương kiêm tương liên, là cơ nhân uân tự bổ Thai nguyên, chẳng
cấp chẳng hưỡn, tự nhiên vận hành, nên kinh Hoa Nghiêm nói:
Như Lai Đại Tiên đạo, vi diệu non khá tri. Lúc hai khí nhân uân
thị hiện, là lúc Thần khí hỗn hợp, người tợ nửa tỉnh nửa mê, cốt
nhục dung hòa, chẳng chấp chẳng trệ, không không, lộng lộng, nên
nói: vô sanh không.
Thế Tôn viết: Chi không bất không, Như Lai tạng.
Tiết trên nói về vô sanh không. Lại sợ người theo đó mà đoạn
kiến, nên tiết này nói: Chi không bất không. Sở dĩ không mà chẳng
phải không, chính là tịch mà thường chiếu. Còn nói chẳng phải
không, lại sợ người trường kiến. Chẳng không mà như không, chính
là chiếu và thường tịch.
Nhiên Đăng Phật viết: Sanh diệt diệt dĩ.
Sanh diệt diệt dĩ: Là Chân tức trong thai chưa đến tột tịnh định,
nên còn có lý co duỗi nên gọi: Sanh diệt. Cho nên phải giữ đến tận
vô, là không còn dấu tích co duỗi, nên gọi: diệt dĩ. Chỉ biết có Chơn
Thần, mà không biết có khí trong thai, gọi là Vạn pháp qui nhất.
Liễu tâm bí pháp tất nương theo thai mà trụ, nên gọi qui nơi pháp,
tức qui về thai.
Nếu không có Linh thai, tức là khí Chân nguyên của xá lợi bị
cưỡng trụ nơi tâm, gọi là diệt dĩ và chứng quả, tức là sai quấy vậy.
Kim Cang kinh viết: Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ.
Bồ Tát: tu Phật tâm, tức phải ứng theo sở tại của giáo trụ, sau mới
chứng quả Phật, nên lời kinh có nói: Bồ Tát dục yếu tu Phật, ưng
đương như Phật, sở thùy giáo nhi trụ giáo, tức là Linh thai vậy. Có
muốn cho Linh thai trụ định mãn túc, trước phải trụ tâm. Sự trọng
yếu của trụ tâm, tất phải nương theo Chân tức tam muội mà trụ
định, tức không bị đọa vào lục trần và buông ruỗi theo mê hoặc. Cứ
như vậy mà Chánh định để thành Chánh giác, nên Lăng Nghiêm
kinh gọi: Sơ thiền niệm trụ, Nhị thiền tức trụ.
Lăng Nghiêm Kinh viết: Ký du đạo Thai, thân phụng giác
ứng.
Lời nói nầy nói về Thần nhập vào khí, khí bao lấy Thần dạng như
mờ mờ lặng lặng, tợ như hỗn độn hồng mông, nên gọi đạo thai. Lại
nói: là lúc cha mẹ chưa sanh, tự tạo tự hóa, đủ đại tổng trì, nên gọi:
Thân phụng giác ứng.
Kim Cang kinh viết: Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố
thí.
Tiết trên nói về: Liễu tâm tất trước nương theo thai tức và trụ.
Tâm đã trụ rồi, chẳng nên tham chấp nơi thai tức. Nếu niệm niệm
không bỏ trụ nơi thai tức, tất nhiên thai tức sẽ trói buộc tâm, đồng
như lục căn trói buộc tâm, đó là chưa phải loại liễu tâm, nên tiết nầy
nói: Vu pháp ưng vô sở trụ.
Hành ư bố thí pháp: tức là thai tức. Tâm đã trụ, thì hãy buông bỏ
thai tức.
Cổ Đức nói: Quá hà tu dụng phiệt, đáo ngạn bất tu thuyền (qua
sông phải cần thuyền, đến bờ để thuyền lại).
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
186
Lúc niệm trụ, huệ tự phát sinh, nhưng nhất thiết không nên dùng
huệ này.
Nếu không bảo thủ lấy định, mà tham chấp về háo thắng tâm, rồi
dùng huệ này, tức bị mắc vào ma cảnh, bị thức thần sở hại, phế tân
tiền công.
Nhiên Đăng Phật viết: Tịch diệt vi lạc.
Tịch diệt: Không phải là tử vong, là thực chứng về thai viên mãn,
về Chân tánh đã thông triệt, nên kinh Lăng Nghiêm nói: Giác đạo
viên mãn, là cảnh tượng của Phật tánh, là tịch tịch hề huệ tri lãng
triệt. Là diếu diếu hề định giác vô vi. Là tâm đã đạt hư không. Là
tánh không còn sanh diệt, nên Lục Tổ nói: Thiền tâm vô tưởng,
Tiền tánh vô sanh. Sáu mạch đều không, hơi thở nơi miệng mũi tận
diệt, nên gọi: Tịch diệt.
Lúc nầy Chân thai sáng rực như mặt nhật dương không, nên nói:
Vi lạc (là vui).
Lại nói: Chân không vô vi.
Công phu đến lúc này, tức có hiệu nghiệm là hoa tuyết rơi khắp
không trung. Là cảnh xuất định đã đến, lập tức dời Chân thai lên
núi Tu di, và tiếp tụ lo luyện xuất nhập.
Công phu ba năm nhũ bộ, là tập cho Dương thần xuất nhập. Tập
xuất từ gần đến xa, như người mẹ ba năm cho con bú mớm, tập đi
từng bước, tay mẹ không rời con.
Dư cố viết: Xá lợi quá quan chi diệu pháp, dĩ tịnh nhi chiếu,
dĩ nhu nhi dụng. Khê lộ hiểm nguy, phòng thượng hạ chi trì
tán, Đái động nhi dẫn, nhu hộ nhi hành, dĩ văn hỏa nhi huân, dĩ
nhị khí nhi dưỡng, dĩ tịch chiếu nhi tịnh tu, dĩ song vong nhi
định định. Tắc đạo thai chi pháp đắc hỉ.
Tiết này nói lại và nói rõ hơn về công phu ôn dưỡng Linh thai.
Tịch chiếu: Là công phu ông dưỡng Linh thai.
Chẳng tịnh thì khí Chân dương không sinh phát.
Chẳng chiếu thì không quang hóa được dương khí.
Công phu tịch chiếu không thể thiếu được, nên đức Thế Tôn nói:
Tâm mục sở tại.
Khê lộ: Là con đường Tào Khê Đốc mạch, có thượng hạ Thước
Kiều là hai nơi nguy hiểm.
Linh thai lúc quá quan, nếu gặp trở tắc thì dừng lại. Chờ lúc nào
thai động dùng Chân ý trợ dẫn qua quan.
Nhu hộ nhi hành: Trợ dẫn Linh thai quá quan phải dụng nhu, là
dùng vi vi Chân tức trợ dẫn, tuyệt đối không được dùng cương, có
nguy hiểm.
Văn hỏa huân chưn: là nói về mười tháng ôn dưỡng Linh thai,
hoàn toàn dụng văn hỏa.
Dĩ nhị khí dưỡng: Hai khí là khí Tiên thiên và khí hậu thiên. Cách
dùng hai khí nầy để nuôi dưỡng Linh thai, tợ như thai nhi lúc còn
trong bụng mẹ.
Tịch chiếu tịnh tu: Là tịch chiếu kiêm dụng, Tịch là Chơn thần an
trụ nơi Tổ khiếu.
Chiếu là song mâu hồi quang phản chiếu.
Song vong nhi tịnh định: là quên hai thành phần Thần và khí.
Bất văn Hoa Nghiêm kinh ngũ thập quyển chi ngôn hồ:
Thế Tôn tùng bạch hào tướng trung phóng đại quang minh,
danh Như Lai xuất hiện.
Từ đây về sau nói về cảnh xuất định.
Tiết trên chỉ nói về dưỡng thai và thời xuất định, lại chưa nói rõ,
nên tiết này và các tiết sau sẽ nói rõ, như đức Thế Tôn phóng đại
hào quang từ giữa hai chân mày chói sáng cả không gian. Là một
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
187
bằng cớ hiển nhiên. Sự phóng đại hào quang của đức Thế Tôn có
khi thì bạch quang, có khi thì kim quang.
Còn phải cầu Chân sư dạy cho pháp thâu quang.
Nếu không thâu về thì hào quang đó sẽ bị tán trì tán, hữu hình
không được hóa thành vô hình, tánh tuy diệu mà hình không diệu.
Tịch Vô Thiền sư viết:
Thai viên tiết chí tuyết hoa phi.
Niệm động phiêu không thượng đảnh ki (cơ).
Mạc vị Như Lai khô tịch đạo.
Pháp thân xuất tịch hựu qui y.
Tiết này nói về thời xuất định.
Nếu đúng xuất mà không xuất, tức bị trệ về pháp thân, sẽ bị định
trói buộc, không được Thần thông biến thành ngàn muôn ức hóa
thân.
Thai viên tiết chí: là nói về Chân thai đã được viên mãn cực độ.
Tuyết hoa phi: là cảnh tượng của thai viên.
Khô tịch đạo: Tu Thiền mà không có một tí linh dược, không có
chỗ trụ định.
Pháp thân xuất tịch: Chơn thần xuất định trong công phu nhũ bộ
ba năm.
Qui y: Chơn thần trở về Nê hoàn cung để tịnh dưỡng.
Lăng Nghiêm kinh viết: Hình thành xuất thai, thân vi Phật tử.
Công phu ôn dưỡng mười tháng, Chân thai được hai khí từ dưỡng,
thai viên tánh định gọi là hình thành, và lo xuất thai.
Lúc này trí huệ được quảng đại, Thần thông biến hóa, nên nói:
Thân vi Phật tử.
Pháp Hoa kinh viết: Thế Tôn phóng bạch hào tướng quang,
chiếu kiến Đông phương vạn bát thiên thế giới mị bất châu
biên, hạ chí A Tỳ địa ngục, thượng chí A Ca ni yêu thiên. Nam,
Tây, Bắc phương giai hữu như thị, chiếu kiến châu biên.
A Ca ni yêu thiên: Là cõi trời sắc giới.
Tiết này nói về hiện tượng của Chân thai đã viên mãn, nên hào
quang chiếu diệu từ cõi sắc giới xuống tất cả các cõi bên dưới.
Đại Giác Kim Tiên Như Lai viết:
Tùng nhục vật trung dũng bách bửu quang. Quang trung
dũng xuất thiên diệp bửu liên, hữu Hóa Như Lai tọa bửu trung.
Kim Tiên là do đức Thế Tôn tự xưng.
Tiết này nói về cảnh tượng Chân thai đã viên mãn, tức có hào
quang bách bửu xuất từ nơi búi tóc. Trong đóa hào quang đó có một
đóa hoa sen ngàn cánh, trên hoa sen có một đấng Như Lai hóa thân.
Thế Tôn viết: Sơ thành Chánh giác, nãi nhập Long cung nhập định
thất nhật, chí nhị thất, tam thất, ư nhũ hiệp lâm. Nhập định thất thất
tứ thập cửu nhật bất thực.
Lúc mới xuất định, nên dưỡng Thần bảy ngày. Tái xuất là 14
ngày, tái xuất 21 … 49 ngày. Nhũ hiệp: Cho em bé bú sữa là ví dụ
về công phu Luyện xuất nhập Dương thần ba năm.
Nhập định 49 ngày không còn ăn, rồi sẽ không còn uống. Công
phu một thời gian nữa tánh mạng mới thuần dương.
Hoa Nghiêm Kinh viết: Pháp tánh như hư không, chư Phật ư
trung trụ.
Tánh đã như hư không, tức chẳng còn sự việc gì nữa, nên đức Lão
Tử dạy: hư kỳ tâm.
Ư trung trụ: Là an trụ nơi Huyền quan Tổ khiếu, ở thời luyện Thần
hườn hư.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
188
Lúc nầy nếu có hào quang xuất hiện, nên thâu liễm về để tàng
giấu, rồi định, lại định. Lâu ngày thì tánh quang hóa thành xá lợi,
rồi hào quang từ Long cung phát ra muôn vạn đóa hào quang, trùm
khắp cõi Thái không, rồi cùng các đấng Như Lai tương hội.
Cho nên Đại Giác Thiền Sư mới nói:
Nhất lõa xá lợi quang hoa hoa,
Chiếu tận ức vạn vô cùng kiếp.
Đại thiên thế giới tổng qui y.
Hà Trạch Thiền sư nói:
Bổn lai diện mục thị Chân như,
Xá lợi quang trung nhận đắc Cừ.
Vạn kiếp mê đầu kim thủy ngộ,
Phương tri tự tánh thị Văn Thù.
Cừ: Là vị Cao nhân. Ngộ: Hiểu được.
Văn Thù: Là Phật Tử.
Thử dĩ thượng giai ngôn xá lợi chi quá quan, dưỡng Đạo thai,
xuất định hườn hư chi diệu pháp, nhi Huệ mạng chi đạo tận tại
tư dư.
Dư bất cảm vị thử tập vi tự luận chi diệu đạo, thị giai hội túy
Tiên Thánh chi Chân truyền, tức hậu lai vạn kiếp lệ chí giả ngộ
Phật đạo, tu Huệ mạng chi căn bản, sử kiến chi giả tức tự liễu
ngộ, khế hạp Phật Tổ chi Chân chỉ, nhi thành kỷ hựu thành
nhân, tắc Phật đạo chi quả chứng hỉ.
8. NGUY HIỂM THUYẾT
Kim Tiên Chứng Luận
Hoa Dương Thiền sư nói: Có một số người học đạo lăng xăng rộn
rịp, nhưng về thành công chưa thấy một người! là do chưa đắc
Chân truyền về tánh mạng. Lại còn phân môn lập hộ, và làm nhiều
việc phi vi!
Có một số nói hiểu tánh, nhưng không được biết về Tiên Thiên
Chân tánh, mà chỉ biết thức tánh của hậu thiên.
Cho nên sự tu luyện không thành công!
* Chẳng biết về công phu tu tánh:
(Phần linh trong Ly gọi là tánh, phần khí trong Khảm gọi là mạng.
Nhưng về phần linh tấn xuất không có thời gian. Còn khí thì vốn bị
ngoại hao. Tánh với mạng không được tự hiệp, nên hằng bị sanh tử
luân hồi. Là do không biết tu trì).
* Chẳng biết đề phòng sự nguy hiểm:
(là lúc dương sinh không biết được, để thể thủ qui lư, nên bị ngoại
tẩu! Cũng như trong công phu Thiền định có pháp có thể dược,
huân chưn, phong cố, vận hành, khỉ chỉ, văn hỏa võ hỏa, tấn dương,
thối âm, tịch chiếu, v.v. đều không được nhận chân, không được
minh định, nên đã không được thành công, mà còn mang lấy tật
bịnh).
* Cho nên có nhiều người bị manh tu hạt luyện:
(chỉ vì không chịu hạ mình để cầu Chân sư trao truyền về bí quyết
tu luyện. Chẳng chịu ra công học vấn. Chánh pháp không rành.
Chân truyền không nắm vững. Nhất là không hiểu rõ về Tổ khiếu
huyền quan).
* Có người không hiểu rõ về căn nguyên tánh mạng:
(Tánh mạng Tiên Thiên thì Càn tại tâm, Khôn tại thận. Là Chân
tánh mạng bất sanh bất tử. Còn hậu thiên thì Ly tại tâm, Khảm tại
thận, nên mãi mãi bị sanh tử).
* Chánh lý chẳng minh, căn nguyên chẳng thấu:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
189
(Chánh lý là âm dương hiệp nhất, là tánh mạng phải song tu. Căn
nguyên của sự tu hành là: Chỉnh định Càn khôn, là tái tạo dinh
hoàn, là phục hồi Chân tánh mạng).
* Lầm nhập bàng môn ngoại đạo:
(là chỉ thiên chấp nhất biên, như thiên âm bỏ dương, thiên tánh bỏ
mạng …)
* Chẳng biết pháp phục qui Thái cực:
(Thần với khí, tánh với mạng, tâm với tức, âm với dương, nếu
không qui hiệp về Thái cực, tức không thể nào tồn tại, nên trong
quyển Thánh kinh hạ có chương mười bảy minh giải về cơ phục qui
Thái cực).
* Chân nguyên khí dần dần ám hao:
(sự hiển nhiên nhất là không tắt đoài thủy liêm, là cửa miệng luôn
luôn mở hoát, luôn luôn bất tuyệt thao thao. Còn đôi mắt và tâm
mãi buông theo ngoại cảnh. Lợi danh sa đắm, thất tình lục dục hằng
dấy động..).
* Chưa thấu triệt tinh vi của Chân đạo:
(chưa thấu triệt tức có sai lầm, nửa đường bỏ cuộc, khảo thí dễ
buông! …)
* Luyện kỷ chưa được thuần thục:
(luyện kỷ thuần thục mới có lòng Chí thành trong công phu tu
luyện. Chí thành còn non kém thất bại sẽ kề bên).
* Lúc công phu hay bị hôn trầm:
(Chỉ vì không hiểu rõ nguyên nhân, chẳng biết phương chỉnh lý,
nên trong thời công phu hằng bị hôn trầm, khiến cho công tu vô
hiệu).
* Lúc dương sinh bị mê muội:
(công phu tu hành quan trọng đầu tiên là chỗ này, nếu dương sinh
mà bị mê muội, tức tinh sẽ ngoại tẩu!).
* Chân khí vô chủ nên không lưu giữ được:
(có Chân ý làm chủ, mọi việc sẽ thành công).
* Chẳng biết thứ tự của đơn pháp và hỏa hầu:
(có đắc Chân truyền, mới hết nghi ngờ, mới dám dụng công. Nếu
còn ngờ vực mà dám tự chuyên, ắt sẽ thất bại, và gặp nguy hiểm).
* Chẳng biết điều dược:
(công phu điều dược có nội có ngoại, nội ngoại chẳng thông, nên
không biết chỗ điều).
* Công phu thể dược không dùng võ hỏa:
(thể dược nếu không dụng công về võ hỏa, thì dược vật chẳng qui
lư).
* Luyện dược không dùng võ hỏa:
(ví như việc nấu cơm, nếu cứ dùng lửa vi vi thì nồi cơm sẽ bị sình.
Luyện dược cũng vậy).
* Chẳng dùng văn hỏa để ôn dưỡng:
(Thí dụ như lúc nồi cơm đã cạn nước, nếu dùng hỏa lực mạnh cơm
sẽ bị cháy).
* Các loại âm ma âm quái đến quấy nhiễu:
(là do trong người còn âm khí, là nội ma quái làm nội ứng cho ma
quái bên ngoài lai xâm).
* Lúc ngủ mê, ngoại thận bất cử, mà tinh tiết:
(là lúc luyện mà dụng công về phong hỏa thiếu nên có tình trạng
này).
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
190
* Thân tâm bị lao lực:
(thân tâm quá lao động, nên bị mỏi mệt, sẽ bị chứng hôn trầm
trong giờ công phu).
* Công phu không tinh tấn, nên lửa bị lạnh:
(Chủ yếu là giữ cho lửa trong người không bị lạnh, nước không bị
dư tràn, có hại).
* Tinh bị tiết lậu, khí cũng bị tiết theo:
(đó là qui luật âm dương của vũ trụ bên trong, là tinh khí tuy hai
mà một).
* Chẳng lậu hạ, mà biến hậu thiên, chưa hề có:
(Chân khí mà không có công phu Thần tức, tự nhiên biến thành
nguyên tinh, rồi biến ra hữu hình tinh, nên kẻ phàm phu tuy không
khởi dâm niệm mà vẫn lậu, là do không có hỏa luyện).
* Thể thủ phải hiểu rành hai khí:
(thể thủ là công phu điều ngoại dược. Còn hai khí là Tiên thiên khí
và hậu thiên khí. Thể thủ nhờ có khí hậu thiên chiêu nhiếp, dược
vật mới qui lư. Nếu chỉ dùng khí Tiên thiên thì dược không qui lư,
và ngoại tẩu).
* Chẳng biết âm kiều đạo lộ:
(âm kiều đạo lộ là đường chiêu nhiếp nguyên tinh. Trương Tử
Dương bát mạch kinh có chép: âm kiều nhất mạch, chư Thánh bí
chỉ, Cao nhân tàng chi, nãi Tiên Phật thể dược chi sở)
* Sau khi qui lư, không biết hồi phong hỗn hợp:
(hồi phong là hồi triền hô hấp, để nghịch xuy).
* Chẳng biết pháp hà luyện:
(pháp hà luyện cũng là pháp hồi phong. Có hồi phong, Thần khí
trong lư mới tự hỗn hợp làm một, nên Xung Hư Tổ sư mới nói:
Thần tuy chủ tể khí, lúc chưa biết khí đã chịu chủ tể chưa, thì phải
hồi phong để hỗn hợp).
* Chẳng hiểu nguyên tinh và âm tinh:
(nguyên tinh do nguyên khí sinh, và do Chân động mà có. Còn âm
tinh loại tinh do ẩm thực. Loại tinh nầy hằng tác quái, phải mượn
Thần khí hai hỏa hiệp lại thành Chân hỏa. Còn trong lư phải cổ
động Tốn phong để luyện hóa loại tinh này. Sổ Vân Tiên sinh có
nói: dụng Đơn điền tự nhiên hô hấp luyện chỉ. Nếu không đắc bí
quyết nầy, thì tinh không hóa).
* Dương chi tiệm phục, đốn nhiên hựu sanh, danh tuy điều dược,
thực bất tri điều pháp:
(điều pháp là cổ động Tốn phong).
* Tham lam chấp nhận lấy cái vui:
(cái vui ở Lạc tại kỳ trung, khác xa với cái vui của phàm phu tục
tử như dâm lạc, là nguy cơ của tánh mạng, chỉ vì si mê không biết
nên mới thích dâm lạc!)
* Nội thất kỳ chiếu:
(chiếu thuộc động, tịch thuộc tịnh. Công phu tu hành nếu chỉ chấp
một thì bị thất bại).
* Chân khí hành mà không có Chân tức thôi bức:
(như vậy Chân khí không trực khứ, không đáo xứ).
* Chẳng biết cơ hạp tịch:
(cơ hạp tịch là Thiên cơ vô cùng nhiệm mầu của Đại đạo, phải cầu
Chân sư mới đắc).
* Chân tức tuy ứng nhưng độ số bất hiệp:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
191
(nếu bị sai lầm nầy thì đơn không kết, là do công phu không đúng
số tức Châu thiên).
* Công phu không đúng Châu thiên độ số:
(Châu thiên độ số: 384 châu. Tí thời 180, Ngọ thời 120, Mẹo thời
36+12, Dậu thời 24+12)
* Lúc bình thường vô sự, bị mất huân chưn:
(suốt ngày đêm lo huân chưn cho âm hóa dương, cho dương được
thuần dương. Nếu thất huân chưn âm khí sẽ phục sinh).
* Chẳng hiểu rõ về cơ động tịnh:
(cơ động tịnh có chân có giả, có nội có ngoại).
9. KHÁI NIỆM VỀ TÂM PHÁP
Con người sống trong thế giới đối đãi nhị nguyên sanh tử, bị mắc
nhiều chứng bệnh về tâm cũng như về thân, nên mãi đắm chìm nơi
biển khổ.
Thánh nhân vì lòng thương đời, nên từ vạn cổ xa xưa đã lập nên
nền tâm pháp, hầu để chữa trị về tâm bệnh của con người hầu tạo
nên lớp người có đạo đức tuyệt vời, và giúp người tu đoạt cơ Liễu
tử siêu sanh.
Tâm pháp ví như nhà thuốc Tiên đơn dược phòng, có thuốc linh
đơn là Thần khí tinh, có đại lương y là bác sĩ Chân tri.
Nay nhằm thời Cực bỉ hạ nguyên, sắp bước qua đời Cực thái
Thánh đức thượng nguyên, đức Thái Cực Thánh Hoàng mới hội
công đồng Tam giáo, lập ra tam giáo tòa, khai minh nền ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ, tá danh CAO ĐÀI, tại miền nam nước VIỆT
NAM vào năm Giáp tí 1924.
Về phương lập giáo nhằm hai chủ đích:
Chủ đích thứ nhất: Tiểu thừa quyền biến đa phương. Sứ mệnh về
chủ đích này, do chư Phật chư Tiên và bốn ức Nguyên nhân, lo về
cơ giác mê khải ngộ, độ người lánh dữ về lành, cải tà qui chánh,
nhằm thoát đại nạn của thời hạo kiếp.
Chủ đích thứ hai: Thượng thừa dụng công Nhất quán.
Nhất quán là phục qui Thái cực. Vô cực mệnh danh là Càn đạo,
Thiên đạo, Trung thiên đạo với chủ trương: Cướp máy Thiên cơ,
đoạt quyền Tạo hóa, chỉnh định Càn Khôn, tái tạo dinh hoàn.
Nói tóm lại là phục hồi Tiên thiên nhân bản bất sanh bất tử của con
người hậu thiên.
10. CÔNG PHU HỌC VẤN
Tu phải học, nếu tu mà không học là tu mù, nếu học lầm tà giáo lại
càng mù thêm, nếu học mà không tu là kẻ giả tu.
Công phu học vấn phải theo những điều trọng yếu sau đây:
Thứ nhất là đặt trọn lòng Chí thành vào công phu học vấn. Nếu vì
danh vì lợi mà học, vì bản ngã tư dục mà học … đều không phải là
sự học chân chánh. Cổ nhân có nói: Nhơn dục tịnh tận. Thiên lý lưu
hành: là lòng dục của con người được sạch sẽ, thì hiểu rõ được lẽ
Trời.
Nếu lòng còn một hào li giả dối, tức còn một hào li vô minh che
khuất Lương tri, Lương năng, gây cho công phu học vấn khó thành
viên mãn, làm trở ngại cho công phu Thiền định.
Thứ hai là phải học cho đến nơi đến chốn. Chớ nên dấy sinh bệnh
tự, là học chưa thành mà đã tự vỗ ngực xưng thầy, khác nào kẻ si
dắt người mê. Hãy dốc trọn tâm chí vào công phu học vấn, hãy
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
192
tranh thủ từng tấc thời gian, hãy say hãy mê vào việc học. Tinh thần
học vấn được như vậy mới mong có thể thành công.
Học cho đến nơi đến chốn là Chân tri.
Thứ ba phải học cho đúng loại Chân kinh, Chân thư. Các loại kinh
thư nầy, nội dung hoàn toàn đúng với Chánh lý âm dương Tánh
mạng song tu, như lời thoán truyền của quẻ Bát Thuần Càn đã
nói: … Càn đạo biến hóa, các chánh tánh mạng.
Trên phương diện Tâm truyền, chớ nên học các loại kinh thư với
nội dung thiên chấp, là chỉ luận về tâm về tánh mà không luận về
khí về mạng. Lữ Tổ có nói: Tri tánh nhi bất tri mạng, thử thị tu
hành đệ nhất bệnh. Chỉ tu Tổ tánh nhi bất tu đơn, vạn kiếp âm linh
nan nhập Thánh. Âm linh là tâm âm Ly hỏa hậu thiên sanh tử. Cõi
Thánh là Tâm Thuần Càn Tiên thiên bất sanh bất tử.
Thế giới ngày nay có vô số kinh sách, nhưng đa phần về nội dung
đều mang đặc tính cô thiên, là thiên chấp nhất biên, là những loại
kinh nội dung không nhằm Chánh lý.
Có những loại kinh sách không nhằm chủ đích phá mê, lại gây cho
người tu thêm mê, như vậy làm sao thoát được biển mê để lên cõi
Giác.
Có những loại kinh thư, văn từ thật mỹ ngôn quyến ngữ, nhưng
tựu trung không có chỗ nào đem ra dụng công được.
Có những loại kinh sách, nội dung toàn thuộc hoang đường, hay
sách ẩn hành quái, khiến cho người tu càng thêm chìm sâu vào biển
mê, vào nẻo bàng môn ngoại đạo, mê tín dị đoan.
Có những loại kinh thư, nhằm phục vụ cho chủ nghĩa cá nhân, cho
chi cho phái, cho quyền lợi, cho địa vị tư riêng.
Có những loại kinh sách vô đầu vô vỹ, điên đảo luận đề, trái
ngược Chánh lý, làm cho người tu hành không tìm ra chủ đích tu
hành.
Có những loại kinh thư, nội dung mang nặng chủ nghĩa độc tôn,
khiến cho đèn Chân lý lu mờ, làm trò cười cho bậc Trí đạo.
Không thể nào nói hết những loại kinh sách có nội dung phi
Chánh lý ra đây. Chư huynh đệ tỉ muội hãy đặt trọn lòng Chí thành
học vấn lên cao độ, chọn lựa cho thật đúng đắn về Chân kinh Chân
thư, với nội dung hoàn toàn đúng với Chánh lý âm dương, với Càn
đạo biến hóa, các Chánh tánh mạng, tức không bị uổng phí trên con
đường tu học.
Thứ tư là công phu học vấn phải có trình tự minh bạch, ví như các
trường Phổ thông ngoài đời, chương trình cấp một, cấp hai, cấp
ba … không thể nào có sự lộn xộn.
Tiếc rằng nền Đại Đạo chưa lập được Chủng viện hay Thiên đạo
học đường, có Giảng sư là Tiến sĩ CAO ĐÀI, đào tạo Giáo sĩ, hầu
được chánh danh là nền Chân đạo của dân tộc Việt Nam chúng ta
về phương diện công truyền.
Công truyền được định vị, mới có phương hỗ trợ Tâm truyền đúng
với sứ mệnh kỳ ba, là Tam kỳ Pháp hội sáu mươi năm mới có một
lần.
Chương trình của trường đào tạo Giáo sĩ Cao Đài do các vị Tiến sĩ
đảm trách theo nội dung:
- Lấy Nho giáo làm nền tảng.
- Lấy Dịch học Trung thiên làm kim chỉ nam.
- Lấy Đại học Trung dung để phụ giải Tâm truyền.
- Lấy Luận ngữ, Mạnh Tử để giải thích về cơ xử thế.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
193
- Lấy Ngũ kinh để bồi bổ kiến thức.
Các tôn giáo cũng là một môn trong chương trình đào tạo, sứ
mệnh cai quản của hàng lãnh đạo nhằm quản lý mọi tổ chức, mọi
cấp, mọi ngành, mọi họ đạo, mọi gia đạo.
Quan trọng là cai quản từng mọi thành phần, cá nhân, từ dưới lên
trên, sao cho tương xứng với chủ đích của cơ lập giáo Tam kỳ. Có
nghĩa là cai quản như thế nào: Chức sắc cho ra chức sắc, Tín đồ cho
ra Tín đồ. Sứ mệnh cai quản rất là nặng nề.
Còn hai sứ mệnh là: Đại đạo công truyền.
Đại đạo tâm truyền.
Thứ năm: Những người đã thực thụ quy y về Tâm truyền, phải
lánh xa nẻo lợi danh, hãy lánh xa thế giới đối đãi nhị nguyên, hãy
quyết tâm lánh tục tầm Tiên.
Thứ sáu: vừa luyện kỷ tu tâm, vừa dốc công học vấn. Cả hai công
phu đều dốc trọn lòng Chí thành, tất sẽ sớm được nên công.
Thứ bảy: Phải thực hiện đúng năm trình tự học vấn của Nho giáo:
Bác học, Thâm vấn, Minh biện, Thân tư, Đốc hành.
- Bác học: là học cho cùng, cho đến tận chỗ thâm vi, cao tột.
Có những vị Tổ đã học đến hàng vạn quyển Đơn kinh.
- Thâm vấn: là suy xét những gì đã học cho đến cùng lý. Chỗ
nào không hiểu, nên hỏi hàng Trí đạo.
- Minh biện: Đây là bước đường hơi khó, là học làm sao, hiểu
làm sao, cho đúng với Chân ý của các bậc Thánh nhân.
Cũng như biết được chỗ đúng, chỗ sai của sách vở.
- Thân tư: Chọn một chỗ thanh tịnh, không có người thứ hai
tham dự, rồi đem những gì đã học ra quán tưởng cho đến tận
chỗ thâm vi bí áo.
- Đốc hành: là bước cuối cùng của năm trình tu học vấn, và
cũng là phần quyết định cho sự thành công là: Tri hành hiệp
nhứt.
11. CHỈNH LÝ HÔN TRẦM
Chỉnh lý hôn trầm là điều rất cần thiết, chẳng chỉ để phụng sự cho
công phu Thiền định, mà còn để trợ lực cho dưỡng sinh hữu hiệu.
Sự hôn trầm vốn có nguyên nhân, đa phần do ta tự tạo. Chỉnh lý
cũng do ta tự chỉnh.
Sau đây là 24 phương pháp chỉnh lý 24 nguyên nhân hôn trầm:
1. Thân tâm lao lực. Lao lực là mệt mỏi. Lao lực nơi tâm, là do tâm
đã trải qua một trận chiến vì danh vì lợi, vì thị phi ân oán, vì tà
chánh giả chân, vì lạc sâu vào thế giới đối đãi nhị nguyên, vì tâm
quá động, vì lửa lòng bừng cháy, vì phần âm của Tâm Ly hỏa hậu
thiên tăng cao độ.
Nói tóm lại là do cơ vọng động tạo cho trái tim đập nhanh đập
mạnh, khiến ảnh hưởng đến tâm vô hình quá hồi hộp, quá sợ hãi,
đều gây ra hiện tượng lao lục cho tâm hồn.
Còn thân lao lực là dùng quá sức lao động chân tay, khiến cho
thân thể mỏi mệt.
Chỉnh lý hôn trầm lao lực, đơn giản là dùng pháp Tọa thiền tịch
chiếu và vận vài mươi lượt Châu thiên.
Thân tâm quá lao lực có thể trở thành chứng bệnh lao, tuổi thọ sẽ
bị giảm thiểu, hay gây ra tật bệnh.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
194
Cuộc sống của con người nếu quá hệ thuộc vào hậu thiên, bám
chặt vào cơ biến hóa âm dương dinh hư tiêu trưởng, tấn thối tồn
vong, sanh sanh tử tử, là nguyên nhân gây cho tâm lao lực.
Chỉnh lý tình trạng nầy, là đứng ngoài Càn khôn vũ trụ hậu thiên,
là thoát ra ngoài Thiên la địa võng.
Chỉnh lý tâm lao lực, là làm cho tâm an tịnh cho tâm hằng an lạc.
Cao tột là Lạc tại kỳ trung.
Có thể nói: hễ kẻ nào đã tạo ra một tội các lớn, tức sẽ có nhiều
chứng bệnh nguy hiểm phát sinh nơi cơ thân. Còn làm tội ác nhỏ,
thì sẽ có một thường bệnh sinh.
Nếu kiếp này trả quả bằng bệnh tật, bằng tai họa chưa đủ số đã
vay, thì kiếp sau phải trả.
Cũng như những kẻ đã gây sự phiền não cho những người khác,
thì sẽ trả lại bằng phiền não.
Chỉnh lý các loại bệnh trong người, không có phương pháp nào
bằng phương pháp Lập công đức cứu đời nguy.
Cứu đời nguy bằng thí tài, thí thân, thí pháp.
Chỉ có thí pháp mới là công đức vô lượng vô biên.
Có nhiều cách thí pháp: Thí pháp bằng giác mê khải ngộ, bằng
khuyên người cải tà qui chánh, cải ác tùng thiện, bằng in ấn các loại
Chân kinh Chân thư, biếu tặng cho những người tu hành, bằng ra
công dịch giảng các loại Chân kinh Chân thư.
Có một điều nên tránh: Chớ nên đem bức màn vô minh che mắt
người tu hành, là tội rất lớn.
Luôn luôn thực hành: âm thực hữu tiết, khí cư hữu thời, điềm đạm
hư vô, thanh khí tùng chi, tinh thần nội thủ, bệnh an tùng lai. Và:
Bế tình, dưỡng khí, tồn Thần, thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện
hình.
3. Luyện kỷ chưa thuần thục:
Luyện kỷ nơi Kim Tiên Chứng luận của Tiên gia. Khắc kỷ nơi
kinh Dịch của Nho gia. Cả hai, về nội dung đều thuyết minh rõ ràng
có đăng nơi chương ba Sơ thiền Luyện kỷ trúc cơ, trong Thánh kinh
quyển hạ, nên ở đây không cần nói thêm. Mà chỉ nêu lên mấy câu
gợi ý:
- Luyện tâm thuần thục, nhờ công phu vận Châu thiên và
mộc dục.
- Chiết Khảm điền Ly để Chánh lấy tâm.
- Lấy hống đầu diên, đem diên hiệp hống.
4. Chánh lý âm dương chưa suốt thông.
Chánh lý âm dương, Tánh mạng song tu là đèn Chân Lý của nền
Đại đạo.
Chánh lý chưa thuần thục, nên nghi bệnh chưa giải được, khiến
cho hỏa lực bị suy kém, không đủ công lực thuần dương, nên gây
chứng hôn trầm.
Chân đạo chưa minh, Chân pháp chưa rành. Tánh mạng chưa định,
Thần khí tán loạn, Dịch lý chưa thông, lửa nơi Tâm khô táo, nước
biển khổ ngập tràn, nên tâm thần còn hôn ám.
Trong quyển Kim Tiên có bài: Đệ nhất yếu khắc kỳ khử tự, tiêm
hào vụ tận, sở vị tổn, chi hựu tổn, nhất chí ư vô.
Thân vị thuần dương, tâm dĩ thuần dương.
Thần chơn vị phản, Thiên chân dị phản.
Tại dục vô dục, cư trần xuất trần.
Xứ xứ bồi thổ sinh kim, thời thời thiêm diên ích hống. Tự nhiên
Chân sư ám trung điểm đầu, nhi nhất đến hoát nhiên quán thông.
5. Thực phục vật phẩm trọng trược.
Loại thực phẩm cá thịt, tạo ra đàm khí, là loại khí trọng trược nhất,
nếu không nhờ Chân sư chỉ truyền pháp hỏa hóa, tức loại khí nầy sẽ
gây ra nhiều tại họa cho thân tâm.
Còn các loại thực phẩm về ngũ cốc, về thảo mộc, thì tạo ra âm khí.
Chì dùng pháp Mộc dục, tất âm khí sẽ hóa thành dương khí, rồi hóa
thành thuần dương khí.
Cả hai loại khí trên đều gây ra chứng hôn trầm, Chỉnh lý hiện
tượng nầy bằng pháp Mộc dục và vô úy thí.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
195
Tu sĩ nên dùng pháp: Lục Tự Di Đà vô biệt niệm tức là thường
xuyên dụng công tịch chiếu.
6. Tính hay buồn ngủ: còn buồn ngủ, mà nhất là giờ công phu bị
buồn ngủ, tức sẽ có hôn trầm.
Sở dĩ người còn buồn ngủ, là do trong người còn âm khí. Nếu âm
khí nhiều hơn dương khí, thì giấc ngủ bị mê. Nếu dương khí nhiều
hơn âm khí, thì giấc ngủ tỉnh.
Con người phàm phu người nào cũng phải ngủ, nếu không ngủ sẽ
sanh bệnh tật. Chỉ có các bậc Chân nhân đã không ngủ, lại không bị
bệnh tật gì cả.
Chỉnh lý bệnh này phải dùng pháp tịch chiếu.
7. Cơ thể diễn biến theo thời tiết:
Cơ thể bị diễn biến theo thời tiết, là do con người khí huyết bị suy
nhược. Càng suy nhược thì cơ thể càng bị diễn biến, có khi bị đau
ốm.
Lúc ngồi Thiền, hay có lúc kéo dài năm bảy ngày, nếu gặp tình
trạng nầy, nhất định bị hôn trầm. Cho nên đức Lão Tử mới dạy:
Cần phải thường xuyên tắt đoài thùy liêm.
Sở dĩ bị suy nhược, là do không biết pháp dưỡng sinh. Lại vì si mê
nên phung phí sức khỏe. Nhất là thời trẻ trung vung phí tinh khí quá
độ. Thần cũng vì đó mà tán hao!
Linh đơn càng tiêu tán thì Thần khí càng bạc nhược, sức khỏe
càng kém sút, sắc mặt bầm đen, không hồng hào tươi tắn!
Còn những kẻ quá bôn tẩu theo nẻo lợi đường danh, đắm sa tửu
sắc khí tài, nên bị Cổ nhân liệt và hạng tù nhân. Có bài thi:
Tửu sắc khí tài tứ đổ tường.
Đa thiểu hiền ngu tại nội sương (tù)
Nhược hữu thế nhân khiêu đắc xuất,
Tiên thị Thần Tiên bất tử phương.
Sức khỏe bị suy nhược, phải bồi dưỡng bằng thuốc bằng ăn uống,
có chất bổ, bằng luyện theo phương pháp dưỡng sinh, bằng thanh
tịnh thân tâm.
8. Thụ nhiễm các loại tử khí:
Tử khí là khí trong thi hài của con người, của các loại cầm thú tiết
ra, thụ nhiễm vào người.
Các loại thi hài đều có trược khí hay độc khí.
Loại thi hài nào lúc sống ăn loài sinh động vật, lúc chết nếu để lâu
ngày càng hôi thúi càng độc.
Loại thì hài nào lúc sống ăn toàn thảo mộc, lúc chết dù lâu ngày
cũng ít hôi thúi, ít độc hơn loại thi hài trên.
Nếu bị nhiễm phải loại khí của thi hài quá hôi thúi quá trược đọc,
chẳng những bị hôn trầm, mà còn sinh ra bệnh tật.
Chỉnh lý hiện tượng nầy bằng phương pháp xả độ, do hô hấp thật
sâu nhiều lần, và dùng pháp vô úy thỉ.
9. Chưa biết phương phục hồi tỉnh táo:
Nhất là vào giờ Tý, ta đã trải qua ba giờ ngủ dài, thân tâm gần như
còn gởi trong trầm mộng. Chỉ có các bậc Chân nhân mới vô mộng.
Nếu khi thức dậy mà tọa thiền liền, tức dễ bị hôn trầm. Lúc thức
dậy phải làm việc vệ sinh, rồi tập Dịch cân kinh độ 5 phút, tiếp đến
là càn dục diện là cổ vũ càn cung cùng ta tỉnh táo, rồi mới vào ngồi
thiền.
10. Tọa thiền nơi có nhiều âm khí trọng trược:
Cần phải chọn nơi có nhiều không khí trong lành, cần ngồi trên
gác cao càng tốt.
Nơi nào có nhiều âm khí trọng trược, không có Chánh thần cư
ngụ, mà toàn âm ma cư ngụ, nên tránh.
11. Quên nới dây thắt lưng:
Ngồi thiền phải tạo cho thân tâm thơ sướng là tâm vô niệm, khí
huyết lưu thông. Nên dây thắt lưng còn buộc chặt, tức khí huyết
không được lưu thông. Thần vì đó cũng giảm phần thơ sướng.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
196
Chỉnh lý hiện tượng nầy, là điều thân điều tức, rồi điều tâm, mới
vào ngồi thiền.
12. Không có tọa cụ tốt:
Cũng như hiện tượng nơi điều 11 trên.
Tọa cụ là vật để ngồi Thiền.
Tọa cụ vuông vức chừng 9 tấc tây, dày 5 phân độn bằng các loại
cỏ thơm hay ngại diệp.
Nếu ngồi Thiền trên một vật quá cứng, tức dễ bị hôn trầm.
13. Khí lực bị tiêu hao:
Thánh nhân dạy người tu phải hi ngôn quả dục. Cũng như đức Lão
Tử dạy: Tắt đoài thủy liêm.
Nói nhiều hay tụng tán nhiều, hay nặng về tư dục, hay thường sân
hận, đều bị tiêu hao khí lực. Khí lực bị tiêu hao, thì Thần bị hôn ám
dễ bị hôn trầm.
14. Thần lực bị tiêu hao:
Con mắt trông ra mà tâm động thì Thần bị hao tán, và là tiên
phong cho ngũ tặc.
Con mắt trông vào thì nên bậc đại công Thần.
Thần bị tiêu hao có nhiều nguyên nhân như đắm sa vào nẻo lợi
đường danh, như lục dục thất tình thường phát động, như mải mê
theo tửu sắc khí tài, như hằng tư lự vọng tưởng, như lạc sâu vào thế
giới hậu thiên sanh tử.
Đức Lão Tử có dạy: Thâu thị.
15. Thính lực bị tiêu hao:
Thính lực bị tiêu hảo là do phần thính giác của đôi tai bị suy kém,
vì hai nguyên nhân: Tai hằng nghe những âm thanh bên ngoài mà
tâm hằng động theo. Tinh lực bị phung phí, khiến nên nội thận suy
kém.
Cả hai hiện tượng đều làm cho Linh đơn trong người bị tiêu hao,
hiệu năng của công phu Thiền định sẽ bị suy giảm, nên lúc ngồi
Thiền dễ gây ra chứng hôn trầm, thỉnh thoảng nơi đôi tai nổi lên còi
báo động, gây cho phần não bộ bất an.
16. Thị lực bị tiêu hao:
Có nhiều nguyên nhân khiến cho thị lực bị tiêu hao thị giác bị
giảm thiểu, Thần quang không phát huy. Cơ cảm hóa tha tâm có lúc
không còn hiệu lực, là do phần tinh khí bị hao tán, do không dụng
công về tắt đài thùy liêm, do nội ngoại tam bửu đề không thâu thủ.
Chỉnh lý hiện tượng thị lực bị tiêu hao, theo lời dạy của đức Lão
Tử: là thâu thị. Cũng như ngoại thị mà tâm bất động, tâm mục
thường cư sở tại.
17. Uống lầm thuốc mê:
Thuốc có đặc tính gây mê, nếu uống lầm, tâm thần sẽ bị hôn me,
và tạo chứng hôn trầm.
Chỉnh lý hiện tượng nầy bằng phương pháp vô úy thí, bằng dùng
phương xả độc khí.
18. Một trong lục dục thất tình trọng phát:
Huyền Cơ Thiền sư có bài:
Thập tam ma khuyên đừng lấp lửng.
Gươm huệ mài trừ nó mới an.
Giảng cho thông tứ cú Kim cang.
Thì mới thấy Bổn lai diện mục.
Tứ cú Kim Cang là: Không tâm, không thân, không tánh và không
pháp.
19. Sức khỏe kém, thiếu bồi dưỡng:
Chỉnh lý hiện tượng này bằng:
- Ăn uống loại thực phẩm có nhiều chất bổ và thường uống
thuốc bổ.
- Luyện khí công y đạo, hay Dịch cân kinh.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
197
- Luyện kỷ thường trực.
- Luyện tâm thung dung tự tại.
20. Hút thuốc lá, uống rượu mạnh:
Thuốc lá tạo ô nhiễm môi trường nơi cơ thần, gây cho phần khí bị
trọng trược, gây cho Thần bị cảm theo ma túy, gây cho sức khỏe bị
giảm thiểu, gây cho phần tam bửu kém linh diệu.
Còn rượu mạnh gần như độc dược.
Chỉnh lý hiện tượng nầy bằng phương pháp vô úy thí, bằng cách
xả độc khí.
21. Người cơ thể âm trược:
Có người do kiếp trước làm nhiều việc ám muội, kiếp này cơ thể
lại thiếp thu nhiều âm trược, như thực phẩm, như trược khí.
Có người hiện kiếp gây nhiều sự ám muội. Lại hằng kết giao với
nhiều kẻ tiểu nhân.
Người có cơ thể trọng trược, lúc ngủ tuy có chiêm bao, nhưng khi
thức không còn nhớ gì cả.
Chỉnh lý bằng dùng phương pháp dùng Chân hỏa lập trận hỏa
công chiến thắng âm ma.
22. Tim, gan, mắt bị bệnh:
Ba bộ phận nầy Thần thường vãng lai. Nếu ba bộ phận này bị hư,
Thần nương vào đó cũng bị họa lây, do đó nên phát sinh chứng hôn
trầm.
Chỉnh lý hiện tượng nầy phải dùng thuốc chữa trị, không được ăn
uống những loại thực phẩm gây bệnh cho ba bộ phận nầy.
Tuyệt đối không được nổi cơn sân hận, không được gây cho tim
sự xúc động, hoặc lao tâm, hay lao lực.
Giảm thiểu phần nhãn thị ngoại động.
Thường xuyên dùng pháp mộc dục.
23. Trước giờ Thiền, tâm hồn bị xúc động: Tâm thần xúc động
mạnh tức bị hôn trầm.
Chỉnh lý bằng cách ngồi tịch chiếu và vận vài mươi Châu thiên độ
mười phút, tự nhiên tâm thân sẽ được ổn định lại.
24. Dâm tâm còn, dâm căn nặng:
Cả hai loại này đều làm cho tâm thần bị hôn ám, nên bị hôn trầm.
Chỉnh lý bằng tịch chiếu lâu ngày, thì hai chứng bệnh trên sẽ được
dần dần giảm thiểu.
12. CHỮA TRỊ BỆNH DO THIỀN
1. Chứng đầu căn:
Thường do tình cảm khẩn trương, tu hành dục tốc. Chữa bằng
cách dùng tư tưởng tống nhiệt ra ngoài, mỗi ngày độ ba lần, mỗi lần
độ mười lượt.
Lúc xả khí, dùng mũi hít vào ba lần, xả ra một lần, mỗi ngày làm
độ 36 lần.
Ngồi thẳng, hai chân duỗi ra trước, đầu gối thẳng, các ngón chân
hướng lên, gót tỳ đất, hai tay đặt trên hai đầu gối, hai mắt nhìn
thẳng ngón chân cái chừng hai phút, mỗi ngày làm một lần.
2. Chứng nhức đầu:
Nguyên nhân như trên. Cũng dùng phép thối hỏa như trước.
Rồi dùng pháp “thu cước”: nằm ngửa, nhắm mắt, chú ý ở hai ngón
chân cái, hoặc lúc ngó bên ngón chân trái, rồi phải, rồi trái, độ vài
phút.
Động công phách đầu pháp: dùng hai lòng bàn tay ấn lên trên đầu,
độ vài phút.
Cách thứ hai: bàn tay phải đặt trước trán, tay trái đặt sau gáy, vài
phút. Sau đó hai tay xoa vào cổ độ 5 lần.
Ma ngạnh pháp: hai tay nắm lại, đầu ngón cái nằm trong, dùng đốt
xương hai ngón cái cọ xát vào huyệt Thái dương độ năm lần.
3. Tức ngực, đau ngực:
Là do bế tức khẩn, có thể dùng Hô tự quyết: miệng hô mũi hấp.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
198
Ma hung hạ khí: hai tay chồng lên nhau rồi đặt trên vòng ngực,
xoa nhẹ nhẹ từ phải sang trái theo kim đồng hồ độ 20 lần đến 36
lần. Sau đó mũi hít miệng thở độ sáu lần.
4. Hai hông sườn đau:
Cũng do hô hấp sai.
Cũng dùng phương pháp phóng khí.
5. Bụng đau ê ẩm:
Cũng do hô hấp không đúng.
Dùng hô tự quyết: miệng hô mũi hấp.
Ma phúc: hai tay chồng lên nhau, đặt lên bụng, bàn tay trái xoay
quanh rún từ phải lên, bàn tay phải đưa xuống thành vòng nhỏ, độ
12 lần.
Án ma túc tam lý: lấy hai đầu ngón tay cái ấn xoa huyệt Túc tam
lý 36 lần.
6. Tâm hồi hộp:
Do hô hấp quá mạnh, hoặc do nằm nghiêng bên trái.
Có thể dùng cách phóng khí, hoặc nằm nghiêng bên phải.
Có thể dùng Chân ý tại Dũng tuyền, hay huyệt Trung xung. Tay
ấn xoa Thần môn, Nội quan, Dũng tuyền.
Án ma huyệt Thần môn, Nội quan: bàn tay phải để ngửa, lấy đầu
ngón tay cái xoa huyệt Thần môn (tại chỗ lõm gần cổ tay về mé
ngón áp út) 36 lần, mỗi ngón cái 36 lần.
Xoa huyệt Nội quan (trên đầu ngấn cổ tay, cách ngấn cổ tay hai
ngón tay, giữa hai phân) tay trái, tay phải đều 36 lần.
7. Chứng mỏi lưng:
Tọa thiền không đúng phương pháp.
Dùng hai tay xoa eo, vỗ eo lưng.
Xoa eo lưng: hai bàn tay xoa cho thật nóng, từ hông xuống chỗ
mềm. Tay bên nầy vuốt lên, tay bên kia vuốt xuống, mỗi bên độ 24
lần.
Vỗ eo lưng: đứng thẳng, hai bàn chân dang ra tự nhiên, hai tay
thòng xuống, xoay động eo, đồng thời lấy tay trái vỗ trước eo bên
phải, lưng bàn tay phải vồ eo bên trái, vỗ liên tục độ 20 lần.
8. Cảm thống ớn lạnh:
---oOo---
NỮ CÔNG TU LUYỆN
Tiêu Dương Kinh
Thái âm luyện hình cùng với công pháp tu luyện của hàng nam tử
vốn Đại đồng Tiểu dị.
Nữ tu, lúc sơ công hạ thủ là bế mục tồn Thần, tâm thần phải đạt
đến trạng thái tận hư không, khiến cho tâm được tịnh, tức được
điều, rồi ngưng Thần nhập khí huyệt (tại lưỡng nhũ gian, tâm oa
thượng), hai tay giao tréo lại, bổng nhũ khinh khinh, xoa bóp 360
lần, đoạn thâu lấy nguyên khí từ nơi Hạ đơn điền với sự tưởng
tượng, dùng miệng hút nhẹ nhẹ 24 lần. Còn hai tay vẫn luôn luôn
bổng nhũ. Song mâu hằng phản chiếu và hằng điều tức.
Công phu như vậy, lâu ngày tự nhiên Chân khí sẽ được vãng lai,
một mở một đóng, nuôi dưỡng thành Cốc thần.
Lúc Thần khí đã được sung túc, thì khí Chân dương sẽ được tự
vượng, kinh thủy sẽ được tự tuyệt, lưỡng nhũ như nam tử, gọi là đã
trảm xích long.
Cứ như vậy mà hành trì cho lâu ngày. Sau đó không cần bổng nhũ
và hấp khí nữa, mà chỉ ngưng Thần tại khí huyệt, hồi quang phản
chiếu về cửa Huyền tẩn. Chân tức phải miên miên, Chơn thần phải
hư cực tịnh đốc, dương khí được huân chưn, hà xa được vận chuyển
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
199
muôn đóa mây tía phủ ngập , tợ như vầng Ngọc vũ, ngàn tia bạch
mai soi thấu Nê hoàn. Tự hiểu rằng: có một điểm Linh quang không
trong không ngoài, từ Hạ điền thăng lên Giáng cung, lên Nê hoàn
rồi xuống Trùng lầu rồi lui về kim thai Thần thất. Lúc này phải hồi
quang, phải ngưng Thần. Chân tức thì nương theo Trung cung đảnh
nội, đó là Thần nhập thất, đó là Huyền tẩn, đó là Thai tiên. Hiện có
một điểm rơi xuống Huỳnh đình.
Còn về sau mười tháng công phu, Dương thần xuất hiện, phân hóa
thành hư không, một đường chân tu, cùng nam tử đồng, không còn
riêng biệt bỉ thử nữa.
---oOo---
BÍ MẬT HUYỀN CƠ
1. THÁI CỰC
- Thái cực là gì?
- Cốc thần là gì?
- Cốc thần ở đâu?
- Lúc nào có Cốc thần.
- Lúc nào không có Cốc thần?
- Đại đạo là gì?
- Cao Đài là gì?
- Tại sao gọi Tam giáo quy nguyên, ngũ chi phục nhất, là lý phục
quy Thái Cực?
- Làm thế nào cho Cốc thần bất tử?
- Làm sao cho Nhâm đốc nối liền? cho Khảm Ly Diên Hống, cho
Càn Khôn … giao cấu?
- Âm dương hiệp nhất là gì?
- Làm thế nào có được trạng thái Thái cực?
2. Cửa Tiên thiên lo mở hoát, mở hoát bằng cách nào?
3. Văn hỏa, võ hỏa – Văn thần, võ thần?
- Văn khí, võ khí.
- Văn võ ứng dụng vào đâu? Lúc nào đơn dụng, lúc nào kiêm dụng?
- Lứa tuổi nào không được dụng võ? Vì sao?
- Cách dụng võ thể dược như thế nào?
- Sao gọi văn huân võ luyện? Luyện cái gì, huân cái gì?
4. Hồi phong bằng cách nào? Sao gọi hồi phong hỗ hợp? Chủ đích
của hồi phong?
5. Tịch chiếu: Tịch bằng cách nào?
Chiếu bằng cách nào?
- Chủ đích của Tịch chiếu?
- Tịch chiếu và mộc dục khác nhau chỗ nào?
- Tại sao chiếu rồi mới tịch?
- Tại sao tịch rồi mới chiếu?
- Tịch nơi nào? Chiếu ở đâu?
6. Sao gọi Chân tịnh Chân động? Chân thời, Chân cơ
- Chân dược, Chân khỉ? Chơn thần?
- Chân diên, Chân hống?
- Chân long, Chân hổ, Chân hỏa, Chân thủy?
- Sao gọi là diên? Là hống? là nội dược, ngoại dược?
- Tại sao trước phải dẫn hống đầu diên?
- Hống diên hiệp nhất tên gọi là gì?
- Làm cách nào để hống đầu diên?
- Để diên giao hống? – chủ đích?
8. Sao gọi luyện tinh bổ tinh?
- Luyện khí bổ khí?
- Luyện Thần bổ Thần?
- Có mấy loại tinh? Có mấy loại khí? Có mấy loại Thần?
- Làm thế nào cho ba báu hiệp nhất? ba báu hiệp nhất tên là gì?
9. Chiết Khảm điền Ly bằng cách nào?
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
200
- Chủ đích?
10. Làm thế nào để chính thức Chánh tâm?
11. Sao gọi Chân tức? phàm tức?
- Vi vi tức?
- Tiêu tức?
- Thai tức?
12. Sao gọi khí Tiên thiên? - Khí hậu thiên?
- Sao gọi khí Tiên thiên là con? – Khí hậu thiên là mẹ?
- Tại sao phải dùng cả hai?
- Làm cách nào để hỗn hợp hai khí? – hai khí hiệp nhất rồi mang
tên là gì?
13. Thế nào là hạp tịch? – Là khắc lậu?
14. Châu thiên vận là gì? – chủ đích?
- Thế nào mới đúng trung độ của Châu thiên?
- Châu thiên hạn số? – Châu thiên lệch số?
- Tại sao phải khỉ chỉ tại hư nguy? – Vị trí hư nguy?
- Châu thiên văn võ là gì?
- Tu ngoài thời tứ chánh, làm sao hỏa lực không tăng?
- Tấn dương hỏa thối âm phù? – Chủ đích của tấn thối?
- Tại sao trong trụ có hành? – Trong hành có trụ?
- Tâm tức tương y?
15. Lúc nào Nhâm Đốc gián cách? – lúc nào hai mạch nối liền? –
Âm dương quân bình?
16. Huân chưn bằng cách nào? – Phong cố bằng cách nào?
- Chủ đích của 2 công phu: Huân chưn, Phong cố?
17. Trường sinh bất lão và trường sinh bất tử có bí quyết gì?
18. Chỉ niệm có bí quyết gì?
- Lúc nào mới thực hoàn toàn chỉ niệm?
- Chủ đích?
19. Thiên cơ là gì?
- Tại sao phải cướp máy Thiên cơ?
- Cướp bằng cách nào?
- Tại sao phải đoạt quyền Tạo hóa?
- Đoạt bằng cách nào?
- Tại sao Dinh hoàn phải tái tạo?
- Tái tạo bằng cách nào? – Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa?
- Nhân uân Thiên địa sạ hồi triều?
- Tại sao gọi chẳng nghe chẳng thấy cũng là Thiên cơ?
- Dinh hư tiêu trưởng? – Tấn thối tồn vong? – Thành trụ hoại
không? –Thạnh suy bỉ thái?
20. Tại sao phải chỉnh định Càn Khôn?
- Chỉnh định bằng cách nào? – Chỉnh trong người?
21. Lúc nào có nguyên khí phát sanh? Do đâu phát sanh?
- Lúc nào có nguyên tinh phát sanh? – Nguyên tinh phát sinh do
đâu?
22. Thế nào là thuốc già? – Thuốc non? – Thuốc đúng độ?
23. Thế nào mới thể đại dược? – Thể bằng cách nào? Thể đem về
đâu?
24. Lúc tấn thì khí nào lên? Khí nào xuống?
- Lúc thối thì khí nào xuống? Khí nào lên?
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
201
25. Tam bửu: - Nội tam bửu ở đâu? – Ngoại tam bửu ở đâu? – Cách
tu nội tam bửu? – Cách tu ngoại tam bửu? – Tại sao khí không lìa
Thần? – Tại sao Thần ngưng thì khí tụ? – Thần trì thì khí tán?
26 . Làm sao cho tam gia tương kiến? – Tương kiến tại chỗ nào?
27. Còn nghi ngờ sao bị hỏa lực kém?
28. Lửa là gì? – Nước là gì?
- Lửa nước ở chỗ nào?
- Tại sao con người hậu thiên lửa lại ở trên? Nước lại ở dưới?
29. Lư đảnh: Lư là gì? – Đảnh là gì?
- Công dụng lư đảnh?
- Tại sao phải di lư hoán đảnh? – Di hoán chỗ nào?
30. Đao khuê:
- Đao khuê là gì?
- Do đâu có đao khuê?
- Đao khuê có công dụng gì?
31. Tại sao não bộ chất xám bị giảm thiểu?
- Làm thế nào để được tăng bổ chất xám?
32. Con người sanh tại chỗ nào?
- Chết tại chỗ nào?
- Làm sao giải thoát?
- Tại sao có sự sanh ra?
- Tại sao phải chịu chết?
- Chết những gì? – Do đâu mà bị chết?
- Làm sao nắm được quyền sanh tử?
- Tái sanh giả bất tử? – Sanh sanh giả vô sanh?
33. Thuần dương hóa là gì?
- Bằng cách nào?
34. Tại sao người còn một dương thì chưa chết? người tu còn một
âm thì chưa thành?
35. Công phu Thiền định pháp nào quan trọng thứ nhất? Thứ hai?
Thứ ba? Thứ tư?...
36. Sao gọi Trời đất sanh thành? Sanh thành như thế nào?
37. Bản Hà đồ thuộc Tiên thiên hay hậu thiên? Hãy chứng minh?
38. Bát Thuần Càn là gì? Bát Thuần Khôn? Thủy Thiên Nhu?
- Địa Thiên Thái? – Bát Thuần Cấn? – Thủy Hỏa ký tế? – Hỏa
Thủy vị tế?
39. Thuần âm có sáu hào âm, toàn âm cũng có sáu hào âm, vậy
khác hay giống nhau?
40. Tại sao gọi thí pháp là công đức vô lượng? chủ đích?
41. Bát quái trong con người hậu thiên, vị trí mỗi quẻ tại chỗ nào?
42. Chân tri do đâu có? Chân tri là gì? – công dụng của Chân tri?
43. Chí thành là gì? – Chí thành do đâu có? – Lợi ích? – Thiếu chí
thành thì thế nào?
44. Lúc con người đầu thai, thức thần lai tiên khứ hậu? Tiên hậu là
gì?
45. Sao gọi hỏa thiêu khổ hải tiết Thiên cơ?
46. Thủy hỏa giao, vĩnh bất lão?
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
202
47. Sao lại gọi thủy sinh kim? Hỏa sinh mộc?
48. Tại sao gọi quan khiếu chưa thông khó đắc được?
49. Sao lại gọi dược vật sinh nguyên khiếu?
50. Sao lại gọi hạ thủ tiên chế lưỡng nhãn?
51. Sao gọi tam muội hỏa?
52. Sao gọi nội hỏa hầu? Ngoại hỏa hầu? Hỏa hầu là gì?
53. Trong thân con người, lúc nào thuộc Tiên thiên? Lúc nào thuộc
hậu thiên?
54. Sao gọi Chân vô? Sao gọi Chân hữu?
55. Chân ý ước chừng chín đệ,
Là văn, là võ lưỡng tượng tề.
Không viêm không thấp trung bình diệu,
Bí mật huyền cơ hé lộ đề.
THI:
Năm lăm tổng số của Càn Khôn,
Bí mật huyền cơ ráng bảo tồn.
Ai người suốt thông Chân diệu ý,
Có ngày sẽ được đến non Côn.
---oOo---
CHỦ YẾU VỀ CƠ LẬP GIÁO
Từ cơ lập giáo của đức Thái Cực Thánh Hoàng, các bậc Đại thánh
nhân qua các thời kỳ, đều có 2 hướng: Tâm truyền và Công truyền.
Công truyền ví như cơ thể
Tâm truyền ví như Linh hồn.
Tuy là hai, nhưng vẫn có một.
Chủ hướng Công truyền: Là Càn đạo biến hóa, các chánh tánh
mạng, là Chánh lý âm dương, tánh mạng song tu.
Chủ hướng Tâm truyền: Là Thần ngự khí, là Thủy hỏa ký tế, là
Chánh pháp nhãn tạng.
Lập nên một nền Tôn giáo chân chính, cần phải xây dựng Công
truyền và Tâm truyền thật vững vàng, nếu thiếu một thì sứ mệnh
không thành.
Có một điều trọng yếu là: Công truyền phải thật đúng đắn với
Công truyền. Tâm truyền phải thật đúng đắn là Tâm truyền. Chớ
nên tá giả vi Chân, hay biến Chân thành giả, tội lỗi rất lớn, khó
hòng đái công chuộc tội!
---oOo---
GHI NHỚ CÔNG ĐỨC
Chúng tôi có được quyển Thánh kinh này, trước tiên là nhờ ơn
Thầy Ba Trắc nơi Kim Long Tự Nha Trang về ăn giới thiệu.
Sau khi được biết nơi có rất nhiều kinh toàn là Nho văn tại Nam
Nhã tự ở Tây Đô Cần-Thơ, chúng tôi liền cùng nhau bàn, nhất định
phải đi lãnh cho được, vì đó là lòng thiết tha mong mỏi của chúng
tôi từ lâu.
Chúng tôi khởi hành từ Nha Trang vào ngày rằm tháng ba năm
Bính Tý 1996.
Số người tham dự chuyến thỉnh kinh:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
203
HUỆ TỪ: thế danh LÊ NGỌC CAN
21 Cao đài, phường Phương sơn, Nha Trang.
HUỆ THÀNH: thế danh LÊ KHOÁI
125/16b Hương Lộ I4 phường 20 Quận Tân Bình
Thành phố Hồ Chí Minh.
Lễ Sanh THÁI HÒA THANH: thế danh Trương Văn Hòa
13/II khu máy nước Nha Trang
NGUYỄN THÀNH CHƯƠNG
107/4 Hoàng Văn Thụ thành phố Cần Thơ.
ĐÀO TRỌNG NGUYÊN 100 Trương Định Cần Thơ
Còn có sự hỗ trợ đắc lực của vị Lão nơi Vạn Linh Tự Cần Thơ và
cô Bảy Minh Nguyệt, nên sứ mệnh của chúng tôi xem như được
viên mãn.
---oOo---
THÁNH KINH QUYỂN HẠ
BẢN MỤC LỤC
Chương I: Minh đường trúc cơ Trang
Chương II: Công đức trúc cơ
Chương III: Sơ thiền Luyện kỷ trúc cơ
Chương IV: Nhị thiền bạch nhật trúc cơ
Chương V: Tam thiền thập ngoạt hoài thai.
Chương VI: Tứ thiền tam niên nhũ bộ.
Chương VII: Ngũ thiền cửu niên diện bích.
Chương VIII: Chân ý.
Chương IX: Huyền quan Tổ khiếu.
Chương X: Chánh pháp
Chương XI: Tam bửu
1. Chân chánh dược luận.
2. Dược vật thuyết.
3. Tiên thiên Chân khí.
4. Chân diên đại dược.
5. Kim dịch vấn đáp.
6. Kim dịch đại hườn đơn.
7. Thôi công nhập dược.
8. Lữ Công thấm viên xuân.
9. Kim đơn tứ bách tự.
10. Đắc đơn thần tốc.
Chương XII: Châu thiên vận (đồ hình).
1. Nhâm Đốc nhị mạch
2. Tâm tức tương y
3. Vận khí thông quan.
4. Thác thược ca.
5. Phong hỏa kinh.
6. Phong hỏa luyện tinh phú.
Chương XIII: Cơ tịch chiếu.
1. Hỏa phù ôn dưỡng
2. Ngưng Thần định tức.
3. Bảo ngươn thủ nhất.
4. Mặc vận hỏa hầu.
5. Hà luyện âm tinh.
6. Thâu thị phản thính.
7. Ngưng Thần nhập khí.
8. Điều tức miên miên.
Chương XIV: Chân hỏa hầu
1. Hỏa hầu đương tri.
2. Chân quyết hỏa hầu.
3. Sơ canh hỏa hầu.
4. Mỗi nhật hỏa hầu.
5. Thập ngoạt hỏa hầu.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ CHI HÀNH THÁNH KINH ĐẠI ĐẠO QUYỂN HẠ
204
6. Lưỡng hầu chi hỏa.
7. Nội ngoại dược hỏa.
8. Tấn thốc hỏa hầu.
9. Truân Mông hỏa hầu.
10. Hỏa hầu bất tại quái hào.
11. Hỏa hầu minh Canh Giáp.
12. Tác vận hỏa hầu.
13. Hỏa hầu thứ tự.
14. Hỏa hầu kinh.
Chương XV: Chân lư đảnh
1. Trí đảnh phanh luyện
2. Chân lư Chân hỏa
3. Lư đảnh lưỡng khiếu dược.
4. An cư lập đảnh.
5. Đảnh khí trực luận.
Chương XVI: Chân thai tức.
1. Thai tức trực luận.
2. Thai tức kinh.
Chương XVII: Phục qui Thái Cực
1. Khảm Ly phối hợp.
2. Khảm Ly hoài Chân thổ.
3. Khảm Ly điên đảo.
4. Mẫu ẩn tử thai.
5. Long hổ mai hiệp.
6. Long hổ chế phục.
7. Long hổ giao luyện.
8. Kim lai tính mộc.
9. Kim mộc qui thổ.
10. Lưỡng gia tương kiến.
11. Âm dương hòa hiệp.
12. Kim mộc giao tính.
13. Đơn cơ qui Nhất luận.
14. Thái cực đồ thuyết.
15. Thái cực phát huy.
16. Vô cực đồ thuyết
Chương XVIII: Bổ túc
1. Khuyến tu
2. Phá nghi cầu bí quyết.
3. Hạ thủ công phu
4. Lạc đạo ca
5. Bổ túc trúc cơ.
6. Hiệu nghiệm thuyết.
7. Tập thuyết Huệ mạng kinh.
8. Nguy hiểm thuyết.
9. Khái niệm về Tâm pháp.
10. Công phu học vấn.
11. Chỉnh lý hôn trầm.
12. Chữa bệnh do Thiền.
13. Nữ công tu luyện.
14. Bí mật huyền cơ.
---oOo---
CHUNG
Chúng tôi nhận được bản soft copy “Đại Đạo Tam Kỳ Chi Hành”
là nhờ cô Ngô Mỹ Hạnh ở Biên Hòa đã gửi cho chúng tôi. Nhận
thấy giá trị quý báu của quyển Kinh, chúng tôi phát nguyện đánh
lại vào máy vi tính để có thể đưa lên mạng phân phát cho mọi
người cùng đọc và tìm hiểu.
Vì đánh máy lại nên e rằng không tránh khỏi được những lỗi lầm.
Xin quí vị độc giả niệm tình tha thứ và đồng thời xin chỉ bảo những
chỗ sai lầm để chúng tôi có thể sửa chữa và bổ túc.
Xin chân thành cảm tạ,
Viễn Lưu, Sep/08/2015.
Email: [email protected]