The Role of Small Towns in Regional Development and ... filecủa phương pháp tiếp cận toàn...

25
The Role of Small Towns in Regional Development and Poverty Reduction in Ghana George Owusu International Journal of Urban and Regional Research Vol. 32.2; ISSN 0309-1317; Pages 453-472 VAI TRÒ CA CÁC THTRN NHTRONG PHÁT TRIN VÙNG VÀ XÓA ĐÓI GIÁM NGHÈO GHANA. George Owusu Tóm tt Ghana, cũng như nhiu quc gia khác tiu vùng Saharan Châu Phi, hin chưa có mt chiến lược phát trin vùng rõ ràng, nht quán. Phát trin vùng đã din ra khá mnh msong vn chưa được kim soát. Chính sách phân quyn được Ghana áp dng 1988 chyếu tp trung vào các thtrn nh. Vic áp dng Mc tiêu Phát trin Thiên niên k(MDGs) và các chiến lược xóa đói gim nghèo cthca quc gia cn được sưu tiên phi hp ca nhà nước đối vi các thtrn nh. Phân phi và cung cp dch vqua các thtrn nhlà nhân tcn thiết đối vi mi chiến lược phát trin vùng và xóa đói gim nghèo. Gii thiu Trong 2 thp kva qua, vai trò ca các thtrn nhtrong phát trin vùng cũng như vai trò tích cc ca chúng trong phát trin không gian nhm htrxóa đói gim nghèo cũng như đạt được sphát trin hp lý đối vi nhiu nước đang phát trin đã được quan tâm trli. Mi quan tâm này được htrbi sthay đổi vkinh tế chính trnhiu nơi trên thế gii, đặc bit là châu Phi (Pedersen, 2003; Tacoli, 2003, Owusu, 2005a, Satterthwaite, 2006). Sthay đổi trên phm vi quc gia và quc tế bao gm dân chhóa và ci cách chính quyn địa phương, điu chnh cơ cu và ci cách kinh tế, tăng cường nlc gii quyết xóa đói gim nghèo và xu hướng chung htrphát trin. Ngoài ra, các phn ng đối vi các kết qukhông khquan trước đây ca phương pháp tiếp cn toàn din kinh tế vĩ mô trong phát trin – phương pháp này đã không xem xét hay đơn gin bqua các cp thp nht trong hthng không gian – cũng như các chính sách thc tế khác liên quan đến các tác động ngược ca khuynh hướng “các nước thuc thế gii thba” trong đô thhóa và phát trin vùng, đã góp phn thu hút squan tâm trli đối vi các thtrn nh. Các yếu ttrên đã làm gia tăng các tranh lun vmt lý thuyết trong đó nhn mnh scn thiết ca hthng định cư ri rác và tp trung (bao gm các thtrn nh) nhm thúc đẩy phát trin kinh tế, công bng 1

Transcript of The Role of Small Towns in Regional Development and ... filecủa phương pháp tiếp cận toàn...

The Role of Small Towns in Regional Development and Poverty Reduction in Ghana

George Owusu International Journal of Urban and Regional Research

Vol. 32.2; ISSN 0309-1317; Pages 453-472

VAI TRÒ CỦA CÁC THỊ TRẤN NHỎ TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG VÀ XÓA ĐÓI GIÁM NGHÈO Ở GHANA. George Owusu Tóm tắt Ghana, cũng như nhiều quốc gia khác ở tiểu vùng Saharan Châu Phi, hiện chưa có một chiến lược phát triển vùng rõ ràng, nhất quán. Phát triển vùng đã diễn ra khá mạnh mẽ song vẫn chưa được kiểm soát. Chính sách phân quyền được Ghana áp dụng 1988 chủ yếu tập trung vào các thị trấn nhỏ. Việc áp dụng Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) và các chiến lược xóa đói giảm nghèo cụ thể của quốc gia cần được sự ưu tiên phối hợp của nhà nước đối với các thị trấn nhỏ. Phân phối và cung cấp dịch vụ qua các thị trấn nhỏ là nhân tố cần thiết đối với mọi chiến lược phát triển vùng và xóa đói giảm nghèo. Giới thiệu Trong 2 thập kỷ vừa qua, vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng cũng như vai trò tích cực của chúng trong phát triển không gian nhằm hỗ trợ xóa đói giảm nghèo cũng như đạt được sự phát triển hợp lý đối với nhiều nước đang phát triển đã được quan tâm trở lại. Mối quan tâm này được hỗ trợ bởi sự thay đổi về kinh tế chính trị ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở châu Phi (Pedersen, 2003; Tacoli, 2003, Owusu, 2005a, Satterthwaite, 2006). Sự thay đổi trên phạm vi quốc gia và quốc tế bao gồm dân chủ hóa và cải cách chính quyền địa phương, điều chỉnh cơ cấu và cải cách kinh tế, tăng cường nỗ lực giải quyết xóa đói giảm nghèo và xu hướng chung hỗ trợ phát triền. Ngoài ra, các phản ứng đối với các kết quả không khả quan trước đây của phương pháp tiếp cận toàn diện kinh tế vĩ mô trong phát triển – phương pháp này đã không xem xét hay đơn giản bỏ qua các cấp thấp nhất trong hệ thống không gian – cũng như các chính sách thực tế khác liên quan đến các tác động ngược của khuynh hướng “các nước thuộc thế giới thứ ba” trong đô thị hóa và phát triển vùng, đã góp phần thu hút sự quan tâm trở lại đối với các thị trấn nhỏ. Các yếu tố trên đã làm gia tăng các tranh luận về mặt lý thuyết trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của hệ thống định cư rải rác và tập trung (bao gồm các thị trấn nhỏ) nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, công bằng

1

xã hội (Rondinelli, 1984, Hinderink and Titus, 2002, Pedersen, 2003; Sattherthwaite, 2006). Vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng và xóa đói giảm nghèo đã trở thành đề tài tranh luận chính trong các lý thuyết phát triển vùng. Kết quả là các trường phái khác nhau đều quan tâm đến vấn đề tăng trưởng và phát triển của các thị trấn nhỏ. Các trường phái dường như theo hướng quan điểm chung về lý thuyết phát triển ở các nước đang phát triển (Pedersen, 1997; Tacolo, 1998; Owusu, 2006). Theo Dewar (1996; 2- 3), giai đoạn từ những năm 1960 tới giữa thập kỷ 1980 đã chứng kiến sự quan tâm mạnh mẽ đối với các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng và quốc gia trên bình diện xây dựng lý thuyết và chính sách thực tiễn. Tuy nhiên vai trò của chúng được coi là tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào việc mô hình phát triển nào và quan điểm lý thuyết nào được áp dụng, đặc biệt là các mô hình phụ thuộc và hiện đại hóa. Qua tranh luận về vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng trong thời gian vừa qua, quan điểm được đưa ra trong hai thập kỷ vừa qua được đánh giá khả quan. Trong bản báo cáo toàn cầu “Hoàn thành các Mục tiêu Phát triển ở các Trung tâm Đô thị nhỏ - Nước và Vệ sinh ở các thành phố trên thế giới 2006”, cơ quan Liên Hợp Quốc Về Các Vấn Đề Định Cư nhấn mạnh rằng các thị trấn nhỏ có xu hướng bị bỏ sót là những thị trường hàng đầu đồng thời là nơi cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp và phát triển địa phương. Do đó, việc hoàn thành Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ sẽ phụ thuộc phần lớn vào cách chúng ta tăng cường triển vọng phát triển kinh tế địa phương và tăng cường điều kiện sống và làm việc ở các thành phố nhỏ. Sự nhất quán rộng rãi ở tầm quốc tế đã củng cố mối quan tâm về vai trò của các thành phố nhỏ trong phát triển kinh tế địa phương và giảm nghèo. Một quan điểm rộng rãi trong lý thuyết phát triển vùng là các trung tâm đô thị gần nhất với khu vực nông thôn, các thành phố nhỏ là điểm nút hiệu quả để kết nối các nhà sản xuất ở nông thôn với thị trường, các trung tâm để đặt dịch vụ xã hội trong phạm vi tiếp cận thuận tiện của các khu nông thôn, các trung tâm tuyên truyền các chính sách Chính phủ và hiện đại hóa (Hinderink và Titus, 2002; Tacoli, 2002; 2003; Pedersen, 2003; Satterthwaite and Tacoli, 2003) – tất cả các vai trò được cho là có tác động tích cực đối với sự phát triển của khu vực thành thị và nông thôn. Ngày càng có nhiều quan điểm công nhận rằng, các khu vực đô thị và nông thôn không chỉ là các ốc đảo mà còn là nơi kết nối dân cư, hàng hóa, dịch vụ và thông tin (liên kết không gian) và tương tác vùng (như việc làm ở nông thôn phi nông nghiệp và nông nghiệp đô thị). Sự tương tác này cũng như kết nối không gian được xem là mạnh mẽ nhất giữa các thành phố nhỏ và các vùng nông thôn vùng sâu vùng xa (Pedersen, 2003; Satterthwaite and Tacoli, 2003; Tacoli, 2003; Satterthwaite, 2006).

2

Trong bất kỳ điều tra nào về vai trò của các thành phố nhỏ trong phát triển vùng và giảm nghèo, hệ thống chính quyền địa phương hiện nay và việc thiết lập các thể chế của nó đóng vai trò hết sức quan trọng. Chính vì vậy, nhu cầu phân quyền trong quy hoạch phát triển vùng và hành chính đã được nhấn mạnh trong lý thuyết phát triển vùng (xem trong Hardoy và Satterthwaite, 1988, Southall, 1988, Simon, 1992, Pedersen, 1997; 2003; Tacoli, 2002, 2003; Satterthwaite và Tacoli, 2003). Quan điểm nổi bật là hệ thống chính quyền địa phương và việc thiết lập thể chế (dựa theo chính sách phân quyền) của họ đóng vai trò quan trọng trong việc xác định bản chất mối quan hệ giữa các trung tâm đô thị và các vùng phụ cận mặc dù nhu cầu này phải được đặt trong bối cảnh quốc gia và quốc tế cụ thể (Satterthwaite và Tacoli, 2003, Owusu, 2005a). Điểm mấu chốt trong phân quyền là vai trò của các thành phố nhỏ trong phát triển vùng và kết nối nông thôn – thành thị, và một điều được nhấn mạnh trong lý thuyết phát triển vùng là nó tạo cơ hội việc hoạch định chính sách cho các vùng, khớp nối các điểm riêng biệt của từng thành phố nhỏ và các vùng sâu vùng xa của chúng. Nói theo cách khác, phân quyền giúp tránh hiện tượng khái quát hóa, đôi khi có giá trị song nó thường nêu vấn đề trên diện rộng và không cụ thể, ít đề cập đến trung tâm đô thị (hay trung tâm) và không có nhiều căn cứ có giá trị để hình thành các chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng. Hơn nữa, khả năng và sức ép phát triển là cụ thể đối với từng thị trấn nhỏ và từng vùng cho thấy sự cần thiết phải có trình độ cao trong việc ra quyết định và hoạch định chính sách trên quy mô vùng và quốc gia (Hardoy và satterthwaite, 1988). Bài luận này chỉ ra vai trò của các thủ phủ của Ghana (được định nghĩa là các thị trấn nhỏ) trong giảm nghèo và phát triển vùng. Phân tích là khá quan trọng căn cứ trên thực tế là sự tập trung quan tâm tới các trung tâm đô thị ở Ghana đã được hiện thực hóa ở các thị trấn và thành phố lớn như Accra, Kumasi, Tamale và Sekondi – Takoradi. Thêm vào đó, năm 1988 Ghana bắt đầu áp dụng chính sách phân quyền nhằm nâng cao việc chuyển đổi nguồn lực sang các vùng và tăng cường các thị trấn nhỏ, đặc biệt là các thủ phủ. Bài luận sử dụng các tài liệu điều tra để thể hiện vị trí của các thị trấn nhỏ trong cấu trúc thang đô thị hiện tại của Ghana và sự phát triển của các trung tâm đô thị này trong 3 thập kỷ vừa qua. Điều này được dẫn chứng bằng cuộc thảo luận lý thuyết về các thị trấn nhỏ và vai trò của chúng trong phát triển vùng và giảm nghèo ở Ghana. Tiếp đó, bài luận tập trung vào việc kiểm tra tiềm năng đóng góp của các thủ phủ ở Ghana đối với giảm nghèo và phát triển vùng. Kết thúc bài luận là thảo luận tổng kết nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước (Chính quyền Trung Ương) như là điều

3

kiện tiên quyết đối với sự phát triển của các thị trấn nhỏ trong chính sách phân quyền của Ghana. Vị trí của các thị trấn nhỏ trong bậc thang đô thị của Ghana. Vấn đề định nghĩa thị trấn nhỏ đã có từ rất lâu khi khái niệm những yếu tố cấu thành nên “đô thị” và “thị trấn” xuất hiện. Định nghĩa thành phố nhỏ thậm chí còn phức tạp hơn bởi thực tế cho thấy trong khi phần lớn các quốc gia đều có ít nhất các định nghĩa chính thức về trung tâm đô thị (hoặc thị trấn) nhưng không có một định nghĩa nào về các trung tâm đô thị “nhỏ”, “vừa” và “lớn”. Chính vì vậy các định nghĩa được các nhà nghiên cứu áp dụng thường khác nhau ngay cả trong cùng một quốc gia, khu vực. Ví dụ, Anderson (2002) khi nghiên cứu về Zimbabwe có viết rằng trong khi Kamete (1998) định nghĩa các thị trấn nhỏ ở Zimbaque là nơi có dân số từ 2,500 đến 9,999 người; theo Pederen (1995) là từ 2000 đến 50000 người. Mặc dù mỗi người có một định nghĩa khác nhau song cũng cần phải lưu ý rằng các định nghĩa đó là phù hợp và quan trọng cho mọi cuộc thảo luận hay phân tích. Nhằm tránh những tranh luận không có hồi kết về các định nghĩa và phạm vi của nó, Hardoy và Satterthewaite (1988) và Simon (1992) đã đưa ra quan điểm áp dụng bước tiếp cận dựa trên chức năng và tương đối hơn là các trung tâm thuần túy và nhỏ xét theo khía cạnh hệ thống kinh tế và đô thị quốc gia. Bước tiếp cận này của họ nhằm đưa ra một định nghĩa về các thị trấn nhỏ dựa trên bậc thang định cư ở từng quốc gia và đồng thời cũng được áp dụng trong bài nghiên cứu này. Trong bối cảnh của Ghana, các trung tâm đô thị được định nghĩa chính thức là nơi tập trung dân số từ 5000 người trở lên. Tuy nhiên, cũng lưu ý rằng, không có định nghĩa chính thức về các thị trấn nhỏ. Các bài phân tích về phát triển đô thị vùng ở Ghana dựa trên các con số thống kê dân số 1960, 1970, 1984, GSS (1995) định nghĩa thị trấn nhỏ là các trung tâm có dân số từ 5000 đến 19,999 người. Các trung tâm đô thị vừa là các trung tâm có dân số từ 20,000 đến 99,999 người và các trung tâm đô thị lớn là từ 100,000 người trở lên. Thomi và Yankson (1985) cũng đưa ra cách phân loại tương tự đối với hệ thống đô thị của Ghana dựa trên điều tra dân số năm 1970. Cách phân loại hệ thống đô thị ở Ghana của Andre dựa trên điều tra dân số năm 1960 và các đặc điểm khác như thể chế hành chính, trình độ công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra bậc thang đô thị 4 tầng: khu vực thủ đô Accra (Accra – Tema) là khu vực công nghiệp, chính trị, hành chính quốc gia với dân số trên 300,000 người, 2 thành phố (Kumasi và Sekondi – Takoradi) với dân số trên 50,000 người là trung tâm công nghiệp, hành chính quan trọng của vùng, các trung tâm vùng (bao gồm tất cả các thủ phủ hành chính khác

4

trừ Bolgatanga) với dân số trên 10,000 người, các thị trấn có dân số dưới 10,000 người (chủ yếu là các trung tâm hành chính quận). Dưới cấp thị trấn là khu vực nông thôn. Andrea (1981) cũng lưu ý rằng khu vực thủ đô và 2 thành phố chính khác có thể xếp cùng một bậc. Hay nói cách khác, loại hình thứ nhất và thứ hai trong cách phân loại của bà có thể gọi chung là các thị trấn lớn, các trung tâm của vùng là các thị trấn vừa, và “thị trấn” là thị trấn nhỏ. Tuy nhiên Andre cũng hiểu rõ về phạm vi phân loại của bà trong đó ghi chú rằng các định nghĩa trên xuất phát từ sự cần thiết phải thiết lập một phương pháp phân loại và các phân tích loại hình sản xuất và cấu trúc không gian của các khu công nghiệp ở Ghana. Phân định các thị trấn nhỏ dựa theo các định nghĩa chính thức của Ghana về các trung tâm đô thị, số liệu điều tra dân số và nhà ở năm 2000 cũng như cấu trúc chính trị, hành chính hiện nay của đất nước, bài nghiên cứu đã áp dụng phương pháp phân loại 3 tầng của hệ thống đô thị Ghana. Khi các khu định cư nông thôn được bổ sung, bậc thang định cư của Ghana sẽ phù hợp với cấu trúc hệ thống 4 tầng (Owusu, 2005b, 2006). Trên cùng là các thị trấn và thành phố lớn Accra, khu tự trị Tema, Kumasi và Sekondi – Tamale với dân số từ 250,000 trở lên. Ngoài tiêu chuẩn về dân số, các thị trấn lớn được định nghĩa là các trung tâm công nghiệp, dịch vụ của Ghana mặc dù khu vực Accra – Tema không phù hợp theo tiêu chuẩn này. Bậc tiếp theo là các trung tâm đô thị vừa – các trung tâm hành chính vùng với dân số từ 50,000 đến 249,999 người. Các thị trấn vừa và nhỏ đều là các trung tâm chính trị hành chính của vùng (ngoại trừ Tema, là trung tâm công nghiệp, cảng biển chính), định nghĩa này khác so với định nghĩa trước đây là được phân biệt bởi quy mô dân số và trình độ công nghiệp dịch vụ. Xếp sau thị trấn vừa là các thị trấn nhỏ, được định nghĩa là các trung tâm có quy mô dân số từ 5000 đến 49,999 người (như các thủ phủ). Tiếp đó là các khu vực nông thôn. Các thị trấn vừa được phân biệt với các thành phố nhỏ căn cứ vào vai trò là trung tâm điều phối, chính trị, hành chính của chúng trong khu vực (bao gồm các thủ phủ).Vai trò chính trị, hành chính được thể hiện cụ thể trong chính sách phân quyền, đòi hỏi mỗi khu vực và chính quyền địa phương tương ứng đệ trình các kế hoạch phát triển của mình sao cho hài hòa với kế hoạch phát triển vùng, từ đó nâng lên tầm quốc gia để hài hòa với các kế hoạch phát triển quốc gia. Các thủ phủ cũng giám sát hoạt động hàng ngày của các hạt trong khu vực. Tuy nhiên, phương pháp phân loại và định nghĩa các thị trấn nhỏ đã quá đơn giản hóa hệ thống đô thị của Ghana. Vì chúng đã gạt sang một bên các tiêu chuẩn về thể chế hành chính, nhiều trung tâm cho thấy sự phức tạp về chức năng và dân số đã gây khó khăn cho quá trình xếp chúng vào các tiêu chuẩn phân loại. Một ví dụ điển hình là thị trấn khai thác vàng của

5

Obuasia ở vùng Ashanti năm 2000 có dân số 115,564 người và là thủ phủ của Hạt Tây Adansi. Sự xuất hiện của các hoạt động khai thác vàng đã thu hút số lượng ngành công nghiệp, dịch vụ hoạt động tại thị trấn vượt xa các thị trấn có quy mô vừa. Theo các định nghĩa trên, Obuasi với quy mô dân số, thể chế hành chính và số khu công nghiệp hiện tại có thể vừa được coi là thị trấn nhỏ, vừa được coi thị trấn vừa (Owusu, 2005b) Dù có những hạn chế song cách phân loại trên đã đưa ra một cấu trúc đơn giản có thể được sử dụng cho việc kiểm tra, phân tích vị trí của các thị trấn nhỏ trong bậc thang đô thị của Ghana. Nó cũng cho phép định nghĩa các thị trấn nhỏ - đặc biệt là các thủ phủ, trung tâm đô thị được ưu tiên trong bài luận này – thuộc cả bậc thang hành chính và không gian đô thị. Đơn vị quy hoạch, chính trị hành chính thấp nhất ở Ghana hiện nay là chính quyền địa phương. Trong tổng số 138 thủ phủ, thành phố, hạt có 124 hạt, 10 thành phố và 4 thủ phủ. Mỗi hạt tương trưng cho thủ đô của một quận và khu vực nông thôn bao quanh lãnh thổ chính trị - hành chính nhất định. Do đó, định nghĩa trên cho phép chúng ta tập trung vào các thủ phủ mà các chức năng chính của chúng là quản lý hành chính, chính trị cơ sở, cung cấp dịch vụ cho khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa trực thuộc. Tăng trưởng của các thị trấn nhở Rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về đô thị hóa ở Ghana, chủ yếu tập trung vào các thị trấn lớn, đặc biệt nhấn mạnh đến tình trạng di dân tới các trung tâm và hệ quả của nó (Caldwell, 1969, Brigg và Yeboah, 2001; Konadu – Agyemang, 2001; Grant và Yankson, 2003) song không có nhiều nghiên cứu về quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị vì nó ảnh hưởng đến các thị trấn nhỏ và các trung tâm khác (Agyei – Mensah,2006). Tuy nhiên, tình trạng này không chỉ diễn ra ở Ghana. Hai trong số các nguyên nhân giải thích cho thực trạng này là quan điểm cho rằng các thị trấn nhỏ không phải là một đối tượng độc lập được phân định rõ ràng cái gì được khái quát hóa, phát triển khái niệm và mô hình và ý kiến cho rằng các thị trấn này không liên quan đến quá trình phát triển (Clark, 1995; Pedersen, 1997). Ngoài ra, các thông tin thông kê về các thị trấn nhỏ không được phân tách độc lập mà luôn được gắn với các thông tin về khu vực nông thôn hoặc trung tâm đô thi lớn (Pedersen, 2003; Sattherthwaite, 2006). Quan trọng hơn đó là việc Ghana thiếu một chính sách, chiến lược phát triển đô thị toàn diện dẫn đến việc thiếu một đánh giá hệ thống về vai trò của các thị trấn bao gồm các thị trấn nhỏ trong phát triển. Do thiếu khung chính sách phát triển đô thị toàn diện nên cả chính sách và thực thi đều tập trung vào các thị trấn lớn. Ví dụ như Grant và Nijman (2002) và Grant và Yankson (2003) chỉ ra rằng phát triển Accra như một trong những điểm đầu tư chính và là cửa ngõ của Tây

6

Phi sẽ dẫn đến tình trạng tập trung quá mức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Accra mà bỏ qua các trung tâm khác ở Ghana. Bảng 1: Phân phối quy mô đô thị ở Ghana (1970 - 2000) Đơn vị (nghìn) 1970 1884 2000 Stt Dân số Stt Dân số Stt Dân số 1000 + 0 0 0 0 2 2,829,207500 - 1000 1 624,091 1 969,195 0 0100 - 500 2 490,318 3 739,783 4 1,147,96350 - 100 2 140,254 4 276,981 8 544,16320 - 50 13 369,848 19 529,266 38 1,127,9885 - 20 101 844,227 155 1,338,651 298 2,680,923Tổng đô thị 119 2,466,738 182 3,907,876 350 8,330,244Đô thị hóa (%) - 28.9 - 32 - 43.8

Bảng 2: Phân phối các trung tâm đô thị, các thị trấn nhỏ và thủ đô vùng, 2000

Vùng

Số trung tâm đô thị

% thị trấn nhỏ

% thủ đô vùng Dân số đô thị

% thị trấn nhỏ

% thủ đô vùng

Phía Tây 33 97 33 619,401 47 20 |Miền trung 39 28 598,405 86 37Accra 35 91 9 2,564,864 14 1Volta 35 97 31 441,084 86 31Miền Đông 56 98 25 728,718 88 33Ashanti 58 97 29 1,875,882 32 18Brong - Ahafor 54 96 22 687,706 83 38Miền Bắc 27 96 44 496,803 59 36

7

Viễn Đông 7 86 71 144,282 64 59Viễn Tây 6 83 67 101,096 34 25Tổng 350 96 28 8,330,244 46 20

“Các con số phần trăm được làm tròn, thể hiện tỉ lệ các trung tâm đô thị được định nghĩa là các thị trấn, thủ đô vùng nhỏ và tổng dân số của khu vực đó” Dựa theo số liệu điều tra 99 thủ đô vùng năm 2000 Nguồn: Điều tra nhà ở và dân số năm 2000 (GSS, 2002) Qua bảng 1 ta thấy dân số đô thị của Ghana biến động liên tục trong vòng 30 năm qua. Điều này cho thấy sự vượt trội của các trung tâm đô thị được định nghĩa là các thị trấn nhỏ (trung tâm có dân số từ 5000 đến 50,000 người). Theo bảng 1, số lượng các trung tâm này tăng từ 114 vào năm 1970 lên tới 336 vào năm 2000. Tình trạng số lượng trung tâm đô thị được coi là thị trấn nhỏ gia tăng nhanh phản ánh tốc độ đô thị hóa nhanh chóng đang diễn ra ở Ghana, đặc biệt là trong 2 thập kỷ qua. Trong năm 2000, tỉ lệ dân số đô thị trung bình cư trú ở các thị trấn nhỏ vào khoảng 46% (bảng 2). Tuy nhiên, xét theo vùng thì tỉ lệ dân số đô thị sống ở các thị trấn nhỏ chiếm hơn 80% ở khu vực Central, Volta, Eastern và Brong – Ahafo và thấp nhất ở khu vực Greater Accra (14%). Bảng 2 cũng chỉ ra rằng, trong năm 2000, các thủ phủ chiếm 1/3 trong tổng số các trung tâm đô thị và 1/5 tổng dân cư đô thị. Trên thực tế, ngoài khu vực Greater Accra, đứng sau thủ phủ Accra – Tema nơi các thủ đô của khu chiếm chưa đến 1% tổng dân số đô thị của vùng, sự đóng góp của các thủ đô của khu đối với đân số đô thị tương đối quan trọng đối với mọi khu vực. Cũng phải nhấn mạnh rằng, mặc dù lộ trình và chính sách hình thành các thị trấn lớn và nhỏ có thể giống nhau, nhưng sự phát triển của chúng trong hệ thống đô thị là khác nhau. Owusu (2005b) đề cập đến một số lí do về tăng trưởng và phát triển của các thị trấn nhỏ ở Ghana bao gồm các nhân tố kinh tế xã hội rộng hơn như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế đã khuyến khích các Chương trình điều chỉnh cơ cấu. Nó cũng cho rằng tác động của việc cắt bao cấp chương trình điều chỉnh cơ cấu – cái đã đem lại nhiều lợi ích cho dân cư đô thị), cải thiện thu nhập ở khu vực nông thôn do xóa bỏ kiểm soát giá mặt hàng nông nghiệp đã khuyến khích tăng trưởng, phát triển ở cấp thấp hơn trong hệ thống định ở nhiều nước châu Phi (bao gồm Ghana) (Acheampong, 1996: 56, xem trong Aeroe, 1992, Burrows, 1992). Đồng thời cũng chỉ ra, Chương trình điều chỉnh cơ cấu là nguyên nhân dẫn đến tình

8

trạng di dân từ đô thị về nông thôn chủ yếu là từ các thị trấn lớn sang các khu định cư ở cấp thấp hơn trong hệ thống định cư ở Ghana (Sowa, 1993; GSS, 1995; Tacoli, 1998). Các nhân tố lớn hơn ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của các thị trấn nhỏ ở Ghana là sự phân quyền và các cải cách của chính quyền địa phương đầu thập kỷ 80 và tác động của việc tỉ lệ gia tăng dân số ngày càng cao. Ngoài những yếu tố trên, các thị trấn nhỏ còn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố khu vực và địa phương như mở rộng nông nghiệp và thương mại hóa kết hợp với vị trí địa lý thuận lợi như vị trí của các trục đường chính, gần các hoạt động khai thác và tác động lan tỏa từ các trung tâm đô thị lớn như Accra, Kumasi và Sekondi – Takoradi. Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng các yếu tố trên không phải là nguyên nhân hình thành đô thị hiện tại, chúng chỉ tạo nên hoàn cảnh kinh tế, xã hội và lịch sử mà thôi và ảnh hưởng của các yếu tố trên không đồng nhất. Nói cách khác, trong khi các yếu tố vĩ mô có thể rất quan trọng đối với một số thị trấn nhỏ song sự ảnh hưởng của các yếu tố khu vực và địa phương mới là yếu tố then chốt đối với sự tăng trưởng hay thụt lùi của các thị trấn này. Việc xác định yếu tố nào quan trọng hơn cần phải có những nghiên cứu cụ thể về từng thị trấn nhỏ ở Ghana (Owusu, 2005b) Quan điểm lý thuyết: các thị trấn nhỏ và vai trò của chúng trong phát triển vùng và giảm nghèo ở Ghana. Theo nghĩa rộng, các khái niệm trái ngược về trung tâm đô thị nhỏ và vai trò của chúng trong quá trình phát triển đã hình thành 3 quan điểm nổi bật giữa các nhà địa lý phát triển, các nhà quy hoạch phát triển vùng như quan điểm (lạc quan) về không gian chức năng, quan điểm kinh tế chính trị (bi quan) và quan điểm trung lập. Quan điểm chức năng không gian ủng hộ khái niệm chung về trung tâm đô thị và có ảnh hưởng lớn nhất tới chính sách và hoạt động quy hoạch (Rondinelli, 1984; Pedersen, 1997, Wouden, 1997). Nhìn chung, quan điểm này cho rằng các thị trấn tạo những ảnh hưởng hỗ trợ, tích cực đến các khu vực vùng sâu, vùng xa trực thuộc. Ngược lại, quan điểm kinh tế, chính trị lại cho rằng các thị trấn nhỏ có ảnh hưởng tiêu cực đến các khu vực ngoại biên với các mức độ lớn nhỏ khác nhau. Quan điểm này nhấn mạnh mối quan hệ qua lại thiếu cân bằng giữa trung tâm đô thị và khu vực nông thôn. Theo quan điểm kinh tế, chính trị, bậc thang đô thị (bao gồm các thị trấn nhỏ) là một chuỗi các trung tâm khai thác, duy trì và hỗ trợ khai thác khu vực nông thôn (Southall, 1988; Wouden, 1997). Trong khi cả hai quan điểm kinh tế chính trị và không gian chức năng đều chịu nhiều phê bình do nhìn nhận mối quan hệ giữa vùng sâu, vùng xa và thị trấn là một (liên quan đến việc dòng di cư từ đô thị về nông thôn). Hơn nữa, cả hai quan điểm đều

9

bỏ qua mối liên kết giữa nông thôn và đô thị như lưu chuyển dân cư, hàng hóa, thương mại và tiền tệ giữa khu vực đô thị và nông thôn – yếu tố có ảnh hưởng quan trọng tới đơn vị không gian (Tacoli, 1998, Brysceson, 2001, Pedersen, 2003; Satterthwaite and Tacoli, 2002; 2003) Đứng giữa quan điểm không gian chức năng và quan điểm chính trị là quan điểm trung lập. Quan điểm này không xem vai trò của thị trấn nhỏ chỉ đơn giản là tích cực hay tiêu cực nhưng nhấn mạnh những điểm khác biệt của từng thị trấn nhỏ và khu vực vùng sâu vùng xa trực thuộc. Quan trọng hơn, quan điểm này phản bác sự khái quát hóa được và coi nó không thích hợp khi phân tích vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển nông thôn (Dickson, 1980, Hardoy và Satterthwaite, 1988; Dewar, 1996 Tacoli, 1998; Courtney và Erington, 2000).

10

THỦ ĐÔ VÙNG

11

Kinh doanh và chế biến các sản phẩm nông nghiêp

Cung cấp các dịch vụ xã hội

Tuyên truyền, phổ biến công nghệ hiện đại và các chính sách của chính phủ

Cải thiện dịch vụ y tế

Tăng năng suất sản xuất nông nghiệp

Tăng thu nhập

Công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp

Mở rộng việc làm

Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp quy mô vừa và nhỏ

Giảm tỉ lệ di cư từ nông thôn ra thành thị

Tăng nhu cầu đối với các sản phẩm phi nông nghiệp

Giảm đói nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống

Giảm tỉ lệ mù chữ

Mặc dù Ghana cũng như nhiều quốc gia tiểu vùng Saharan châu Phi không có chiến lược phát triển đô thị (UDS), việc ban hành chính sách phân quyền từ năm 1988 đã góp phần quan trọng đối với sự vững mạnh của các thủ đô vùng. Một số nghiên cứu lý thuyết đã được tiến hành để định nghĩa chính xác vai trò của các thủ đô vùng trong giảm nghèo và phát triển vùng ở Ghana trong khung hành chính và khung quy hoạch phân quyền hiện nay (Owusu, 2005a; 60). Owusu (2005a) đưa ra một mô hình vai trò của các thủ đô vùng trong phát triển vùng và giảm nghèo ở Ghana (hình 1) còn gọi là mô hình phát triển trung tâm đô thị vùng (DCDM). DCDM có thể được xem là một khía cạnh của quan điểm trung lập về vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng và nông thôn. Được hình thành trong bối cảnh khung hành chính và quy hoạch phát triển phân quyền của Ghana, mô hình này đã lý thuyết hóa vai trò của các thủ đô vùng trong phát triển vùng như một quá trình 2 chiều. Mô hình này đã liên kết được sự kết nối giữa đô thị và nông thôn giữa các thủ đô vùng và các khu vực trực thuộc qua các đơn vị không gian thúc đẩy phát triển lẫn nhau và phát triển trong phạm vi quá trình phát triển phân quyền. Mô hình này cơ bản dựa theo định hướng thu nhập – thị trường, cho rằng phát triển nông nghiệp tạo động lực và tiền đề cho sự phát triển chung của vùng, đem lại lợi ích cho cả thủ đô vùng (đô thị) và chính khu vực (nông thôn). Như minh họa trong hình 1, mục tiêu chung của DCDM là giảm nghèo và cải thiện mức sống ở tất cả các khu vực nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển vùng. DCDM xem xét bối cảnh chính trị, kinh tế - xã hội quốc gia và quốc tế như yếu tố quan trọng trong việc hình thành mối quan hệ (kết quả tiêu cực hoặc tích cực) giữa các thủ đô vùng và các khu vực trực thuộc và hoàn thành mục tiêu giảm nghèo. Mặc dù các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội quốc tế ảnh hưởng đến sự phát triển của các thị trấn nhỏ, nhưng mô hình cần phải đặt trong chính sách và chương trình của quốc gia vì chúng đóng vai trò tạo khung cơ sở cho các cơ quan, tổ chức địa phương hoạt động. Và bởi vì, như Thomi (2000:229) đưa ra, nhà nước nói chung được coi là khung pháp lý cho các lãnh thổ và dân cư của nó, vai trò cùa nhà nước là đảm bảo, kiểm soát và tận dụng nguồn nhân lực và tài nguyên thiên nhiên trong khu vực thuộc thẩm quyền của mình vì lợi ích và sự thịnh vượng của quốc gia và các mục đích khác. Nói cách khác, chính sách quốc gia dù là

12

tiêu cực hay tích cực, ngầm hay rõ ràng đều có tác động lớn đến sự phát triển hệ thống đô thị và các thị trấn nhỏ (Pedersen 2003). Để các thủ đô vùng có thể đóng vai trò quan trọng trong giảm nghèo và phát triển vùng ở Ghana đòi hỏi Chính quyền trung ương phải hỗ trợ tăng trưởng và phát triển ở các khu trung tâm này. Thực hiện nhất quán và hiệu quả chính sách phân quyền để thúc đẩy tăng trưởng ở các thành phố nhỏ và khu vực vùng sâu vùng xa trực thuộc bằng cách cho phép chuyển giao nhiều nguồn lực và thẩm quyền hơn nữa xuống các cấp địa phương có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nguyên nhân là do phân quyền giúp xác định các nhu cầu của địa phương, cơ hội và thách thức cũng như các tiềm năng để thực hiện một cách hiệu quả (Crook, 2003). Thêm vào đó, việc phân quyền đối với các nguồn lực tài chính và thu nhập gắn liền với các trách nhiệm và chức năng được ủy thác rất cần thiết. Tuy nhiên nó đòi hỏi một số điều kiện vẫn còn khá hiếm ở Ghana hiện nay (Naustdalslid, 1992; Mohan, 1996, Ayee, 1995; Razin và Obirih – Opareh, 2000, Thomi, 2000) Từ 1988, rất nhiều các nghiên cứu và phân quyền đã được tiến hành trong đó nhấn mạnh các thành tựu ban đầu và những thách thức lớn mà chính sách phân quyền ở Ghana gặp phải. Các chính quyền địa phương (hay các vùng phụ cận) ở Ghana phải đối mặt với hàng loạt các thử thách như sự kết nối chức năng không rõ ràng giữa các cơ quan phân quyền, nguồn nhân lực yếu kém, cơ quan địa phương tham nhũng, vô trách nhiệm và nhiều vấn đề khác. Tuy nhiên, các nhà phân tích đã xác định chính tiềm lực tài chính không tương là thách thức chủ yếu và lý do tái sao nhiều vùng phụ cận trực thuộc đã không có bất kỳ ảnh hưởng quan trọng nào đối với sự phát triển của vùng (Ayee, 1995; 2000; Mohan, 1996; Crook và Manor, 1998; Eriksen et all, 1999; Razin và Obirih – Opareh, 2000; Yankson,, 2000). Theo Ayee (2000), phân quyền ở Ghana cho thấy tình trạng chung ở nhiều quốc gia, các chính sách hứa hẹn nhiều song áp dụng trong thực tiễn chẳng được bao nhiêu. Trong khi phân quyền hành chính đóng vai trò đi đầu trong chuyển giao trách nhiệm xuống các địa phương thì phân quyền trong tài chính vẫn còn rất chậm chạp dù khi áp dụng Quỹ Chung Cho Các Vùng Phụ Cận (DACF), trong điều khoản có quy định trích 5% tổng thu nhập quốc dân cho các vùng phụ cận. Điều này dẫn đến sự sai lệch trong việc phân bổ nguồn tài chính cho các chức năng được chỉ định, tình trạng đôi khi được hiểu là “mất cân bằng theo chiều dọc” (Ayee, 1995). Kết quả là, các vùng phụ cận không có các chương trình phù hợp, cần thiết cho xóa đói giảm nghèo và phát triển khu vực (Razin và Obirih – Opareh, 2000). Do có nhiều bất cập trong chính sách phân quyền ở Ghana nên đầu tư sản xuất và việc quản lý các thủ đô vùng cũng khá hạn chế, gây trở ngại đối

13

việc phát huy tiềm năng của các trung tâm này, cái đóng vai trò then chốt trong phát triển khu vực và giảm nghèo. Ví dụ như trong khi số lượng các thị trấn nhỏ (bao gồm các thủ đô vùng) tăng nhanh trong 3 thập kỉ vừa qua nhưng vẫn chưa làm giảm được sự gia tăng của các thị trấn và thành phố lớn. Thiếu cơ hội việc làm ở các thị trấn nhỏ (bao gồm các thủ đô vùng) khiến các trung tâm này không thu hút được các đối tượng di cư, họ vẫn thích chuyển đến các thị trấn và thành phố lớn ở Accra, Kumasi, Tamale và Tema (Owusu, 2005a, 2005b). Quan trọng hơn, một số lượng lớn các thủ đô vùng, đặc biệt là các thủ đô ở vùng phía Bắc Ghana (Viễn Đông, Viễn Tây và các vùng phía Nam) thiếu nhiều dịch vụ xã hội cơ bản (xem bảng 3). Trong năm 2000, chỉ có 95 trong 138 thủ đô vùng có đầy đủ các dịch vụ cơ bản như bưu điện, điện thoại cố định, dịch vụ y tế, trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. 18 thủ đô vùng không được tiếp cận với điện thoại cố định, 32 thủ đô vùng không có trường trung học phổ thông….gây cản trở đối với việc tương tác và nâng cao điều kiện kinh tế xã hội của người dân và khu vực vùng sâu, do đó làm hạn chế vai trò tiềm năng của chúng trong phát triển vùng và giảm nghèo. Bảng 3: Phân bố các dịch vụ cơ bản ở các thủ đô vùng

Dịch vụ cơ bản

Số thủ đô vùng thiếu các dịch cơ bản Vùng/ Thủ đô vùng

Bưu điện 14

Miền trung (Salt pond), Volta (Keta); Ashanti (Manso Nkwanta, Brong Ahafo (Jema), Miền Bắc (Damongo, Buipe, Wulensi, Gushiegu), Viễn Đông (Tongo, Zebilla, Garu), Viễn Tây (Funsi, Bechau, Nadowli)

Điện thoại cố định 18

Miền Tây (Essan), Volta (Keta, KpeveNewtow, Dambai), Brong Ahafo ( Drobo,Nsawka), Miền Bắc (Wulensi, Zabzugu,Saboba, Gushiegu, Karaga), Viễn Đông(Bongo, Tongo, Zebilla, Garu), Viễn Tây(Bechau), Miền Trung (Saltpond)

14

Bệnh viện 32

Miền Tây (Agona Nkwanta, Essan), Miền Trung (Saltpond, Ajumako), Greater Accra (Dodowa, Amansaman), Volta (Sogakope, Keta, Denu, Kpeve New town, Dambai); Eastern (New Abirew, Atimpoku), Ashanti (Manso Nkwanta, Mampongten), Brong Ahafo (Kukuom, Kenya 2, Nsawkaw, Jema), Miền Bắc (Sawla, Damongo, Buipe, Wulensi, Saboba, Gushiegu, Karaga, Tolon, Gambaga), Viễn Đông (Tongo, Garu), Viễn Tây (Bechau, Gwollu)

Các cơ sở y tế 7

Miền Trung (Saltpond), Volta (Sogakope, Keta, Denu), Eastern (Atimpoku, Manson Nkwanta), Miền Bắc (Damongo)

Trường tiều học 3 Ashanti (Manso Nkwanta), Viễn Tây (Gwollu), Miền Bắc (Damongo)

Trung học cơ sở 4

Ashanti (Manso Nkwanta), Viễn Tây (Gwollu), Miền Bắc (Damongo), Miền Trung (Saltpond)

Trung học phổ thông 22

Miền Tây (Agona Nkwanta, Essan); Miền Trung (Saltpond, Ajumako), Greater Accra (Ada - Foah), Volta (Denu), Easter (Atimpoku), Ashanti (Manso Nkwanta, Kuntenase), Brong Ahafo (Nsawkaw, Jema), Miền Bắc (Sawla, Damongo, Buipe, Saboba, Gushiegu) Viễn Đông ( Tongo, Garu), Viễn Tây (Funsi, Bechau, Nadowli, Gwollu)

Vai trò của các thị trấn nhỏ ở Ghana trong giảm nghèo và phát triển vùng. Vai trò hay chức năng của các trung tâm đô thị được định nghĩa là các hoạt động hay dịch vụ cụ thể mà trung tâm đó cung cấp cho người dân cư trú tại đó và các khu vực vùng sâu vùng xa trực thuộc. Tất cả các trung tâm đô thị đều có một số chức năng riêng nhưng sự pha trộn và phạm vi của các chức năng ở mỗi trung tâm là khác nhau. Nhìn chung, các trung tâm đô thị lớn hơn sẽ có nhiều chức năng hơn và phạm vi chức năng cũng rộng hơn. Tuy

15

nhiên, cũng có một số trường hợp ngoại lệ. Ở Ghana, nhiều thị trấn nhỏ như các thủ đô vùng có sự tập trung nông nghiệp tương đối lớn, chính vì vậy khả năng cung cấp của chúng vượt xa nhu cầu của người dân sinh sống tại đó. Như vậy, nơi nào vai trò của các thị trấn nhỏ được tăng cường bởi các chức năng riêng biệt thông qua các quyết định chính sách như quản trị chính quyền địa phương ( như trong trường hợp ở Ghana thì vai trò của các trung tâm đô thị nhỏ như các thủ đô vùng sẽ vượt ra ngoài quy mô dân số của chúng. Cụ thể, việc áp dụng chính sách phân quyền ở Ghana từ năm 1988 đã giúp Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) cũng như các tổ chức cứu trợ tiến hành một số sáng kiến nhằm tăng cường phát triển dân chủ và năng lực của các cơ quan địa phương. Đồng thời, nó giúp củng cố các trung tâm hành chính vùng và các thủ đô vùng để có thể đảm đương các chức năng ngày càng gia tăng và thực hiện hiệu quả vai trò trọng tâm trong phát triển vùng của chúng (Owuse, 2005a, 2005b). Một số chương trình và dự án về các thủ đô vùng ở Ghana bao gồm: ban hành Quỹ chung cho các khu vực phụ cận của vùng (DACF) trong đó có điều khoản quy định giành 5% thu nhập quốc dân cho các khu vực phụ cận của vùng, Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc và Ngân hàng thế giới (UNDP), các dự án đô thị V, các vấn đề vệ sinh và đường xá, tiểu dự án, Cơ quan hỗ trợ kỹ thuật của Đức (GTZ), dự án của Chính phủ Ghana ( Bộ Phát triển nông nghiệp và Chính quyền địa phương) như Phát triển thủ đô vùng (PRODICAP) đã được tiến hành ở một số vùng như Brong – Ahafo và Ashanti Regions (Owusu, 2005b). Có một động lực để đẩy mạnh phát triển các trung tâm đô thị vừa và nhỏ thông qua phát triển các ngành công nghiệp thủ công truyền thống kèm theo việc xúc tiến du lịch (xem Agyei – Mensah, 2006). Hơn nữa, từ những năm 1980, chính sách của Chính phủ và Bộ Phát triển nông thôn và chính quyền địa phương (MLGRD) đã đầu tư cho các thủ đô vùng một loạt các tiện nghi như điện, điện thoại, bệnh viện, cấp nước di động, trường trung học và dạy nghề, các tuyến đường giao thông (GSS, 1995). Trên thực tế, chính sách này mở rộng việc cung cấp mạng lưới điện và các dịch vụ xã hội khác đối với nhiều khu vực khác trên phạm vi quốc gia song chủ yếu tập trung vào các thủ đô vùng (Owusu, 2005b). Những cải cách trong phát triển hạ tầng hay đơn giản là việc chuyển giao ngày càng nhiều nguồn lực tới các địa phương theo chinh sách phân quyền đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển của các thủ đô vùng ở Ghana (GSS, 1995, Acheampong, 1996). Tuy nhiên, có rất ít dữ liệu thống nhất và toàn diện về các trung tâm đô thị nhỏ ở Ghana (Dickson, 1980). Yankson (2006: 14 – 15) bổ sung thêm rằng “không có các dữ liệu đáng tin cậy về những đóng góp của khu vực đô thị trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Ghana nhưng cũng hợp lý khi cho rằng các dữ liệu này tương đối chắc chắn

16

và tăng qua các năm”. Dù các thủ đô vùng có thể không có các dịch vụ và cơ sở hạ tầng cơ bản cần thiết để thực hiện các chức năng, góp phần vào quá trình giảm nghèo và phát triển vùng, song các chức năng của các trung tâm này có thể được phân loại thành các nhóm như sau: chợ chính và trung tâm dịch vụ nông nghiệp, trung tâm y tế, giáo dục và các dịch vụ khác, hỗ trợ và xúc tiến tương tác giữa đô thị và nông thôn, các trung tâm thay thế giành cho các đối tượng di cư từ nông thôn ra thành thị, trung tâm hành chính công cộng. Thị trường chính và trung tâm dịch vụ công nghiệp Các chợ đóng vai trò như yếu tố định hướng phát triển vùng và địa phương không phải là hiện tượng mới ở Tây Phi. Thị trường và thương mại có ảnh hưởng khá lớn tới tốc độ đô thị hóa và vận mệnh của các vùng, đáng chú ý nhất là thương mại đường dài xuyên Saharan đã được ghi vào lịch sử của Tây Phi (Gugler và Flanagan, 1978). Lý thuyết thị trường ở Tây Phi chính vì vậy rất phong phú với các bài phân tích sâu, mô tả cấu trúc và vai trò của người phụ nữ trong thị trường. Mặc dù chợ xuất hiện ở phần lớn các cộng đồng dân cư của các vùng song chợ ở các thủ đô vùng có xu hướng khác biệt về quy mô và mức độ tập trung. Nguyên nhân là do vị trí các thủ đô vùng và do ở đây luôn tập trung lượng lớn và ngày càng gia tăng dân cư so với các cộng đồng khác trong khu vực. Ngoài ra, sự tập trung mạng lưới giao thông (đặc biệt là các tuyến đường lớn) ở các thủ đô vùng và cơ sở hạn tầng kinh tế khác như ngân hàng và viễn thông hỗ trợ tương đối tích cực các hoạt động thương mại và kinh tế lớn hơn của các trung tâm này (Owusu và Lund, 2004). Ngoài chức năng là thực hiện trao đổi hàng hóa dịch vụ (hay hỗ trợ trao đổi kinh tế), thị trường còn là nơi trao đổi thông tin và giải trí (Smith, 1971, Nezic và Kerr, 1996; Lyon 2003). Theo Owusu và Lund (2004), vai trò của thị trường trong phát triển vùng và giảm nghèo được đánh giá là hướng quan trọng trong hệ thống chính quyền địa phương và phân quyền ở Ghana. Nguyên nhân là do việc áp dụng chính sách phân quyền năm 1988 và trao quyền cho các địa phương chịu trách nhiệm cho sự phát triển của vùng đòi hỏi phải có quá trình phát triển trong đó ưu tiên cho mục tiêu này và việc phân bổ nguồn lực nhằm đạt được nó.

Có thể lấy hai thủ đô vùng ở Miền Trung là Twifo Praso và Dunkwa on Offin làm ví dụ, Owusu và Lund (2004) đã cho thấy những đóng góp quan trọng của các thị trường thủ đô đối với phát triển vùng và giảm nghèo. Họ cho rằng ở những khu vực không có hoặc ít cơ sở công nghiệp, căn cứ tính thuế yếu thì chợ đóng vai trò là nguồn thu nhập chính cho các khu vực cận vùng, từ đó góp phần vào việc cung cấp dịch vụ và hạ tầng địa phương. Tương tự, ở các vùng thuần nông (chiếm đa số trong 138 khu vực cận vùng ở Ghana),

17

thì vai trò của thủ đô vùng là thị trường chính và các trung tâm nông nghiệp góp phần vào sự phát triển nông nghiệp địa phương – là nhân tố thiết yếu trong sự phát triển vùng. Tầm quan trọng của các chợ đối với nông nghiệp địa phương được Wiggins (2000)nhấn mạnh. Theo Wiggins (ibid 636), nơi nào nông nghiệp không tiếp cận được với thị trường thì nền kinh tế trang trại kém phát triển, thặng dư cho chế biến và thương mại thấp, sán lượng không cao, nguồn thu nhập để sử dụng cho hàng hóa và dịch vụ ở địa phương kém. Theo những điều kiện này, có thể thấy các hoạt động phi nông nghiệp sẽ kéo theo tình trạng di cư. Tuy nhiên, di cư sẽ tạo nên một cộng đồng lao động mới, làm phá hỏng hy vọng phát triển nông nghiệp đặc biệt là khi nguồn thu nhập của những người di cư này quá ít ỏi.

Điều cần nhấn mạnh ở đây là trong bối cảnh không có các công ty nhà nước hay tư nhân lớn kinh doanh trong lĩnh vực nông sản địa phương, việc các thủ đô vùng đóng vai trò thị trường và là các trung tâm dịch vụ nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất lương thực bền vững ở địa phương. Hay nói cách khác, sản xuất lương thực địa phương dù không điều chỉnh hệ thống kinh doanh và giá song sẽ gặp khó khăn nếu như không có sự hiện diện của các thị trường. Theo GSS (2000:59), tổng giá trị lương thực hàng năm bán ra ở Ghana hàng năm vào khoảng 631 tỉ cedis ( tương đương 65 triệu USD) theo giá giữa năm 1999. Lượng bán này chủ yếu ở các thị trường nông thôn và đô thị (bao gồm các thị trường thủ đô vùng), góp phần quan trọng vào việc tạo thu nhập và hoạt động sản xuất nông nghiệp. Các trung tâm y tế, giáo dục chính và các dịch vụ khác. Khu vực dịch vụ hỗ trợ chức năng của khu vực sơ cấp và thứ cấp của nền kinh tế quốc dân và khu vực thông qua việc tạo môi trường hoạt động cho các sản phẩm và các thị trường sản xuất hoạt động hiệu quả hơn để đáp ứng nhu cầu của người dân (ISSER, 2006; 2007). Nói chung, việc cung cấp và tiếp cận các dịch vụ xã hội góp phần quan trọng đối với giảm nghèo và phát triển vùng. Tuy nhiên vấn đề chính ở đây là làm thế nào để chuyển nguồn lực cho các khu vực xã hội nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Nếu các nguồn lực thay vì được phân bổ cho các khu vực xã hội lại được tập trung vào các đơn vị địa lý như các cộng đồng dân cư, vùng, miền sẽ dẫn đến kết quả một số khu vực nghèo đói sẽ bị bỏ sót. Nếu phân bổ căn cứ theo địa lý, nhiều hộ không thuộc diện nghèo cũng sẽ được ưu tiên dẫn đến việc thất thoát nghiêm trọng quyền lợi. Mặt khác, theo UNDP (2000;83) càng tập trung xóa đói giảm nghèo theo tiêu chí địa lý thì chi phí hành chính cho các chương trình giảm nghèo càng tốn kém do các chi phí phát sinh cho việc xác định các khu vực nghèo.

18

Dù những hạn chế gắn với việc tập trung quá mức vào khu vực xã hội hay các đơn vị địa lý như thế nào chăng nữa thì vai trò của các thủ đô vùng ở Ghana với tư cách là trung tâm y tế, giáo dục và các dịch vụ khác trong khuôn khổ chính sách phát triển phân quyền vẫn cần phải khắc phục được chúng. Mục tiêu chung của quyết định phân quyền và trao quyền cho các địa phương là cho phép chính quyền địa phương phát triển các cấu trúc và cơ chế tạo điều kiện cho người dân trong khu vực tiếp cận với các dịch vụ một cách hiệu quả. Ở nhiều khu vực của Ghana, không có dịch vụ nào ngoại trừ dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu (PHC) chủ yếu là các trạm xá, bưu điện và trung tâm y tế và các trường học cơ bản (tiểu học, trung học cơ sở) nằm ngoài thủ đô vùng. Chính vì vậy vai trò của các thủ đô vùng với tư cách là trung tâm chính cung cấp các dịch vụ giáo dục trung học phổ thông, bệnh viện, ngân hàng và các dịch vụ điện thoại, fax, internet có ý nghĩa thiết yếu trong nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của người dân. Do những khó khăn về chi phí và nguồn lực, cả chính quyền trung ương và địa phương ở Ghana trong giai đoạn phát triển hiện tại đều không thể cung cấp tất cả các dịch vụ cho mọi khu vực nông thôn. Do đó việc cung cấp dịch vụ qua các thủ đô vùng được xem là một nỗ lực lớn trong hoạt động cung cấp và phân phối dịch vụ với mức chi phí thấp hơn cho nhiều đối tượng nhất có thể. Nó cũng đòi hỏi sự tiếp cận hơn nữa do sự cần thiết của các dịch vụ này đối với dân cư ở các thị trấn nhỏ và dân cư nông thôn vốn chiếm đa số trong dân số của Ghana. Ngoài ra, MLGRD/ chính sách của chính quyền trung ương được thông báo sẽ mở rộng dịch vụ cơ bản tới tất cả các khu vực thông qua các thủ đô vùng như đã đề cập trước đó. Tuy nhiên, thực trạng một tỉ lệ lớn các thủ đô vùng thiếu các dịch vụ cơ bản như bệnh viện, bưu điện, điện thoại cố định, trường trung học…đã hạn chế các dịch vụ mà chúng cung cấp tới người dân và dân cư các vùng sâu vùng xa trực thuộc. Hỗ trợ và đẩy mạnh tương tác đô thị và nông thôn. Mối liên kết giữa đô thị và nông thôn đề cập đến hàng loạt mối liên kết không gian (dòng dân cư, hàng hóa, dịch vụ và thông tin) và các mối tương tác khu vực (việc làm ở nông thôn, hoạt động phi nông nghiệp và nông nghiệp đô thị) đang diễn ra giữa, trong phạm vi các khu vực được định nghĩa là nông thôn và đô thị. Đối với nhiều hộ nông thôn, mối liên kết nông thôn – đô thị là một phần của thực tế địa phương vì các thành viên trong gia đình đang làm các công việc khác nhau để tạo thu nhập ngoài nông nghiệp, duy trì không gian sinh hoạt ở các thôn làng, đi tới các làng, bản địa phương, vùng sâu để buôn bán, lao động và tìm kiếm các dịch vụ đặc biệt (Douglass, 1998). Thực tế là có một số người dân gốc thành thị hoặc thành thị đã tìm cơ

19

hội sinh sống ở các khu vực nông thôn hoặc tham gia vào các hoạt động nông thôn (phi đô thị). Các thủ đô vùng thông qua vai trò của mình là cung cấp các dịch vụ như thị trường, giáo dục phổ thông, bệnh viện, ngân hàng, ICT…sẽ hỗ trợ và thúc đẩy tương tác nông thôn – đô thị và kết nối giữa các khu vực. Điều này cho phép các hộ gia đình ở cấp địa phương có thể tham gia vào các hoạt động chéo giữa thành thị và nông thôn như là một hình thức tích lũy thu nhập và tài sản. Điều này cũng đặc biệt quan trọng đối với các hộ gia đình nông thôn vì nó cho phép họ có thể đa dạng hóa nguồn sống, bảo vệ họ khỏi những cú sốc và căng thẳng. Hơn nữa, các thủ đô vùng không chỉ đóng vai trò chính trong sự tương tác giữa các khu vực nông thôn và thành thị mà còn là nơi tập hợp, gắn kết các nhóm xã hội trong khu vực. Ở nhiều vùng, điều này còn được thể hiện trong các phiên chợ khi người dân từ các khu vực khác nhau đến tập trung rất đông đúc ở các thủ đô vùng. Thực tế này đã cung cấp một định nghĩa chuẩn xác về sự tồn tại của một khu vực hành chính, chính trị thống nhất (vùng) đồng thời thúc đẩy sự tồn tại của nhiều đối tượng dân cư trong đó (Owusu và Lund, 2004) Các trung tâm thay thế giành cho các đối tượng di cư từ nông thôn ra thành thị. Trong khi đô thị hóa đang gặp rất nhiều thuận lợi thì một vấn đề nảy sinh là tốc độ đô thị hóa đã vượt xa khả năng của các nhà quy hoạch thành phố, thị trấn trong việc đáp ứng nhu cầu về dịch vụ và cơ sở hạ tầng như nhà ở, nước, đường xá, bệnh viện và trường học…(GSS, 2005). Những thách thức này trở nên nghiêm trọng và rõ ràng nhất ở các thành phố, thị trấn lớn. Thực trạng số lượng dân di cư ngày càng lớn tới các khu vực này chính là nguyên nhân cho tốc độ tăng trưởng và mở rộng nhanh chóng của chúng. Điều này gây phát sinh các khu ổ chuột, vệ sinh môi trường kém, gia tăng dân số, mức tập trung dân cư cao dẫn đến một loạt các hệ lụy về sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân (GSS, 2005; ISSER, 2007) Ở Ghana, tốc độ tăng trưởng nhanh của các trung tâm đô thị lớn như Accra, Kumasi, Sekondi, Takoradi và Tamale đã trở thành mối quan ngại quốc gia. Theo GSS(2005:130) hàng loạt các chiến lược nhằm ngăn chặn làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị đã được áp dụng. Một trong số đó là chính sách phân quyền hành chính và quản lý cho các vùng, địa phương nhằm thúc đẩy tốc độ phát triển nông thôn. Theo chính sách này vai trò của các thủ đô vùng là các trung tâm đô thị thay thế cho các đối tượng di cư được đặt lên hàng đầu. Việc phát triển của các thủ đô vùng giúp tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho các đối tượng di cư từ nông thôn ra thành thị muốn chuyển

20

tới các thành phố, thị trấn lớn. Nó tạo các đối tượng di cư từ nông thôn ra thành thị cơ hội hòa nhập hoàn toàn với các thủ đô vùng hay chuyển dịch dần dần từ thủ đô vùng lên các thành phố lớn. Có thể nói rằng vai trò của các thủ đô vùng trong việc tiếp nhận các đối tượng di cư và cho phép họ chuyển dần lên các thành phố lớn là một biện pháp sáng suốt góp phần quan trọng vào việc làm giảm áp lực cho các trung tâm đô thị lớn như Accra, Kumasi, Temale, Tema và Sekondi – Takoradi. Gia tăng dân số ở các thủ đô vùng trong hai thập kỷ qua (1984 – 2000) cho thấy các trung tâm đô thị nhỏ chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng dân số đô thị của Ghana (xem bảng 4). Qua bảng 4 ta thấy ngoài 3 vùng ở phía bắc Ghana (Viễn Đông, Tây và Viễn Tây), tất cả các thủ đô vùng đều gia tăng nhanh chóng trong giai đoạn 1984 – 2000 so với giai đoạn 1970 – 84. Từ năm 2000 cho đến nay khoảng 20% tổng dân số thành thị của Ghana sinh sống ở 99 thủ đô vùng. Tóm lại, vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là số lượng thành phố, thị trấn lớn ở Ghana sẽ gia tăng nhanh hơn trước đây rất nhiều nếu như không có sự xuất hiện của các thủ đô vùng. Hơn nữa, thách thức của đô thị hóa và hệ quả của nó sẽ trở nên nghiêm trọng hơn thực tế rất nhiều. Do đó, việc các thủ đô vùng đóng vai trò là các trung tâm thay thế cho các đối tượng di cư từ nông thôn ra thành thị chính là quá trình đô thị hóa lan tỏa, ngay cả khi quy mô của nó tương đối nhỏ. Theo Aka (1991), các thị trấn vừa và nhỏ có xu hướng giảm áp lực đối với các thành phố lớn bằng cách đưa ra nhiều lựa chọn cho các đối tượng di cư cũng như tạo điều kiện hỗ trợ quá trình đảo chiều phân cực. Hành chính công Việc chuyển đổi nguồn lực và quyền lực từ các cơ quan trung ương tới các cấp địa phương theo chương trình phân quyền nhằm hướng tới một số mục tiêu. Song, mục tiêu cơ bản là cải thiện mức sống ở các khu định cư nông thôn và các trung tâm ở tầng thấp trong bậc thang định cư trong quá trình thúc đẩy phát triển nôn g nghiệp, kích thích ngành nghề phi nông nghiệp, đẩy mạnh tiếp cận các dịch vụ xã hội, giảm tỉ lệ di cư vào các thị trấn lớn (GSS, 1995). Với vai trò là trung tâm hành chính của vùng, các thủ đô vùng được kỳ vọng giữ vai trò đi đầu trong việc hoàn thành các mục tiêu của chương trình phân quyền.

21

Bảng 4: Phân phối các thủ đô vùng theo khu vực: dân số và tỉ lệ gia tăng

Vùng

Số thủ đô vùng 1970

Tỉ lệ gia tăng Dân số 1984

Tỉ lệ gia tăng (1984 - 2000) 2000

Miền Tây 10 68,841 1.1 80,101 3.2 135,640Miền Trung 11 122,907 1.4 148,524 2.5 221,568G/ Accra 3 9,595 1.3 11,511 2.4 16,906Volta 11 68,768 1.6 86,182 2.9 137,604Miền Đông 14 129,121 1.8 165,042 2.3 239,374Ashanti 17 122,599 2.9 185,009 3.8 341,576B/Ahafo 12 89,566 3.4 144,754 3.7 263,353Miền Bắc 12 70,993 4 123,738 2.3 179,899Viễn Đông 5 37,973 3.8 62,432 1.7 84,667Viễn Tây 4 11,757 2.6 16,814 2.6 25,494Tổng 99 732,080 2.4 1,026,107 3 1,646,081

Là một phần của quá trình đô thị hóa ở cấp vùng, chức năng hành chính công của các thủ đô vùng góp phần quan trọng đối với xóa đói giảm nghèo bằng cách tạo cơ chế thông qua đó các chính sách và chiến lược công được thực hiện ở cấp cơ sở. Vai trò này được gắn với các nỗ lực của chính phủ và chính quyền địa phương nhằm tiến đến một xã hội tốt đẹp thông qua việc xây dựng một xã hội dân sự dựa trên sự phát triển đồng đều của các khu vực và vùng miền trên cả nước. Nguyên tắc chỉ đạo trong chính sách của nhà nước được quy định trong hiến pháp 1992 của Ghana, đặc biệt là điều 35, 36, tạo cơ sở pháp lý hỗ trợ vai trò của các thủ đô vùng trong hành chính công như là một biện pháp giúp thiết lập một xã hội công bằng. Trong đó, điều 36 nhấn mạnh rằng nhà nước sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết để xây dựng một nền kinh tế vững mạnh với các nguyên tắc sau:

- Đảm bảo khen thưởng công bằng cho sản xuất và sản lượng nhằm khuyến khích sản xuất và năng suất cao hơn

22

- Tạo cơ hội cho các sáng kiến cá nhân và sự sáng tạo trong các hoạt động kinh tế, tạo môi trường thuận lợi nhằm phát huy vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế.

- Phát triển đồng đều các khu vực, địa phương ở Ghana nói riêng và cải thiện điều kiện sống của các khu vực nông thôn nói chung, điều chỉnh sự mất cân bằng trong phát triển giữa các khu vực nông thôn và thành thị.

- Công nhận dân chủ công bằng là một trong các yếu tố đảm bảo các nhu cầu sống cơ bản cho người dân là nhiệm vụ thường trực.

Vai trò của các thủ đô vùng với tư cách là trung tâm hành chính công, dịch vụ và là nơi định cư thay thế cho các đối tượng di cư góp phần hướng đến việc thiết lập công bằng xã hội, hoàn thành mục tiêu phát triển cân bằng và xây dựng một xã hội công bằng ở Ghana. Điều này chính vì vậy đã thúc đẩy các nỗ lực của Chính phủ đưa ra các hiến pháp về phát triển cân bằng quốc gia, vùng, miền ở Ghana.

Kết luận Kể từ khi giành được độc lập năm 1957, Chính quyền trung ương đã, đang và tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội ở Ghana. Mặc dù Ghana không có một khung chiến lược phát triển vùng và đô thị rõ ràng song các chính sách quốc gia vẫn hướng đến phi tập trung không gian (hay phát triển cân bằng giữa các vùng, địa phương). Mục tiêu hướng đến của các chính sách này là khắc phục sự mất cân bằng vùng, giảm nghèo và thúc đẩy phát triển đất nước. Việc thực hiện cải cách kinh tế từ đầu những năm 80 giúp đưa ra các biện pháp cắt giảm chi tiêu chính phủ, chuyển gánh nặng phát triển và cung cấp dịch vụ cho các chính quyền địa phương thông qua chương trình phân quyền. Ngoài vai trò là người cung cấp các dịch vụ và cơ sở hạ tầng, các chính quyền địa phương còn phải hỗ trợ giảm nghèo và phát triển vùng. Như vậy vai trò của các thủ đô vùng trong giảm nghèo và phát triển vùng cũng cần được xác lập, từ đó vạch ra vai trò tiềm năng, quan trọng của các trung tâm đô thị trong phát triển kinh tế địa phương. Nhìn từ khía cạnh phát triển kinh tế vùng, các thị trấn nhỏ đóng vai trò thiết yếu trong phát triển kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa trực thuộc và các vùng cận biên. Các vai trò này bao gồm: trung tâm thị trường – kết nối nhà sản xuất địa phương với các thị trường trong nước và quốc tế, từ đó hỗ trợ việc nâng cao thu nhập và sản xuất nông thôn; trung tâm phân phối dịch vụ - giúp làm giảm chi phí và tăng cường khả năng tiếp cận do tính cần thiết của các dịch vụ đối với người dân ở các thị trấn nhỏ và vùng sâu vùng xa; khu vực thay thế để thu hút các đối tượng di cư từ nông thôn ra thành thị, từ đó làm giảm áp lực di cư cho các thành phố và thị trấn lớn. Những vai trò tiềm năng này của các thị trấn nhỏ càng trở nên có ý nghĩa khi đặt trong thực tế

23

rằng một tỉ lệ lớn dân cư Ghana sinh sống xung quanh hoặc tại các trung tâm đô thị nhỏ và họ lệ thuộc vào những nơi này trong việc tiếp cận hàng hóa và dịch vụ (Owusu, 2005b). Theo Owusu (2005b), 96% các trung tâm đô thị của Ghana (phân bố trên khắp đất nước) có thể được xếp loại là các thị trấn nhỏ. Quan trọng hơn, tron g những năm gần đây, nhiều cơ quan phát triển quốc tế và các quốc gia như Ghana đã tiến hành cam kết hoàn thành các mục tiêu cụ thể như Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs). Những mục tiêu này giúp hình thành phần nào chiến lược xóa đói giảm nghèo bao gồm cải thiện việc cung cấp dịch vụ trước năm 2015, giảm tỉ lệ tử vong người mẹ xuống dưới 5, ngăn chặn sự lây lan HIV/AIDS, tỉ lệ mắc sốt rét và các căn bệnh truyền nhiễm qua đường hô hấp khác, tăng khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, vệ sinh, cải thiện và xỏa bỏ phân biệt giới trong giáo dục tiểu và trung học (Thomas, 2000;4). Đạt được các mục tiêu trên và các mục tiêu xóa đói giảm nghèo đòi hỏi phải nâng cao việc phân phối và cung cấp dịch vụ và phần lớn trong số đó được giành cho các trung tâm đô thị nhỏ (Tacoli, 2003:10). Trong bối cảnh của Ghana, trong thời kỳ trung và ngắn hạn, c ác thủ đô khu vực cung cấp địa điểm lắp đặt và cải tạo các dịch vụ hiện có nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phần đông dân số ở Ghana. Điểm nhấn mạnh trong kết luận của bài luận này là trong bối cảnh của Ghana, tác động của cải cách kinh tế và SAPs, cải cách phân quyền và trao quyền cho các địa phương, việc áp dụng chiến lược xóa đói giảm nghèo của Chính phủ đã giúp tăng cường vai trò của các thị trấn nhỏ tương tự như vai trò của các thủ đô vùng trong phát triển vùng và xóa đói giảm nghèo. Hay nói cách khác, phát triển trên cơ sở thị trường của cải cách kinh tế, chiến lược phân quyền và xóa đói giảm nghèo như MDGs có sự gắn kết chặt chẽ - tất cả góp phần tạo không gian cho phát triển các thị trấn nhỏ. Các chiến lược trên đòi hỏi phải hoạch định các chính sách và chương trình cho các thị trấn nhỏ nhằm hỗ trợ cho mối liên kết giữa thành thị và nông thôn, tạo điều kiện tận dụng các nguồn lực ở nông thôn và thành thị thông qua các hộ gia đình, doanh nghiệp và lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên nó đòi hỏi các chính sách và chương trình phải gắn liền với tình hình thực tế của địa phương trong khuôn khổ phát triển phân quyền. Tuy nhiên như đã đề cập, chương trình phân quyền ở Ghana bị hạn chế bởi một số thách thức, đặc biệt là nguồn lực tài chính không đủ đáp ứng. Nhìn ở góc độ lớn hơn, các thách thức này bắt nguồn từ sự thiếu cam kết và thiện chí trong chính sách của chính phủ đối với việc thực hiện chương trình phân quyền, chuyển giao nguồn lực và trao quyền cho các địa phương. Chính vì vậy, thực trạng này củng cố quan điểm cho rằng mặc dù phân quyền có thể

24

25

là một chính sách phổ biến và hiệu quả về mặt lý thuyết song nó không thể hoàn thành mục tiêu giảm nghèo nếu không có sự nỗ lực nghiêm túc nhằm tăng cường và mở rộng cơ chế trách nhiệm ở cấp quốc gia và địa phương (Thomi, 2000; Crook, 2003). Crook (2003) bổ sung thêm rằng cơ chế hiện tại và các mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương là những yếu tố then chốt trong việc quyết định phân quyền có giúp hoàn thành mục tiêu xóa đói giảm nghèo hay không. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng ở nhiều nước đang phát triển bao gồm Ghana, mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương được hình thành và chỉ đạo bởi chính quyền trung ương do sự chênh lệch quyền lực lớn giữa hai hệ thống này. Nói tóm lại, xóa đói giảm nghèo và phát triển vùng có thể thành công nếu chính quyền trung ương ở nơi đó cam kết chặt chẽ thực hiện và hỗ trợ các chính sách trên. Nói cách khác, thành tựu mà phân quyền đạt được trong việc nâng cao chất lượng phát triển con người chính là chức năng của các nguồn lực và hệ thống phân bổ ngân sách của chính quyền trung ương (Crook, 2003:83). Để trở thành một công cụ phân quyền hiệu quả, các thủ đô vùng phài thực hiện đúng một số chức năng chức năng đối với các vùng sâu vùng xa trực thuộc cũng như đối với những người dân sinh sống trong khu vực. Bao gồm cung cấp các dịch vụ còn thiếu cho các vùng sâu, vùng xa, kết nối giao thông và thị trường cho sản xuất nông nghiệp nhằm hỗ trợ các mối liên kết giữa nông thôn và thành thị. Những người bỏ nông nghiệp có thể tìm được việc làm thay thế ở vùng phụ cận mà không phải di cư tới các thành phố lớn. Phần lớn dân cư có thể duy trì được mối liên hệ trong khoảng cách ngắn nhất từ thị trấn tới các thôn làng (Aka, 1991:2; Pedersen, 2003; Satterthwaite, 2006). Nếu các thủ đô vùng và các thị trấn nhỏ đều được hỗ trợ, chúng có thể thực hiện chức năng một cách hiệu quả để hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, kích thích tăng trưởng vùng và giảm sự mất cân bằng kinh tế xã hội giữa các khu vực và cá nhân – tác động tích cực đến các nền kinh tế nông thôn và thành thị. Điều này củng cố quan điểm cho rằng phát triển nông thôn và thành thị có sự liên kết nội tại và không thể tách rời trong phát triển vùng. Ngoài ra, nó có thể hình thành cơ sở cho phát triển đô thị hóa lan tỏa ở Ghana trong dài hạn.