QUẢN LÝ THUẾ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

4
QUẢN LÝ THUẾ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM TAX ADMINISTRATION IN E-COMMERCE IN VIETNAM Huỳnh Thị Kim Hà Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin - Đại học Đà Nẵng; Email: [email protected] Tóm tắt -Cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin thì hoạt động thương mại điện tử đang ngày càng phổ biến và dần chiếm ưu thế so với hoạt động kinh doanh truyền thống trước đây. Xuất phát từ tính chất đặc thù của thương mại điện tử đòi hỏi hệ thống pháp luật về thuế, năng lực cán bộ ngành thuế và cơ sở hạ tầng phục vụ công tác quản lý và thu thuế phải ngày càng hoàn thiện và được quan tâm đúng mức nhằm tránh thất thu cho ngân sách nhà nước và đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng. Bài viết trình bày thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam. Từ khóa -thuế; pháp luật thuế; quản lý; công nghệ thông tin; thương mại điện tử Abstract- Along with the continuous development of information technology, e-commerce activities is increasingly common and predominantin comparision with traditional business activities. Steming from the specific characteristics of e-commerce, therefore, requires in the completion of taxation system and infrastructure serving the tax administration and tax collection, higher qualification of tax officers in order to avoid losses to the state budget and ensure a fair business environment. This article outlines the situation and proposes some solutions to enhance the efficiency in tax management in e-commerce activities in Vietnam. Key words -tax, tax laws, administration; information technology; e- commerce 1. Đặt vấn đề Hiện nay, lĩnh vực kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam đang ngày càng được mở rộng và đa dạng về các chủng loại hàng hóa dịch vụ. Mặc dù hành lang pháp lý hiện hành điều chỉnh hoạt động TMĐTđã tương đối hoàn chỉnh, tuy nhiên, do tính chất đặc thù của TMĐT nên cơ quan thuế đang gặp không ít khó khăn trong quá trình quản lý và thu thuế đối với lĩnh vực này. Bài viết nêu lên thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thuế trong hoạt động TMĐT tại Việt Nam. 2. Thực trạng công tác quản lý thuế Theo thống kê của Bộ Công thương, 99% doanh nghiệp hiện nay đều có máy vi tính sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó 79% sử dụng đường truyền internet tốc độ cao, 20% sử dụng mạng nội bộ riêng và có trên 226.000 tên miền “.vn” đang duy trì thường xuyên, đứng đầu trong khối ASEAN về số lượng đăng ký, sử dụng tên miền quốc gia, trong đó Hà Nội và Hồ Chí Minh chiếm hơn 80% tổng số tên miền [1]. Theo khảo sát của Tổng cục Thuế, hầu hết các doanh nghiệp TMĐT có tốc độ tăng trưởng mạnh và đạt doanh thu cao, tuy nhiên nguồn thu ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp này không đáng kể. Cụ thể là đối với loại hình quảng cáo trực tuyến bằng Google, các doanh nghiệp thường không kê khai đầy đủ hoặc kê khai sai doanh thu thuế giá trị gia tăng, không kê khai thuế nhà thầu đối với dịch vụ của một số công ty đa quốc gia như Google, Yahoo, ... có phát sinh dịch vụ tại Việt Nam. Đối với loại hình kinh doanh thẻ điện thoại hoặc thẻ game online, chiết khấu thanh toán cho khách hàng theo tỷ lệ không phù hợp với khoản chiết khấu nhận được từ nhà cung cấp; một số các doanh nghiệp sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán các khoản phí dịch vụ nước ngoài không kê khai doanh thu tính thuế. Đa số các doanh nghiệp sử dụng website để quảng bá sản phẩm, hàng hóa, bán trực tiếp cho người tiêu dùng là cá nhân nhưng không xuất hóa đơn bán hàng, không kê khai doanh thu tính thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. 2.1. Công tác đăng ký, kê khai và nộp thuế Hiện nay, Việt Nam quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp – người nộp thuế tự kê khai hoạt động kinh doanh đăng ký trên tờ khai ban đầu và bổ sung khi có thay đổi. Do vậy, cơ quan thuế chỉ theo dõi được các hoạt động của người nộp thuế qua công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ. Đối với các hoạt động kinh doanh trên internet thì cơ quan thuế khó có thể giám sát, phát hiện được những sai phạm nếu các cá nhân, tổ chức thực hiện kinh doanh không đăng ký với cơ quan thuế. Điển hình là Công ty Cổ phần Giải pháp thanh toán Việt Nam, doanh thu năm 2012 đạt 803 tỷ đồng, nhưng số thuế GTGT năm 2012 chỉ là 1,8 tỷ đồng và số thuế TNDN đã nộp năm 2012 chỉ là 35 triệu đồng. Trong năm 2012, Cục Thuế Hà Nội tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với 08/26doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, cơ quan thuế đã giảm số thuế GTGT được khấu trừ 2,7 tỷ đồng; giảm lỗ 26,6 tỷ đồng và truy thu 8,7 tỷ đồng. Tương tự tại Cục Thuế TP Hồ Chí Minh, năm 2012 đã thanh tra 09 DN, qua đó đã kiến nghị giảm lỗ 2,5 tỷ và truy thu 1,8 tỷ đồng [1]. Theo quy định của Luật Quản lý Thuế, các chủ thể kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam đều phải khai thuế trước khi bắt đầu tiến hành các hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ vào Việt Nam cho tổ chức, cá nhân kinh doanh thì tổ chức, cá nhân kinh doanh trong nước là người mua sẽ phải khai thuế theo từng hợp đồng và khấu trừ nộp thay thuế cho doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, việc đăng ký thuế khi doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng ở Việt Nam

Transcript of QUẢN LÝ THUẾ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

Page 1: QUẢN LÝ THUẾ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

QUẢN LÝ THUẾ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

TAX ADMINISTRATION IN E-COMMERCE IN VIETNAM

Huỳnh Thị Kim Hà

Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin - Đại học Đà Nẵng; Email: [email protected]

Tóm tắt -Cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin thì hoạt động thương mại điện tử đang ngày càng phổ biến và dần chiếm ưu thế so với hoạt động kinh doanh truyền thống trước đây. Xuất phát từ tính chất đặc thù của thương mại điện tử đòi hỏi hệ thống pháp luật về thuế, năng lực cán bộ ngành thuế và cơ sở hạ tầng phục vụ công tác quản lý và thu thuế phải ngày càng hoàn thiện và được quan tâm đúng mức nhằm tránh thất thu cho ngân sách nhà nước và đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng. Bài viết trình bày thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam.

Từ khóa -thuế; pháp luật thuế; quản lý; công nghệ thông tin; thương mại điện tử

Abstract- Along with the continuous development of information technology, e-commerce activities is increasingly common and predominantin comparision with traditional business activities. Steming from the specific characteristics of e-commerce, therefore, requires in the completion of taxation system and infrastructure serving the tax administration and tax collection, higher qualification of tax officers in order to avoid losses to the state budget and ensure a fair business environment. This article outlines the situation and proposes some solutions to enhance the efficiency in tax management in e-commerce activities in Vietnam.

Key words -tax, tax laws, administration; information technology; e-commerce

1. Đặt vấn đề

Hiện nay, lĩnh vực kinh doanh thương mại điện tử

(TMĐT) tại Việt Nam đang ngày càng được mở rộng và đa

dạng về các chủng loại hàng hóa dịch vụ. Mặc dù hành lang

pháp lý hiện hành điều chỉnh hoạt động TMĐTđã tương

đối hoàn chỉnh, tuy nhiên, do tính chất đặc thù của TMĐT

nên cơ quan thuế đang gặp không ít khó khăn trong quá

trình quản lý và thu thuế đối với lĩnh vực này. Bài viết nêu

lên thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường

công tác quản lý thuế trong hoạt động TMĐT tại Việt Nam.

2. Thực trạng công tác quản lý thuế

Theo thống kê của Bộ Công thương, 99% doanh nghiệp

hiện nay đều có máy vi tính sử dụng trong hoạt động sản

xuất kinh doanh, trong đó 79% sử dụng đường truyền

internet tốc độ cao, 20% sử dụng mạng nội bộ riêng và có

trên 226.000 tên miền “.vn” đang duy trì thường xuyên,

đứng đầu trong khối ASEAN về số lượng đăng ký, sử dụng

tên miền quốc gia, trong đó Hà Nội và Hồ Chí Minh chiếm

hơn 80% tổng số tên miền [1].

Theo khảo sát của Tổng cục Thuế, hầu hết các doanh

nghiệp TMĐT có tốc độ tăng trưởng mạnh và đạt doanh

thu cao, tuy nhiên nguồn thu ngân sách nhà nước từ các

doanh nghiệp này không đáng kể. Cụ thể là đối với loại

hình quảng cáo trực tuyến bằng Google, các doanh nghiệp

thường không kê khai đầy đủ hoặc kê khai sai doanh thu

thuế giá trị gia tăng, không kê khai thuế nhà thầu đối với

dịch vụ của một số công ty đa quốc gia như Google, Yahoo,

... có phát sinh dịch vụ tại Việt Nam. Đối với loại hình kinh

doanh thẻ điện thoại hoặc thẻ game online, chiết khấu

thanh toán cho khách hàng theo tỷ lệ không phù hợp với

khoản chiết khấu nhận được từ nhà cung cấp; một số các

doanh nghiệp sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán các

khoản phí dịch vụ nước ngoài không kê khai doanh thu tính

thuế. Đa số các doanh nghiệp sử dụng website để quảng bá

sản phẩm, hàng hóa, bán trực tiếp cho người tiêu dùng là

cá nhân nhưng không xuất hóa đơn bán hàng, không kê

khai doanh thu tính thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập

doanh nghiệp.

2.1. Công tác đăng ký, kê khai và nộp thuế

Hiện nay, Việt Nam quản lý thuế theo cơ chế tự khai,

tự nộp – người nộp thuế tự kê khai hoạt động kinh doanh

đăng ký trên tờ khai ban đầu và bổ sung khi có thay đổi.

Do vậy, cơ quan thuế chỉ theo dõi được các hoạt động của

người nộp thuế qua công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ.

Đối với các hoạt động kinh doanh trên internet thì cơ quan

thuế khó có thể giám sát, phát hiện được những sai phạm

nếu các cá nhân, tổ chức thực hiện kinh doanh không đăng

ký với cơ quan thuế. Điển hình là Công ty Cổ phần Giải

pháp thanh toán Việt Nam, doanh thu năm 2012 đạt 803 tỷ

đồng, nhưng số thuế GTGT năm 2012 chỉ là 1,8 tỷ đồng và

số thuế TNDN đã nộp năm 2012 chỉ là 35 triệu đồng. Trong

năm 2012, Cục Thuế Hà Nội tiến hành thanh tra, kiểm tra

đối với 08/26doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, cơ quan thuế

đã giảm số thuế GTGT được khấu trừ 2,7 tỷ đồng; giảm lỗ

26,6 tỷ đồng và truy thu 8,7 tỷ đồng. Tương tự tại Cục Thuế

TP Hồ Chí Minh, năm 2012 đã thanh tra 09 DN, qua đó đã

kiến nghị giảm lỗ 2,5 tỷ và truy thu 1,8 tỷ đồng [1].

Theo quy định của Luật Quản lý Thuế, các chủ thể kinh

doanh trên lãnh thổ Việt Nam đều phải khai thuế trước khi

bắt đầu tiến hành các hoạt động kinh doanh. Các doanh

nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam

bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ vào Việt Nam cho tổ chức,

cá nhân kinh doanh thì tổ chức, cá nhân kinh doanh trong

nước là người mua sẽ phải khai thuế theo từng hợp đồng

và khấu trừ nộp thay thuế cho doanh nghiệp nước ngoài.

Tuy nhiên, việc đăng ký thuế khi doanh nghiệp nước ngoài

cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng ở Việt Nam

Page 2: QUẢN LÝ THUẾ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

hiện nay chưa được quy định cụ thể do điều này chỉ xảy ra

trong TMĐT theo nghĩa hẹp.

Về nguyên tắc, người mua không phải là người nộp

thuế đối với thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc

thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng do người bán ở ngoài

lãnh thổ Việt Nam nên việc yêu cầu đăng ký còn bị hạn

chế.

Các hoạt động mua bán hàng hoá truyền thống giữa

những người tiêu dùng hiện nay không phải là đối tượng

điều chỉnh của các loại thuế nên không phải đăng ký thuế.

Tuy nhiên, trong tương lai việc cung cấp dịch vụ trong

TMĐT qua hình thức C2C (giữa khách hàng và khách

hàng) hoặc C2B (giữa khách hàng và doanh nghiệp) phát

triển, nếu không quản lý và điều chỉnh sẽ gây thiệt thòi cho

những doanh nghiệp kinh doanh TMĐT và không tạo công

bằng trong môi trường kinh doanh [2].

2.2. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động TMĐT

Khác với hoạt động kinh doanh truyền thống, công tác

thanh tra, kiểm tra trong TMĐT đòi hỏi cán bộ thực hiện

phải có trình độ tin học, ngoại ngữ cao, phải am hiểu về các

ứng dụng, phần mềm hỗ trợ để tìm hiểu về các giao dịch,

kết xuất dữ liệu lịch sử giao dịch để làm bằng chứng. Tuy

nhiên, thực tế cho thấy khi tiến hành thanh tra, kiểm tra

hoạt động TMĐT, cơ quan thuế gặp một số trở ngại như:

tổ chức/cá nhân nộp thuế xóa dữ liệu hoặc không cung cấp

dữ liệu của máy chủ, trình độ tin học của cán bộ thanh tra

còn hạn chế nên rất khó khai thác được các khoản doanh

thu không kê khai hoặc kê khai chưa đầy đủ trong giao dịch

mua bán TMĐT trên hệ thống máy chủ hoặc mạng internet.

Thêm vào đó, với phương thức thanh toán trực tuyến

rất linh hoạt và đa dạng như hiện nay (ví điện tử, thẻ tín

dụng cá nhân, hệ thống thanh toán quốc tế paypal, ...), các

tổ chức/cá nhân có thể thực hiện được toàn bộ quy trình

giao dịch qua mạng internet. Tuy nhiên, do thiếu cơ chế

phối hợp cung cấp thông tin giữa cơ quan thuế và các ngân

hàng cung cấp dịch vụ thanh toán/các đơn vị làm trung gian

thanh toán nên việc thu thập thông tin dữ liệu về lịch sử

giao dịch, sao kê tài khoản ngân hàng rất khó khăn.

2.3. Nguồn nhân lực của cơ quan thuế

Với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin hiện nay,

hoạt động TMĐT và các hình thức kinh doanh TMĐT sẽ

ngày càng phát triển và đa dạng về hình thức. Điều này đòi

hỏi cán bộ ngành thuế trong quản lý thuế đối với hoạt động

TMĐT không những am hiểu về chuyên ngành thuế mà còn

phải thông thạo về công nghệ thông tin, internet, ngoại ngữ

để có thể theo kịp và có biện pháp quản lý phù hợp.

Hiện nay, chưa có công trình khảo sát thực tế về năng

lực cán bộ ngành thuế trong công tác quản lý hoạt động

TMĐT. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, những yêu cầu

trên đối với cán bộ ngành thuế là quá cao so với năng lực

thực tiễn.

3. Một số đề xuất đối với công tác quản lý thuế trong TMĐT

3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật thuế

Cần rà soát lại các văn bản pháp luật thuế hiện hành để

kịp thời hoàn thiện, sửa đổi cho phù hợp với sự phát triển

và tình hình hoạt động thực tế của các doanh nghiệp kinh

doanh TMĐT.Cụ thể là đối với hoạt động cung cấp dịch vụ

qua biên giới cho người tiêu dùng, cần có quy định doanh

nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ phải đăng ký thuế điện

tử với cơ quan thuế Việt Nam và trích tiền thuế khấu trừ

khi người mua trả tiền mua dịch vụ theo chính sách thuế

mà Việt Nam ban hành.

Cơ quan thuế cần nghiên cứu, nhận diện và phân nhóm

người nộp thuế theo các loại hình TMĐT điển hình để tập

trung nguồn lực quản lý. Trước hết cần chú trọng vào các

loại hình TMĐT đang phát triển mạnh và rủi ro cao như:

kinh doanh trò chơi trực tuyến, cung cấp dịch vụ quảng cáo

trực tuyến, sàn giao dịch TMĐT, cung cấp sản phẩm số.

Cần có các thông tư liên tịch về trao đổi thông tin với

các bộ, ngành (Bộ Công an, Bộ Công thương, Bộ Thông

tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước) có liên quan

đến lĩnh vực quản lý nhà nước về TMĐT để phục vụ hiệu

quả cho công tác quản lý thuế đối với lĩnh vực này. Cần có

cơ chế phối hợp với các công ty viễn thông, các công ty

hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, truyền dẫn,

cung cấp hạ tầng mạng, ... để trao đổi, thu thập thông tin

của các đơn vị có hoạt động TMĐT.

Cần tập trung giải quyết các vấn đề thi hành quyền đánh

thuế theo quốc gia vì TMĐT là giao dịch trong không gian

ảo, là thị trường không biên giới. Do đó, cần xây dựng cơ

chế chia sẻ thông tin, hợp tác giữa các quốc gia để tránh

xung đột với các nước khác trên thế giới và tránh đánh

thuế trùng đối với các giao dịch qua internet [3].

3.2. Công tác thanh tra, kiểm tra

Giao dịch TMĐT B2C và C2C là hai hình thức giao

dịch phổ biến hiện nay tại Việt Nam vốn đang tiềm ẩn

nhiều rủi ro về thuế. Vì thế cần tập trung quản lý đối với

hai loại hình giao dịch này. Đối với giao dịch B2C, ưu tiên

kiểm soát các giao dịch qua thị trường mở, mạng xã hội,

trang mua sắm cá nhân, cửa hàng ứng dụng. Cần tập trung

phân tích các đặc điểm của các loại hình giao dịch này

nhằm phát hiện các phương thức trốn thuế. Đối với giao

dịch C2C, cần đặc biệt quan tâm, tính toán đến hiệu quả

công tác quản lý do chi phí bỏ ra trên mỗi đồng thuế thu

được là rất cao [3].

Về phương pháp điều tra, cơ quan thuế cần nắm bắt và

thu thập từ máy chủ cơ sở dữ liệu các giao dịch TMĐT:

thông tin người sử dụng, thực tế mua bán sản phẩm, thông

tin liên quan đến thanh toán thẻ tín dụng, hàng tồn, nội

dung chuyển hàng, ... Quy trình điều tra thuế đối với giao

dịch TMĐT được áp dụng đồng nhất như với các giao dịch

thương mại truyền thống.

3.3. Tăng cường hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại cho công tác quản lý thuế:

Cần đầu tư thiết lập hạ tầng công nghệ thông tin hiện

đại cho công tác quản lý thuế TMĐT nhằm xây dựng nền

tảng để thực thi chính sách thuế chặt chẽ, công bằng và

minh bạch, phòng ngừa trốn thuế hiệu quả, đồng thời tạo

thuận lợi cho người nộp thuế nhờ các dịch vụ đa dạng. Xây

dựng cơ sở dữ liệu và triển khai rộng rãi các dịch vụ thuế

điện tử như khai thuế điện tử, hoá đơn điện tử, nộp thuế

online… đảm bảo 100% người nộp thuế đều có điều kiện

tiếp cận các phương tiện này.

Page 3: QUẢN LÝ THUẾ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

3.4. Tăng cường năng lực cho cán bộ quản lý thuế:

Cơ quan thuế cần lập bộ phận chuyên trách về TMĐT

để triển khai công tác quản lý thuế. Trước mắt, cần tăng

thêm nguồn nhân lực để tăng cường năng lực cho bộ phận

chuyên trách quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT, và tổ

chức các buổi tập huấn/hội thảo về chủ đề quản lý thuế

trong TMĐT nhằm qua đó nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho

cán bộ quản lý thuế; đồng thời thường xuyên xây dựng các

chương trình đào tạo chuyên sâu nhằm trang bị cho công

chức thuế các kiến thức về TMĐT và công nghệ thông tin,

đào tạo về kỹ năng khai thác dữ liệu điện tử để phục vụ

công tác thanh tra, kiểm tra..

4. Kết luận

Quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT là tiền đề quan

trọng để Việt Nam hoàn thiện hệ thống chính sách thuế

hiện nay. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý, đổi mới

phương thức thanh tra, kiểm tra trên cơ sở ứng dụng công

nghệ thông tin, nâng cao năng lực cán bộ thuế là những

việc làm cấp bách để ngành thuế thực thi hiệu quả công tác

quản lý thuế nhằm góp phần tăng nguồn thu chủ yếu cho

ngân sách nhà nước.

Tài liệu tham khảo

[1] Quản lý thuế thương mại điện tử yêu cầu cấp thiết, http://tapchithue.com.vn/dien-dan-nghiep-vu/159-dien-dan-nghiep-vu/3397-quanly-thue-tndt.html

[2] Chính sách thuế về thương mại điện tử: Cần tiếp tục hoàn thiện, http://socongthuongtayninh.gov.vn/thuong-mai-dien-tu/Tin%20thuong%20mai%20dien%20tu/chinh-sach-thue-ve-thuong-mai-111ien-tu-can-tiep-tuc-hoan-thien

[3] Quản lý thuế đối với thương mại điện tử: Kinh nghiệm của Hàn Quốc, http://tapchithue.com.vn/dien-dan-nghiep-vu/159-dien-dan-nghiep-vu/3438-kinh-nghiem-quanly-thue-tmdt-han-quoc.html

[4] Một số vấn đề ảnh hưởng của thương mại điện tử đến hệ thống pháp luật thuế Việt Nam, http://luatminhkhue.vn/sang-che/mot-so-van-de-ve-anh-huong-cua-thuong-mai-dien-tu-den-he-thong-phap-luat-thue-viet-nam.aspx

[5] Khó chặn gian lận thuế trong kinh doanh thương mại điện tử, http://www.baohaiquan.vn/pages/kho-chan-gian-lan-thue-trong-kinh-doanh-thuong-mai-dien-tu.aspx

Page 4: QUẢN LÝ THUẾ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM