PHI THAI HỌC ĐẠI CƯƠNG2016/06/14 · mô ống sinh tinh có chứa các tinh nguyên bào....
Transcript of PHI THAI HỌC ĐẠI CƯƠNG2016/06/14 · mô ống sinh tinh có chứa các tinh nguyên bào....
-
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
BỘ MÔN MÔ PHÔI
PHÔI THAI HỌC
ĐẠI CƯƠNG
Biên soạn:
ThS.Trần Kim Thương
ThS. Lê Phương Thảo
2012
--------------- Lưu hành nội bộ ---------------
https://www.facebook.com/EbookYKhoa
-
2
MỤC LỤC
TÊN BÀI TRANG
Bài 1: Sự hình thành giao tử và sự thụ tinh ............................................. 3
1.1. Sự hình thành giao tử .................................................................. 3
1.2. Sự di chuyển của giao tử và sự thụ tinh .................................... 17
Bài 2: Phân cắt phôi bào và làm tổ ........................................................ 24
2.1. Sự phân cắt phôi sau khi thụ tinh đến lúc làm tổ ...................... 24
2.2. Diễn biến quá trình làm tổ của phôi .......................................... 27
Bài 3: Sự hình thành và phát triển các lá phôi ...................................... 30
3.1. Sự tạo ra đĩa phôi hai lá ............................................................ 30
3.2. Sự phát triển phôi trong tuần thứ 3 – giai doạn phôi vị ............ 33
Bài 4: Các phần phụ của phôi .............................................................. 42
4.1. Sự thay đổi ở nguyên bào nuôi ................................................ 42
4.2. Đĩa đệm và màng rụng đáy ....................................................... 45
4.3 Nhau .......................................................................................... 46
4.4 Màng ối và dây rốn ................................................................... 55
4.5 Sự thay đổi của bánh nhau ........................................................ 56
4.6 Dịch ối ....................................................................................... 57
-
3
BÀI 1
SỰ HÌNH THÀNH GIAO TỬ VÀ SỰ THỤ TINH
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này sinh viên phải:
1. Kể được 3 giai đoạn hình thành giao tử.
2. Mô tả chi tiết sự hình thành giao tử ở người nữ qua các giai đoạn.
3. Mô tả chi tiết quá trình hình thành tinh trùng qua các giai đoạn.
4. Mô tả được quá trình trứng được thụ tinh.
NỘI DUNG
1. SỰ HÌNH THÀNH GIAO TỬ
Sự hình thành giao tử (quá trình tạo giao tử, tạo giao tử) từ thời kỳ phôi
thai đến khi trưởng thành trải qua 3 giai đoạn: (1) Sự di cư tế bào mầm từ
ngoài phôi (ở túi noãn hoàng) đến các tuyến sinh dục nguyên thủy, (2)
nguyên phân tăng số lượng tế bào mầm, (3) giảm phân và thay đổi cấu trúc,
chức năng của giao tử. Giai đoạn 1 giống nhau ở cả hai giới, 2 giai đoạn
sau thì có sự khác biệt giữa nam và nữ.
1.1. Giai đoạn 1: Di cư tế bào mầm (germ cell)
Các giao tử được bắt nguồn từ tế bào mầm nguyên thủy (primordial
germ cells), chúng được hình thành từ nguyên ngoại bì (epiblast) trong tuần
lễ thứ 2 của thai kỳ sau đó di chuyển đến nằm trong thành của túi noãn
hoàng. Từ tuần thứ tư đến tuần thứ năm của thai kỳ, những tế bào mầm này
rời túi noãn hoàng di cư qua biểu mô ruột sau rồi theo mạc treo ruột sau
đến các tuyến sinh dục nguyên thủy.
Các tế bào mầm nguyên thủy di cư sai vị trí không đến tuyến sinh dục
nguyên thủy sẽ bị chết, nếu sống chúng sẽ tạo u quái (teratomas) là hỗn hợp
-
4
mô được biệt hóa gồm da, tóc, xương, sụn, răng, thường có ở vùng trung
thất, cùng-cụt và miệng.
Hình 1. Hình ảnh phôi cuối tuần thứ 3, chỉ ra hình ảnh của tế bào mầm
nguyên thủy ở trong thành của túi noãn hoàng.
1.2. Giai đoạn 2: Nguyên phân tăng số lượng tế bào mầm
Sau khi đến tuyến sinh dục nguyên thủy các tế bào mầm nguyên thủy
nhanh chóng nguyên phân tạo các tế bào lưỡng bội (2n) có bộ gen giống
nhau. Số lượng tế bào mầm tăng lên hàng trăm, hàng triệu.
Quá trình nguyên phân thì giống nhau giữa các loại tế bào mầm sinh
dục, tất cả đều trải qua các pha như ở hình 2. Nhưng có sự khác biệt ở nam
và nữ là tuổi bắt bắt đầu nguyên phân lần đầu tiên, thời điểm kết thúc
không còn nguyên phân nữa và số lần nguyên phân của tế bào mầm.
Đuôi phôi
Khoang ối
Tế bào mầm nguyên
thủy trong thành túi
noãn
Niệu nang
Dây rốn nguyên thủy
Đầu phôi
Tim
Túi noãn hoàng
Đuôi phôi
Khoang ối
-
5
Hình 2. Sơ đồ nguyên phân
1.2.1. Nguyên phân tế bào mầm ở nữ
Nguyên phân bắt đầu từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 5 của thai kỳ, xảy
ra ở buồng trứng nguyên thủy. Trong giai đoạn này số lượng tế bào mầm có
khoảng vài ngàn đến tối đa khoảng 7 triệu. Tại thời điểm đạt số lượng đó,
các tế bào mầm nguyên thủy (noãn bào nguyên thủy) bắt đầu chết. Đến
tháng thứ 7 phần lớn chúng đã bị thoái hóa ngoại trừ một số ở gần bề mặt
của buồng trứng. Tất cả các noãn bào nguyên thủy còn sống được đi vào kỳ
trước của giảm phân I, hầu hết chúng được bao bọc xung quanh bởi 1 lớp tế
bào biểu mô lát, noãn bào nguyên thủy cùng với biểu mô lát đơn được gọi
là nang noãn nguyên thủy (nang trứng nguyên thủy).
Nhiễm sắc thể Trung tử Nhiễm sắc thể đôi
Kỳ trung gian Kỳ đầu Kỳ giữa
Kỳ sau (phân chia
NST) Kỳ cuối Hai tế bào con
-
6
1.2.2. Nguyên phân tế bào mầm ở nam
Nguyên phân diễn ra suốt đời, bắt đầu ở tinh hoàn nguyên thủy. Biểu
mô ống sinh tinh có chứa các tinh nguyên bào. Đến tuổi dậy thì sẽ có từng
nhóm các tinh nguyên bào tham gia vào chu kỳ nguyên phân từng đợt và
lặp lại theo chu kỳ gần như trong suốt cuộc đời người nam.
1.3. Giai đoạn 3: Giảm phân và thay đổi cấu trúc, chức năng của giao
tử. Giảm phân trải qua 2 lần phân chia tế bào là giảm phân I và giảm phân
II.
Ở giảm phân I, DNA cũng được nhân đôi, các kỳ diễn ra tương đối
giống như ở nguyên phân nhưng khác ở chỗ là các nhiễm sắc thể tham gia
trao đổi chéo, chuyển đổi các đoạn giữa các nhiễm sắc thể với nhau trong
kỳ trước, đến kỳ sau thì các nhiễm sắc thể của mỗi cặp tương đồng sẽ di
chuyển về các cực của thoi phân bào đối nhau, mà không phân ly ở chỗ tâm
động như trong nguyên phân làm cho các tế bào con có chất liệu di truyền
không bằng nhau sau giảm phân I. Kỳ cuối, nhiễm sắc thể giữ nguyên số
lượng và đi vào các kỳ của giảm phân II mà không nhân đôi.
-
7
Hình 3. Các giai đoạn của giảm phân
Ở giảm phân II, các nhiễm sắc thể cũng sắp xếp trên mặt phẳng xích đạo
(kỳ giữa giảm phân II) và sau đó tách ra ở tâm động để mỗi chiếc đơn đi về
2 cực của tế bào hình thành nên các giao tử mang bộ nhiễm sắc thể đơn bội
(1n).
-
8
Hình 4. Sơ đồ so sánh nguyên phân và giảm phân
1.3.1. Diễn biến và thời điểm giảm phân ở nữ
Giảm phân diễn ra chậm và muộn, thời điểm gần sinh tất cả các
nguyên noãn bào (noãn bào nguyên thủy – primary oocyte) đi vào kỳ trước
của giảm phân I, các nguyên noãn bào ở kỳ trước giảm phân I gọi là
nguyên bào I (nang trứng nguyên thủy) có bộ nhiễm sắc thể 4n, tiếp theo
đó chúng dừng lại ở giai đoạn này và chuyển sang trạng thái diplotene, quá
trình giảm phân ngừng lại lần một.
Trạng thái diplotene là giai đoạn nghỉ ngơi trong suốt kỳ trước
được đặc trưng bởi các nhiễm sắc thể ngưng tụ ở mức độ thấp hơn kỳ trước
của giảm phân I, các cặp nhiễm sắc thể tương đồng liên kết chặt với nhau
tại vị trí bắt chéo (sẽ xảy ra chuyển đoạn nhiễm sắc thể khi phân ly). Các
nguyên noãn bào vẫn ở trạng thái nghỉ ngơi và không tiếp tục giảm phân
cho đến tuổi dậy thì. Trạng thái này có được là do chất ức chế sự trưởng
thành của nang trứng (ức chế giảm phân), 1 loại peptide nhỏ được tạo ra
-
9
bởi những tế bào nang dẹt của biểu mô lát đơn. Chất ức chế giảm phân này
được chuyển từ nang bào sang noãn bào bởi các liên kết khe giữa noãn bào
và tế bào nang. Sự ức chế giảm phân này chấm dứt trước rụng trứng khi
các hormon hoàng thể (LH) do tuyến yên tiết ra tăng vọt đột ngột phá vỡ
các liên kết khe. Noãn bào chịu tác động bởi sự tăng trưởng của các nang
bào, đặc biệt khi nang trứng chín.
Số lượng nang noãn nguyên thủy tại thời điểm sinh có khoảng
600.000 đến 800.000. Trong suốt tuổi nhi đồng (trước tuổi dậy thì) các
nang trứng nguyên thủy tiếp tục thoái triển, đến tuổi dậy thì còn khoảng
400.000, trong số này thì sẽ có ít hơn 500 nang trứng nguyên thủy tiến triển
đến chín, số còn lại sẽ bị thoái triển trong các giai đoạn trưởng thành của
nang trứng trước khi trứng chín.
Các nang trứng sẽ lần lượt đi vào trưởng thành (chín) vì vậy có
những nang trứng sẽ tồn tại ở trạng thái diplotene hơn 40 năm mới đi vào
chín. Mặc dù giai đoạn diplotene là giai đoạn thích hợp nhất để bảo vệ
những nang trứng chống lại sự ảnh hưởng của môi trường. Nhưng thực ra
vẫn có nguy cơ bất thường về nhiễm sắc thể ở những nang trứng được cất
giữ lâu trong trạng thái diplotene. Nói cách khác, nang trứng càng lâu đi
vào quá trình chín thì càng có nhiều nguy cơ bất thường các vật chất di
truyền bên trong noãn bào, vì vậy phụ nữ càng lớn tuổi (>35tuổi), càng có
nhiều nguy cơ sinh ra những đứa con bị bất thường về nhiễm sắc thể.
Hình 5. A. Tế bào mầm nguyên thủy; B. Tế bào noãn nguyên thủy; C. Tế
bào noãn nguyên thủy ở ở kỳ trước giảm phân I.
-
10
Hình 6. Nang noãn nguyên thủy ở tháng thứ 4 (A), tháng thứ bảy của thai
kỳ (B) và lúc mới sinh (C).
Đến tuổi dậy thì, mỗi tháng có khoảng 15 – 30 nang trứng nguyên
thủy bắt đầu đi vào giai đoạn trưởng thành, trải qua 3 giai đoạn: (1) nang
trứng sơ cấp, (2) nang trứng thứ cấp (3) nang trứng trước khi chín. Trong
đó giai đoạn 2 là dài nhất, trong khi giai đoạn trước khi rụng trứng cách
khoảng 37 giờ trước khi rụng trứng.
Khi nang noãn nguyên thủy bắt đầu phát triển, tế bào nang trứng
xung quanh thay đổi hình dạng từ hình lát sang hình khối (lúc này gọi tên
là nang trứng sơ cấp) và bắt đầu tăng sinh thành biểu mô tầng với những
tế bào chứa hạt chế tiết bên trong (tế bào hạt hay hạt bào). Các nang bào
tựa trên 1 màng đáy ngăn cách chúng với các tế bào đệm xung quanh (mô
liên kết), tất cả tạo thành vỏ nang. Chúng cũng cùng với noãn bào chế tiết
ra 1 lớp glycoprotein trên bề mặt của noãn bào, đó chính là màng trong suốt
(zona pellucida).
Tiếp tục phát triển thành nang trứng thứ cấp, các tế bào của vỏ
nang tạo thành 2 lớp: lớp trong gồm những tế bào chế tiết gọi là vỏ trong
(theca interna) có nhiều mao mạch máu cung cấp dinh dưỡng để tế bào
-
11
nang trứng phát triển và lớp vỏ sợi ngoài (theca externa) có nhiều mô liên
kết. Các nhánh bào tương của tế bào nang có khuynh hướng xuyên qua
màng trong suốt, tiếp xúc với noãn bào để vận chuyển vật chất từ tế bào
nang vào trong noãn.
Hình 7. A. nang trứng nguyên thủy; B. nang trứng đang phát triển (sơ cấp);
C. nang trứng đặc
Nang trứng tiếp tục phát triển, các nang bào tiếp tục phân chia và có
sự xuất hiện các khoang dịch giữa các nang bào, tạo nên những cái hốc,
ngày một lớn lên theo thời gian. Các nang bào xung quanh noãn vẫn được
duy trì và hình thành gò noãn. Lúc trưởng thành nang trứng có hốc có thể
có đường kính hơn 25mm.
Các tế bào nang lớp vỏ trong của nang trứng có khả năng chế tiết các
steroid. Các tế bào này có thụ thể tiếp nhận LH của tuyến yên để điều khiển
chế tiết androgen (testosterone) đi qua màng đáy, đến các tế bào hạt ở vỏ
ngoài gặp các enzym aromatase do các tế bào này tiết ra dưới sự điều khiển
của FSH biến androgen thành estradiol. Estradiol rời khỏi nang trứng đến
các vùng khác ở cơ thể đồng thời kích thích tạo các thụ thể tiếp nhận LH ở
các hạt bào, nhờ vậy các hạt bào có khả năng đáp ứng với một lượng LH
tăng vọt để kích thích rụng trứng.
Màng trong suốt àng trMong suốt
đang hình thành
Tế bào
nang vuông Tế bào nang dẹt
Nhân của
nang trứng
nguyên thủy
Mô liên kết quanh nang trứng
A B C
Màng tong suốt
đang hình thành
Màng trong suốt
-
12
Một số nang trứng trong số 15- 30 nang đi vào giai đoạn trưởng
thành tiếp tục phát triển, rồi cuối cùng chỉ có một vài nang trứng trưởng
thành đến chín, số còn lại sẽ teo đi và để lại vết tích trên buồng trứng. Khi
nang trứng thứ cấp trưởng thành, LH tăng đến cực đỉnh sẽ đưa nang trứng
vào giai đoạn trước rụng trứng. Giảm phân I hoàn thành, kết quả cho ra 1 tế
bào noãn mới (noãn thứ cấp) chứa hầu hết tế bào chất từ tế bào mẹ và 1 cực
cầu chứa 23 cặp nhiễm sắc thể (cực cầu 1 - nằm giữa màng trong suốt và
màng đáy của nang bào). Sau đó, noãn bào đi vào giảm phân II nhưng nghỉ
ở kỳ giữa II khoảng 3 giờ trước khi rụng trứng. Giảm phân II hoàn thành
khi noãn bào được thụ tinh, noãn có thể duy trì khoảng 24 giờ sau khi rụng
trứng. Cực cầu 1 cũng sẽ phân chia tạo 2 cực cầu mang bộ NST 1n.
Hình 8. Giảm phân ở nang trứng đang trưởng thành
1.3.2. Diễn biến và thời điểm giảm phân ở nam:
Lúc mới sinh, những tế bào mầm phát sinh giao tử nằm trong tinh
hoàn của đứa bé trai, nó được bao quanh bởi những tế bào nâng đỡ (tế bào
Sertoli) nằm ở đáy biểu mô tinh. Việc tạo tinh trùng được bắt đầu lúc dậy
thì ở các ống sinh tinh của tinh hoàn. Quá trình này khởi đầu bằng nguyên
phân các tinh nguyên bào.
Trước khi dậy thì 1 thời gian ngắn, ống sinh tinh được hình thành có
lòng rõ rệch từ những dây đặc (gọi là sex cord) chứa các tế bào mầm.
Noãn sơ cấp
phân chia
Noãn thứ cấp và thể
1 thể cực Thể cực phân chia
Noãn thứ cấp
phân chia
Đám tế bào hạt
quanh noãn Màng trong suốt
-
13
Trong khoảng thời gian đó, những tế bào mầm nguyên thủy bắt đầu
nguyên phân vài lần (tế bào có khả năng nguyên phân gọi là tinh nguyên
bào A) cuối cùng tạo ra các tinh nguyên bào B không còn khả năng
nguyên phân nữa mà sẽ đi vào giảm phân tạo tinh trùng. Vì vậy tinh
nguyên bào A còn được xem là tế bào gốc tạo tinh trùng có khả năng
nguyên phân và bảo tồn số lượng trong suốt cuộc đời người nam.
Các tinh nguyên bào B bắt đầu giảm phân kích thước to lên (lúc này
có thể gọi tên là tinh bào I – primary spermatocyte) và đi vào kỳ trước của
giảm phân I rồi nghỉ ở trạng thái giống diplotene khoảng 22 ngày, sau đó
nhanh chóng hoàn thành giảm phân I và hình thành tinh bào II (secondary
spermatocytes). Tinh bào II tiếp tục giảm phân II tạo tiền tinh trùng mang
bộ nhiễm sắc thể 1n. Tóm lại, từ tinh nguyên bào A giảm phân cho ra các
tiền tinh trùng (tinh tử). Các tinh tử không phân chia nữa nhưng sẽ đi vào 1
quá trình biệt hóa thành tinh trùng trong các hốc của tế bào Sertoli. Tế bào
Sertoli có nhiệm vụ nâng đỡ, bảo vệ các tinh trùng, tham gia cung cấp dinh
dưỡng và hỗ trợ sự trưởng thành của tinh trùng.
-
14
Hình 9. Sơ đồ tạo giao tử ở nam và nữ
Sự tạo tinh trùng được chi phối bởi LH và FSH của tuyến yên. LH
gắn kết với các receptor trên tế bào Leydig và kích thích sản xuất
testosterone để gắn kết với những tế bào Sertoli thúc đẩy biệt hóa tinh
-
15
trùng. FSH rất cần thiết vì nó gắn kết với các thụ thể trên tế bào Sertoli kích
thích sản xuất tinh dịch và kích hoạt tổng hợp protein receptor androgen
nội bào.
Các nhánh tế bào Sertoli nối với nhau tạo hàng rào máu tinh hoàn
ngăn để tách biệt các tế bào dòng tinh đang trưởng thành với hệ miễn dịch
của cơ thể. Chính vì thế khi giảm phân các tinh nguyên bào B không chịu
tác động của miễn dịch của cơ thể. Vô sinh do miễn dịch xảy ra nếu hàng
rào máu – tinh hoàn bị hỏng.
Hình 10. Các tế bào dòng tinh trong biểu mô tinh với tế bào Sertoli.
Sự chuyển dạng tinh tử thành tinh trùng có các thay đổi ở nhân và
bào tương. Nhân giảm kích thước và cô đặc nhiễm sắc chất do histon được
thay bằng protamin. Bào tương giảm số lượng, các bộ golgi tập trung về
vùng đỉnh nhân tạo cực đầu chứa các enzym có chức năng thụ tinh. Ở cực
-
16
đối lại, đuôi hình thành từ vị trí trung tử. Các ti thể sắp xếp xoắn quanh
đoạn gần của đuôi. Các đầu gắn (domain) hình thành ở protein màng bào
tương tinh trùng. Các đầu gắn protein màng bào tương này thay đổi trong
khi tinh trùng di chuyển bên trong đường sinh dục nữ. Bào tương tinh tử
mất dần dưới dạng các thể vùi bong ra và tạo đuôi, các thể vùi sẽ được tế
bào Sertoli thực bào.
Hình 11. Sơ đồ biệt hóa tinh trùng từ tinh tử
Trước đây người ta cho rằng không có sự biểu hiện gen ở các tinh
trùng. Hiện nay các nghiên cứu đã chứng minh các tinh tử không những có
mà còn thường xuyên có biểu hiện gen. Hàng trăm loại protein được tạo ra
trong và sau giảm phân II.
Tổng thời gian cho việc tạo được 1 tinh trùng hoàn chỉnh với hình
dạng và chức năng đầy đủ (tính từ lúc bắt đầu giảm phân) khoảng 64-74
ngày. Mỗi ngày có khoảng 300 triệu tinh trùng được tạo ra. Tinh trùng có
đầu (đường kính ngang khoảng 2-3µm, dài khoảng 4-5 µm) chứa nhân và
cực đầu, đoạn giữa có các trung tử, đoạn gần của đuôi có các ti thể xếp
xoắn ốc, đuôi dài 5 µm cấu tạo đặc thù tiêm mao.
-
17
Sau khi được biệt hóa hoàn chỉnh, tinh trùng còn ở ống sinh tinh
chưa có khả năng tự chuyển động và không thể thụ tinh. Từ ống sinh tinh,
tinh trùng được chuyển đến mào tinh hoàn nhờ dịch tiết ống sinh tinh. Lúc
ở mào tinh hoàn, tinh trùng trưởng thành thêm về sinh hóa, được bao bởi
lớp glycoprotein và sửa đổi protein bề mặt vùng đầu. Bên trong đường sinh
dục nữ, lớp glycoprotein bị loại bỏ do cắt bởi màng bào tương đầu tinh
trùng để tinh trùng có thể thụ tinh. Các biến đổi sinh hóa tiếp theo sau khi
tinh trùng được phóng tinh, ở trong hỗn hợp dịch giàu năng lượng gồm
dịch tiết tiền liệt tuyến và dịch tiết túi tinh, từ lúc này tinh trùng có thể tự di
chuyển.
Khoảng 10% tổng số tinh trùng bất thường do sai sót trong quá trình
biệt hóa gồm tinh trùng có 2 đầu, cụt đuôi hay đầu to nhỏ bất thường. Tinh
trùng bất thường không có khả năng thụ tinh. Nếu tỉ lệ tinh trùng bất
thường trên 20% thì khả năng thụ tinh giảm.
2. SỰ DI CHUYỂN CỦA GIAO TỬ VÀ SỰ THỤ TINH:
2.1. Sự di chuyển của trứng:
Khoảng giữa chu kỳ kinh nguyệt, nang trứng chín có noãn bào ngừng ở
kỳ giữa của giảm phân I di chuyển lên bề mặt buồng trứng. Dưới tác động
của FSH và LH, nang trứng phình to nhanh chóng. Giảm phân I kết thúc,
noãn bào II tiến triển đến kỳ giữa và ngừng lại lần thứ 2. Sau giảm phân I
cực cầu được đẩy ra ngoài, nang trứng nhô lên bề mặt buồng trứng, đỉnh
nhô gọi là điểm vỡ.
Giữa chu kỳ kinh nguyệt, nồng độ LH tăng vọt kích thích sự rụng trứng.
Trong vòng vài phút sau khi nồng độ LH đạt đỉnh điểm, nguồn máu cung
cấp cho vỏ ngoài nang trứng và buồng trứng tăng, làm cho các protein
huyết tương rò rỉ qua các mao mạch máu gây phù mô đệm. Sự phù nề cùng
với tác động của các chất prostaglandin, histamine và vasopressin dẫn đến
chuỗi phản ứng tạo enzym collagenase. Cùng lúc các tế bào hạt chế tiết
-
18
acid hyaluronic làm lỏng lẻo lớp hạt bào. Phân giải collagen, thiếu máu và
chết một số nang bào làm nang trứng suy yếu, áp suất dịch nang trứng tăng
lên (15-20mmHg) cùng sự co thắt của các tế bào dạng cơ trơn làm vỡ nang
trứng tại thời điểm 28-36 giờ sau khi LH tăng vọt.
Sự rụng trứng tống xuất cả dịch nang trứng và noãn bào ra khỏi buồng
trứng vào khoang bụng. Khối mô tống xuất không chỉ có noãn bào mà còn
có màng trong suốt, vòng tia (2-4 tế bào nang quanh noãn) và chất nền dễ
dính bao quanh gò noãn. Bình thường chỉ có 1 nang trứng rụng, nếu có trên
2 nang trứng rụng sẽ tạo điều kiện sinh đa thai khác trứng.
Một số người nữ có cơn đau bụng khi rụng trứng gọi là cơn đau
“giữa kỳ kinh” hay có xuất huyết lượng ít do nang trứng vỡ. Một dấu hiệu
nữa của sự rụng trứng là tăng thân nhiệt, thường để tránh giao hợp vào các
ngày có rụng trứng.
Ngay trước thời điểm trứng rụng, vòi tử cung tăng số lượng tế bào
biểu mô trụ có lông chuyển, tăng hoạt động cơ trơn, mạc treo buồng trứng
dài ra do tác động của hormon. Khi rụng trứng các tua vòi áp sát và quét
qua bề mặt buồng trứng. Hiện tượng này cùng với sự hình thành các tế bào
trụ có lông chuyển giúp bắt trứng dễ dàng.
Hình 12. Loa vòi bắt trứng rụng
Nang trứng đang
phát tiển Vòi tử cung
Nguyên phân lần 2 ở
trứng đã rụng
Đám tế bào quanh noãn
Loa vòi
Nang trứng
rụng
Tua vòi
-
19
Khi vào vòi tử cung, nang trứng rụng được di chuyển về phía tử cung
nhờ: sự co thắt của cơ trơn thành vòi, các tế bào trụ có lông chuyển, dịch
tiết ở vòi tử cung cùng sự cuốngg theo dòng dịch từ ổ bụng do loa vòi hấp
thu vào.
Nang trứng di chuyển trong vòi tử cung 3-4 ngày, không phụ thuộc thụ
tinh hay không thụ tinh và nó có 2 giai đoạn: (1) giai đoạn di chuyển chậm
ở bóng vòi (khoảng 72 giờ) và (2) giai đoạn di chuyển nhanh ở eo vòi
(khoảng 8 giờ); sau khi qua eo vòi, nang trứng rụng đi vào lòng tử cung.
Chưa rõ cơ chế yếu tố phù nề niêm mạc và giảm co thắt cơ trơn kìm giữ
nang trứng rụng chậm đi vào eo vòi nhưng khi có progesterone thì đoạn nối
eo vòi giãn ra để nang trứng rụng đi qua.
Khoảng 80 giờ sau khi rụng trứng, nang trứng rụng (hoặc phôi) di
chuyển tới vòi tử cung. Nếu không có thụ tinh, nang trứng sẽ thoái triển và
được thực bào.
2.2. Sự di chuyển của tinh trùng:
Khi phóng tinh, tinh trùng di chuyển nhanh qua ống phóng tinh, hòa vào
dịch tiết của túi tinh và tuyến tiền liệt. Dịch tiết tuyến tiền liệt có nhiều acid
citric, acid phosphatase, các ion kẽm, magnesium, prostaglandin và có
nhiều fructose (nguồn năng lượng chính cho tinh trùng). Mỗi lần phóng
tinh có khoảng 2-6ml tinh dịch cùng với 40-250 triệu tinh trùng nhưng chỉ
có khoảng 25 triệu tinh trùng có khả năng thụ tinh. Sau phóng tinh, tinh
trùng tụ lại đoạn trên của âm đạo. Trong tinh dịch có hệ đệm để bảo vệ tinh
trùng không bị tác động bởi acid âm đạo (pH=4.3). Ở người tác dụng đệm
chỉ kéo dài khoảng vài phút đủ cho tinh trùng có thể đi vào cổ tử cung.
Chỉ khoảng 1% tinh trùng sau phóng tinh đi vào cổ tử cung. Thông
thường sự di chuyển của tinh trùng từ cổ tử cung đến vòi tử cung chủ yếu
do sự vận động của chính bản thân nó và có thể có sự hỗ trợ của dịch được
tạo ra ở tử cung và vòi tử cung. Cuộc hành trình của tinh trùng từ cổ tử
-
20
cung đến vòi tử cung tối thiểu mất 2-7 giờ. Sau khi đến đoạn eo của vòi thì
tinh trùng di chuyển chậm lại hoặc tạm thời không di chuyển. Đến khi rụng
trứng, tinh trùng bắt đầu di chuyển tiếp tục đến đoạn bóng nơi mà thụ tinh
sẽ xảy ra, có thể có những chất hấp dẫn từ trứng do các nang bào tiết ra
(hiện tượng hóa hướng động).
2.3. Sự thụ tinh:
Khi gặp trứng, tinh trùng cũng không thể thụ tinh ngay lập tức mà còn
phải hoạt hóa (capacitation) và phản ứng cực đầu (acrosome reation).
Hoạt hóa là dựa vào điều kiện của đường sinh dục nữ, giai đoạn này tối
thiểu khoảng 7 giờ. Trong số nhiều yếu tố dẫn đến hoạt hóa thì yếu tố dịch
tiết trong đường sinh dục nữ (của vòi tử cung) là quan trọng, nó giúp cho
tinh trùng tách bỏ lớp áo khoác glycoprotein và những protein của tinh dịch
bám ở cực đầu tinh trùng. Chỉ có những tinh trùng đã được hoạt hóa mới có
thể vượt qua những tế bào ở vành tia và tiếp tục phản ứng cực đầu.
Phản ứng cực đầu xảy ra sau khi tinh trùng gắn kết với màng trong
suốt tại những receptor trên mặt ngoài màng trong suốt. Đỉnh điểm của
phản ứng là phóng thích enzym ở cực đầu cần cho sự phá vỡ màng trong
suốt, chúng bao gồm acrosin và chất giống như trypsin.
Nhìn chung quá trình thụ tinh diễn ra gồm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Sự xâm nhập của tinh trùng qua vành tia.
Có khoảng 300 đến 500 tinh trùng đến gặp trứng và tham gia vào thụ
tinh nhưng cuối cùng chỉ có 1 tinh trùng thụ tinh với trứng. Nói cách khác
sự thụ tinh là tinh trùng vượt qua những rào cản bảo vệ noãn.
+ Giai đoạn 2: Sự xâm nhập của tinh trùng qua màng trong suốt.
Màng trong suốt là 1 lớp vỏ bao quanh trứng dày 13µm, chủ yếu
gồm 3 glycoprotein ZP1, ZP2 và ZP3. Trong đó protein ZP3 có vai trò như
là thụ thể gắn tinh trùng. Sau khi giải phóng enzym, nhờ hoạt động của
đuôi tinh trùng tạo lực đẩy đầu tinh trùng cùng lõi của đuôi vào khoảng
quanh noãn hoàng (khoảng trống giữa màng bào tương noãn bào và màng
-
21
trong suốt), bỏ lại màng bào tương của nó bên ngoài màng trong suốt. Tiếp
sau đó tinh trùng phải vượt qua khoảng quanh noãn hoàng để đến tiếp xúc
với noãn.
Hình 13. Sự xâm nhập của tinh trùng vào trứng
+ Giai đoạn 3: Sự hòa hợp noãn bào và tinh trùng (sự hòa hợp của 2
tiền nhân)
Ở trong khoảng quanh noãn bào, màng nhân tinh trùng tăng tính
thấm, phình to và các yếu tố ở bào tương noãn bào tác động các thành phần
trong nhân tinh trùng làm cho các nối disulfide ở các protamin bị khử, các
protamin nhanh chóng tách rời và nhiễm sắc chất tinh trùng duỗi ra (lúc
này gọi là tiền nhân nam) và tiến gần đến nhân noãn bào đã hoàn thành
giảm phân II, nhiễm sắc thể cũng đang duỗi xoắn (tiền nhân nữ).
Ban đầu 2 tiền nhân được liên kết với nhau bởi những phân tử kết
dính dạng receptor và chất gắn, đuôi tinh trùng đứt ra và tiêu biến. Tiếp đến
là màng của 2 tiền nhân hòa hợp với nhau tạo nhân của hợp tử chứa bộ
nhiễm sắc thể lưỡng bội 2n.
Tế bào vành tia
Pha 1 Pha 2
Pha 3
Thể cực
phân chia
Cực đầu
Nhân tinh
trùng Màng
bào
tương
Tinh trùng hòa màng
Phá màng cực đầu
Giảm phân 2
-
22
Hình 14. A. Sự kết dính 2 tiền nhân; B. Giai đoạn 2 phôi bào.
Ngay khi tinh trùng đã vào noãn (qua được màng trong suốt), trứng
đáp ứng qua 3 cơ chế:
(1) Phản ứng vỏ và màng trong suốt: phóng thích các hạt vỏ noãn
bào chứa enzym ly giải. Màng của noãn bào ngăn chặn tinh trùng khác xâm
nhập, màng trong suốt thay đổi cấu trúc và cấu tạo ngăn chặn tinh trùng
khác gắn kết và xâm nhập.
(2) Bắt đầu lại sự giảm phân 2 của trứng: trứng hoàn thành giảm
phân 2 ngay sau khi tinh trùng xâm nhập vào và phóng thích 1 cực cầu nữa
và tiền nhân nữ.
(3) Sự hoạt hóa của trứng: yếu tố hoạt hóa trứng có lẽ được mang
vào bởi tinh trùng. Hoạt hóa sau khi hòa màng có thể được xem như là
hoàn thiện tế bào và tạo những phân tử liên quan với việc phát triển phôi
giai đoạn đầu.
-
23
Hình 15. Sơ đồ mô tả toàn bộ quá trình thụ tinh
Câu hỏi lượng giá:
1. Nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bất thường về số lượng nhiễm sắc
thể là gì? Hãy cho ví dụ 1 hội chứng lâm sàng liên quan đến bất
thường số lượng nhiễm sắc thể?
2. Hãy so sánh quá trình tạo giao tử ở nam và nữ?
-
24
BÀI 2
PHÂN CẮT PHÔI BÀO VÀ LÀM TỔ
MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này sinh viên phải
1. Mô tả được các các giai đoạn phân cắt phôi bào trước khi làm tổ
2. Mô tả được phôi làm tổ như thế nào.
NỘI DUNG
1. SỰ PHÂN CẮT PHÔI SAU KHI THỤ TINH ĐẾN LÚC LÀM TỔ
Hình 1. Sơ đồ quá trình phân cắt và di chuyển của phôi sau khi thụ tinh
Khoảng 30 giờ sau khi thụ tinh, hợp tử đã hoàn thành lần phân chia
thứ thất cho ra 2 phôi bào có kích thước không đều, phôi bào lớn hơn sẽ
phân chia sớm hơn phôi bào kia 1 chút. Vì thế có giai đoạn 3 phôi bào.
Tiếp theo là giai đoạn 4, 8, 9, 12 phôi bào. Khoảng 3-4 ngày sau thụ tinh
phôi ở giai đoạn 12-16 tế bào (phôi dâu), với phần trung tâm gồm những
-
25
phôi bào lớn và ở ngoại vi là 1 lớp phôi bào nhỏ. Phôi bào lớn sẽ phát triển
thành phần chính của phôi (sẽ phát triển thành thai sau này) và một số bộ
phận phụ của phôi như màng ối, túi noãn hoàng, niệu nang. Còn phôi bào
nhỏ sẽ tạo lá nuôi để góp phần tạo ra bánh nhau và màng ối.
Sự phân chia của phôi xảy ra đồng thời với quá trình di chuyển phôi
vào trong lòng tử cung. Lúc này, phôi được nôi dưỡng chủ yếu bằng thẩm
thấu các chất dinh dưỡng trong dịch tiết của vòi tử cung. Vành tia dần bị
thoái hóa. Màng trong suốt thì cũng sẽ mất đi trong giai đoạn phôi nang.
Hình 2. Phôi ở giai đoạn hai, bốn tế bào, phôi dâu, phôi nang
-
26
Hình 2. Các phôi bào của chuột dưới kính hiển vi diện tử. A. không nén, B.
các tế bào nén lại.
Hình 3. Phôi nang (B) và sự bám của phôi nang vào niêm mạc tử cung (C)
Khi phôi dâu vào trong buồng tử cung, dịch bắt đầu ngấm qua màng
trong suốt qua khe gian bào tạo nên 1 cái khoang nằm chen giữa lớp phôi
bào lớn và phôi bào nhỏ, mục đích để mang chất dinh dưỡng vào nuôi các
tế bào bên trong. Giai đoạn này phôi được gọi là phôi nang. Ở phôi nang,
bao ngoài là lớp nguyên bào nuôi (trophoblast), ở trong phía cực phôi gồm
Lá nuôi
Khoang phôi nang
Nguyên bào phôi Nội mạc tử cung Lớp đệm
Nguyên bào phôi
Lá nuôi
hợp bào
-
27
1 đám tế bào gốc hay nguyên bào phôi (embryoblast) sẽ phát triển nên cơ
thể sau này.
Có hai phôi nang người được lấy ta từ tử cung được mô tả lần đầu tiên.
Một phôi nang cấu tạo bởi 58 tế bào khoảng 4 ngày tuổi ( Hertig AT, Rock
J. và Adam EC, 1954). Phôi nang thứ 2 cấu tạo bởi 107 tế bào khoảng 4,5
ngày tuổi. Phôi này đã có 1 nút phôi cấu tạo bởi 8 phôi bào lớn, 99 phôi
bào nhỏ trong đó có 30 phôi bào nhỏ phủ mặt ngoài nút phôi và 69 phôi
bào nhỏ tạo nên khoang phôi nang (Hertig, Adams, Mulligan, 1954; Hertig,
Rock, Adams, 1956).
2. DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH LÀM TỔ CỦA PHÔI
Phôi bắt đầu làm tổ ở giai đoạn phôi nang khoảng ngày thứ sáu sau khi
thụ tinh, tương ứng với ngày thứ 21 của chu kỳ kinh 28 ngày (niêm mạc tử
cung ở giai đoạn chế tiết). Phôi nang bám vào niêm mạc tử cung ở cực
phôi, xuyên qua lớp niêm mạc vào lớp đệm, dần dần toàn bộ phôi vùi trong
niêm mạc tử cung.
Hình 4. Sự làm tổ của phôi ở ngày thứ 9 sau thụ tinh
Hốc lá nuôi Các mạch máu dãn ra
Lá nuôi hợp bào
Lá nuôi tế bào
Khoang ối
Thượng bì
Hạ bì
Nút đông fibrin Túi noãn hoàng
nguyên thủy
Màng túi noãn hoàng
nguyên thủy
-
28
Bình thường trứng làm tổ ở thành sau hay thành trước tử cung,
nhưng trứng có thể làm tổ ở những vị trí khác đã được ghi nhận: vòi tử
cung, cổ tử cung, trên buồng trứng hay trong ổ bụng ...
Hình 5. Các vị trí làm tổ bất thường có thể xảy ra
Hình 6. Sự làm tổ của phôi ở túi cùng sau (trong ổ bụng)
Ruột
Mạc treo ruột
Vòi tử cung
Loa vòi
Tua vòi
Nội mạc
đoạn eo tử
cung
Thân tử
cung
-
29
Câu hỏi lượng giá:
1. Phôi phân chia như thế nào trên đường di chuyển từ vị trí thụ tinh
vào buồng tử cung?
2. Phôi làm tổ như thế nào? Hãy nêu một số nguyên nhân gây thai
ngoài tử cung trên lâm sàng (thường gặp là thai ở vòi tử cung)?
-
30
BÀI 3
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC LÁ PHÔI
MỤC TIÊU:
Sau khi học xong bài này sinh viên phải:
1. Mô tả được sự phát triển của phôi ở giai đoạn 2 lá
2. Mô tả được sự phát triển của phôi ở giai đoạn 3 lá
NỘI DUNG:
Phôi không ngừng biến đổi trong quá trình làm tổ. Hai cấu trúc ở phôi
nang là lá nuôi và nguyên bào phôi sẽ tạo ra tất cả các loại mô qua các giai
đoạn. Tuy nhiên các phôi thụ tinh cùng lúc không nhất thiết phát triển
giống nhau trong cùng thời điểm. Giữa chúng có 1 tỉ lệ khác biệt về sự phát
triển, thường thì thai càng nhỏ thì sự khác biệt càng nhỏ. Hình thái ứng với
tuổi thai chỉ là 1 sự tương đối.
1. SỰ TẠO RA ĐĨA PHÔI HAI LÁ
Hình 1. Hình ảnh phôi người 7,5 ngày
Nội mạc tử cung
Tuyến tử
cung
Biểu mô bề
mặt
Thượng
bì
Khoang ối
Hạ bì
Lá nuôi tế bào
Màng ối nguyên
thủy
Mạch máu
Lá nuôi hợp bào
-
31
Khi phôi làm tổ vào nội mạc tử cung ở đầu tuần lễ thứ 2. Các nguyên
bào phôi có đặc điểm tế bào biểu mô, sắp xếp hình tấm được gọi là lá phôi,
gồm một lớp mỏng các tế bào ở phía bụng của mầm phôi. Lớp tế bào này
được gọi là thượng bì phôi (epiblast) ở mặt lưng và lớp ở dưới là hạ bì phôi
(hypoblast) ở mặt bụng. Các tế bào thượng bì phôi sẽ tạo ra cơ thể và 1 số
mô khác ngoài phôi. Hạ bì phôi sẽ tạo biểu mô lót thành túi noãn hoàng.
Sau khi hình thành thượng bì phôi và hạ bì phôi có dạng tấm rõ ràng, mầm
phôi được gọi là đĩa phôi 2 lá.
Ngày thứ 8, phôi nang đã lọt 1 phần vào nội mạc tử cung. Ở cực
phôi, lá nuôi biệt hóa thành 2 lớp: lớp tiếp xúc với nội mạc tử cung (ở phía
ngoài của phôi) gọi là lá nuôi hợp bào (syncytiotrophoblast), còn lá trong
gọi là lá nuôi tế bào (cytotrophoblast).
Lá nuôi hợp bào sẽ phát triển mạnh tiến sâu vào lớp đệm của nội
mạc tử cung và bao lấy xung quanh phôi khi phôi đã vùi hoàn toàn vào
trong nội mạc tử cung.
Giữa hai lá phôi sẽ xuất hiện 1 khoang nhỏ rồi lớn dần lên thành
khoang ối. Màng ối xuất nguồn từ lớp tế bào nuôi ở bên trên khoang ối. Vì
vậy có thể nói màng ối có chung nguồn gốc với ngoại bì. Ở phía dưới hạ bì
phôi cũng hình thành 1 cái khoang đó là túi noãn hoàng nguyên phát.
Khoảng ngày thứ 9, các tế bào từ hạ bì phôi tỏa ra lót mặt trong lá
nuôi tế bào tạo thành màng trong của túi noãn hoàng nguyên phát. Đến
ngày thứ 10 sau thụ tinh thì đĩa phôi 2 lá hình thành xong gồm thượng bì
phôi và hạ bì phôi, nằm giữa túi noãn hoàng nguyên phát và túi ối.
Từ ngày thứ 12, các tế bào trung bì ngoài phôi xuất hiện nằm xen
giữa lớp tế bào nuôi và lớp màng trong túi noãn hoàng nguyên phát và bắt
đầu lan rộng ra để chen vào giữa lá nuôi và màng ối. Tiếp đến trong lớp
trung bì ngoài phôi đó xuất hiện những hốc lớn rồi hợp lại với nhau thành
một khoang duy nhất gọi là khoang ngoài phôi bao quanh túi noãn hoàng
-
32
nguyên phát đang thoái hóa và màng ối. Lúc này túi noãn hoàng thứ phát
cũng được hình thành.
Trải qua 13 ngày phát triển, vị trí mà phôi đã chui vào ở nội mạc tử
cũng đã liền lại. Tuy nhiên tại thời điểm này vẫn có thể có hiện tượng chảy
máu ra ngoài giống máu kinh là do các dòng máu của mẹ đổ vào các hốc
của lá nuôi hợp bào có thể rò rỉ ra ngoài. Bởi vì máu chảy ra vào lúc này
cũng gần với thời điểm chu kỳ kinh bình thường nên làm cho những người
phụ nữ đã mang thai có thể lầm với kỳ hành kinh, điều này dẫn tới việc tính
tuổi thai sẽ không chính xác.
Hình 2. Xuất hiện trung bì ngoài phôi
-
33
Hình 3. Phôi 13 ngày
2. SỰ PHÁT TRIỂN PHÔI TRONG TUẦN THỨ BA – GIAI ĐOẠN
PHÔI VỊ
Giai đoạn phôi vị là giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển phôi.
Trong giai đoạn này xảy ra mọi sự vận chuyển tế bào sinh ra từ các lá phôi
(mầm cơ quan) về những vị trí nhất định để phát triển thành các cơ quan
sau này.
2.1. Sự tạo ra trung bì hình thành phôi 3 lá
Sự kiện chính xảy ở đầu tuần thứ 3 của quá trình phát triển phôi là sự
xuất hiện đường nguyên thủy (primitive streak) ở mặt ngoại bì hướng vào
khoang ối (mặt lưng của phôi). Đến ngày thứ 15-16 nó được mô tả là 1 cái
rãnh hẹp, dài, ở phía đuôi phôi, hai gờ rảnh hơi nhô do sự tăng sinh tế bào.
Ở đầu trước của rãnh có 1 chỗ lõm, được bao quanh bởi một cái gờ hình
vành khuyên, mở thông ra phía sau tạo thành nút nguyên thủy (nút
Hensen). Đường nguyên thủy và nút Hensen là nơi tế bào chưa biệt hóa
được phát sinh và di cư để tạo ra cả ba lá phôi.
-
34
Hình 4. Sơ đồ đĩa phôi đầu tuần thứ 13
Hình 5. Sơ đồ di cư của tế bào sinh ra từ đường nguyên thủy
-
35
Hình 6. Sơ đồ di chuyển của các tế bào được sinh ra từ đường nguyên thủy
Trên thiết đồ cắt ngang phôi qua đoạn giữa đường nguyên thủy, ở 2
bên bờ rãnh, các tế bào trương lên, tăng sinh, các tế bào mới sinh đi xuống
phía dưới, chen vào giữa thượng bì và hạ bì phôi, rồi lan sang 2 bên và về
phía đầu phôi, tới bờ đĩa phôi để tiếp giáp với trung bì ngoài phôi phủ
màng ối và túi noãn hoàng.
Các tế bào thượng bì phôi đi vào đường nguyên thủy, phân chia, thay
đổi hình dạng rồi rời đường nguyên thủy tạo các lớp tế bào bên dưới
thượng bì phôi. Hạ bì phôi cũng thay đổi chỗ của các tế bào cùng với các tế
bào được sinh ra từ đường nguyên thủy hình thành nội bì (endoderm). Phần
tế bào được sinh ra đang lan dần về các phía nằm giữa lớp thượng bì và nội
Màng họng miệng
Màng ối cắt ngang
Tế bào trước dây sống
Nút nguyên thủy
Đường nguyên thủy
Màng nhớp
Thượng bì
Nút ngyên thủy Đường nguyên thủy
Màng ối
Túi noãn
hoàng Hạ bì
Các tế bào trung mô đang di
chuyển
-
36
bì mới tạo được gọi là trung bì (mesoderm). Những tế bào còn lại ở thượng
bì phôi thêm vào những tế bào đến từ đường nguyên thủy sẽ phát triển
thành ngoại bì (ectoderm).
Về phía đầu phôi, trung bì lan ra 2 bên tấm trước dây sống, rồi vòng
qua phía trước sát nhập với nhau ở đường giữa, tạo thành diện tim, còn gọi
là diện mạch, nơi tim và mạch máu lớn đầu tiên được tạo ra.
Vì không có trung bì chen vào giữa, nên nội bì tấm trước dây sống
dán chặt vào ngoại bì trên đó tạo thành 1 màng có 2 lá phôi gọi là màng
họng (buccopharyngeal membrane).
Ở phía đuôi phôi ngay đầu sau của đường nguyên thủy, cũng có 1
vùng trung bì không lan tới, ở đó nội bì và ngoại bì cũng dán chặt vào nhau
gọi là màng nhớp (cloacal membrane).
2.2. Sự tạo ra dây sống (notochord)
Dây sống là cột tế bào nằm dọc theo trục cơ thể của phôi, có vai trò
chống đỡ phôi và tham gia biệt hóa các tế bào thành một số mô và cơ quan
như: ngoại bì thần kinh, tấm sàng ở hệ thần kinh trung ương, các đốt xơ và
nụ tụy sau.
-
37
Hình 7. Minh họa sự hình thành dây sống, được tạo bởi những tiền dây
sống di cư xuyên qua đường nguyên thủy dính vào nội bì tạo đĩa dây sống
và cuối cùng tách ra từ nội bì để hình thành dây sống. A. Sơ đồ cắt dọc
phôi khoảng 17 ngày, vùng đầu của dây sống đã được hình thành, trong khi
đó những tế bào ở vùng đuôi còn dính vào nội bì. B. Sơ đồ cắt ngang qua
vùng đĩa dây sống ngay khi đĩa sống tách ra từ nội bì để tạo dây sống hoàn
chỉnh. C. Minh họa dây sống hoàn chỉnh.
Màng họng
Dây sống
Màng nhớp
Niệu nang
Cuốn phôi
Hố nguyên thủy và rảnh thần kinh
Màng ối
Thành
túi noãn
hoàng
Đĩa dây sống
Lớp trung mô
ở trong phôi
Ngoại bì
Trung bì ở ngoài phôi
Dây sống Ngoại
bì
-
38
2.3. Sự lớn lên của phôi
Hình 8. Sự khép mình của phôi, hình thành túi ối
-
39
Hinh 9. Đĩa phôi khoảng 16 ngày (A), 18 ngày (B)
Hình 16 . Sơ đồ mạch máu nuôi phôi khoảng 19 ngày
Hình 10. Sơ đồ mạch máu phôi
Màng
ối Túi noãn
hoàng
Đường nguyên
thủy
A
Nút nguyên
thủy
Đường
nguyên
thủy
Lông
nhau
Khoang ối
Màng ối
Tim
Khoang
ngoài tim
Túi noãn hoàng
Hốc máu Mạch máu
Màng đệm
Cuốn phôi
Niệu nang
Mạch máu
-
40
Sơ đồ biệt hóa tạo cơ quan từ 3 lá phôi
-
41
Câu hỏi lượng giá:
1. Đĩa phôi 2 lá bao gồm những gì? Nó được hình thành từ đâu?
2. Đĩa phôi 3 lá được tạo ra từ đâu? Nó có vai trò như thế nào trong
thời kỳ phôi thai?
3. Anh (chị) hãy vẽ sơ đồ biệt hóa tạo cơ quan từ 3 lá phôi?
-
42
BÀI 4
CÁC PHẦN PHỤ CỦA THAI
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này sinh viên phải:
1. Mô tả được cấu trúc đại thể của bánh nhau.
2. Trình bày được sự tạo nhau.
3. Kể được các chức năng của nhau.
4. Nêu được bản chất và sự hình thành của các màng thai: màng rụng,
màng đệm, màng ối, màng nhau.
5. Trình bày được tuần hoàn dịch ối.
NỘI DUNG
Khi thai phát triển đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng ngày càng tăng thì
bánh nhau cũng sẽ thay đổi để đáp ứng đủ nhu cầu đó. Trước tiên là tăng
diện tích tiếp xúc bề mặt nhau và tử cung. Kế đó, các màng thai cũng thay
đổi khi tăng sản xuất nước ối.
1. THAY ĐỔI Ở NGUYÊN BÀO NUÔI (TROPHOBLAST)
Bắt đầu tháng thứ 2, nguyên bào nuôi hình thành nhiều lông nhau
(villi) cấp 2 và cấp 3 tỏa ra xung quanh (hình 4.1). Lông nhau bám (stem
villi) kéo dài từ trung mô của đĩa đệm đến lớp màng rụng đáy
(cytotrophoblast shell). Bề mặt của lông nhau được cấu thành bởi lớp lá
nuôi hợp bào tựa lên lớp lá nuôi tế bào rồi đến mô liên kết lõi gai nhau của
trung mô mạch máu (hình 4.2. C). Sự phát triển hệ thống mao mạch trong
lõi của lông nhau bám diễn ra nhanh chóng rồi thông với mao mạch của đĩa
đệm và cuống phôi (connecting stalk), tăng mạch máu ngoài phôi.
-
43
Hình 4.1. Phôi người tại thời điểm bắt đầu tháng thứ 2 của sự phát triển.
Tại cực phôi, lông nhau phát triển nhanh về số lượng và hình dạng, cực đối
phôi thì phát triển chậm hơn.
Máu của mẹ được phân phối vào bánh nhau bởi các động mạch xoắn
trong tử cung, các động mạch này đổ máu trực tiếp vào hồ máu được lót
bên trong bởi lớp lá nuôi hợp bào (hình 4.1 và 4.2). Những tế bào này, xuất
phát từ đầu tận của lông nhau bám, xâm nhập vào đầu tận của động mạch
xoắn, nơi mà chúng thay thế những tế bào nội mô trong lòng mạch máu của
mẹ, tạo nên những mạch ghép có cả những tế bào của mẹ và con. Để làm
được điều này, nguyên bào nuôi di chuyển qua biểu mô để chuyển thành
nội mô. Sự xâm nhập của nguyên bào nuôi vào trong động mạch xoắn đã
làm chuyển dạng những mạch máu này từ đường kính nhỏ có sức đề kháng
Màng rụng bao
Khoang đệm
Đĩa đệm
Hồ máu
Lớp lá nuôi tế
bào ngoài
Động mạch xoắn Lông nhau
-
44
cao thành đường kính lớn và có sức đề kháng thấp làm tăng lưu lượng máu
đổ vào các khoảng trống quanh lông nhau (hình 4.1 và 4.2).
Hình 4.2. Cấu trúc của lông nhau qua các giai đoạn phát triển khác nhau.
A. Trong suốt tuần thứ 4. Trung bì ngoài phôi thâm nhập vào lông nhau
bám trực tiếp vào màng rụng đáy. B. Trong suốt tháng thứ 4, nhiều lông
nhau nhỏ, thành của mao mạch tiếp xúc trực tiếp với lớp lá nuôi hợp bào.
C,D. chỉ sự lớn lên của các lông nhau.
Trong suốt những tháng tiếp theo, các lông nhau ngày càng phát triển
chia nhánh nhiều hơn tạo ra nhiều lông nhau tự do tủa vào trong hồ máu.
Ban đầu, lông nhau tự do mới được hình thành có cấu tạo đơn giản (hình
4.2. C), nhưng bắt đầu tháng thứ 4, nguyên bào nuôi và một vài tế bào mô
liên kết thoái hóa. Thành hợp bào nuôi và nội mô của mạch máu là lớp
ngăn cách chủ yếu giữa tuần hoàn mẹ và con (hình 4.2. B,D). Dần dần lớp
hợp bào nuôi rất mỏng và có những phần chứa một vài nhân lớn vỡ ra rơi
Lớp tế bào lá nuôi Màng
rụng
ĐM xoắn
Hồ máu
Mạch máu
Lá nuôi tế bào
Đĩa đệm Hợp bào
nuôi
Trung bì
ngoài phôi
Mạch máu lông nhau
Có 2 lớp:
- Hợp bào nuôi
- Nội mô
Có 4 lớp:
- Hợp bào nuôi
- Tế bào nuôi
- MLK lõi
- Nội mô
-
45
vào trong hồ máu quanh các lông nhau. Những mảnh vụn này, được biết
như nút hợp bào, có thể đi vào vòng tuần hoàn mẹ và thường thoái hóa,
không gây ra bất kỳ ảnh hưởng gì cho mẹ.
Liên hệ lâm sàng
Tiền sản giật là 1 bệnh được đặc trưng bởi tăng huyết áp thai kỳ, có
protein niệu và phù. Nó có thể bắt đầu tại bất kỳ thời điểm nào khi thai từ
20 tuần và gây ra hậu quả thai chậm phát triển, thai chết hoặc tử vong ở
sản phụ. Bệnh biểu hiện là những rối loạn thuộc về lá nuôi liên quan đến
việc biệt hóa sai hoặc không hoàn toàn của tế bào lá nuôi, nhiều tế bào
không đi vào nội mô của động mạch xoắn để chuyển dạng biểu mô. Những
bất thường về tế bào này dẫn đến tăng huyết áp và còn những vấn đề khác
chưa được biết rõ. Nguyên nhân của tiền sản giật bao gồm hiện tượng
khảm của bánh nhau, trong đó có những nguyên bào nuôi bất thường về
gen hay bệnh ở sản phụ có thể gây ra những vấn đề về mạch máu như là
tiểu đường. Phụ nữ hút thuốc lá cũng gây tăng nguy cơ tiền sản giật.
2. ĐĨA ĐỆM VÀ MÀNG RỤNG ĐÁY (CHORION FRONDOSUM
AND DECIDUA BASALIS)
Trong những tuần đầu của thai kỳ, lông nhau có ở toàn bộ bề mặt của
lớp đệm (hình 4.1). Khi thai lớn lên, lông nhau phát triển vượt trội ở cực
phôi, đĩa đệm phát triển giống hình cây có nhiều nhánh (bush chorion).
Lông nhau cực đối phôi thoái hóa ở tháng thứ 3 làm cho lá đệm ở phía này
nhẵn (màng đệm nhẵn). (hình 4.3 và 4.4)
Khác biệt giữa cực phôi và cực đối phôi của màng đệm là cấu trúc
của màng rụng, chính là lớp chức năng của nội mạc tử cung, nó được bong
ra trong suốt thời kỳ sinh sản sau mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Màng rụng phủ
đĩa đệm cực phôi là màng rụng đáy, gồm lớp đặc với những tế bào lớn,
những tế bào màng rụng dự trữ 1 lượng lớn lipid và glycogen. Lớp này, đĩa
màng rụng liên kết chặt với lớp đệm. Lớp màng rụng phủ cực đối phôi là
màng rụng bao (hình 4.4. A). Với sự phát triển của túi đệm, lớp này trở nên
-
46
căng ra. Rồi sau đó, nó dính sát vào màng rụng thành ở cực đối phôi, xóa đi
khoang tử cung. Vì vậy, bánh nhau được hình thành từ đĩa đệm cực phôi và
màng rụng đáy. Còn màng ối và màng đệm hình thành màng nhau
(amniochorionic membrane) xóa đi khoang đệm (hình 4.4).
3. NHAU
3.1. Cấu trúc của bánh nhau
Bắt đầu tháng thứ 4, bánh nhau có 2 phần: (a) phần thai, được hình
thành từ đĩa đệm và (b) phần mẹ, được hình thành từ màng rụng đáy (hình
4.4.B). Ở phía thai, bánh nhau được giới hạn bởi đĩa đệm (hình 4.7); ở phía
mẹ thì nó được giới hạn bởi màng rụng đáy, đĩa màng rụng thì hầu như
dính chặt vào bánh nhau. Ở vùng chức năng, nguyên bào nuôi và tế bào
màng rụng cài vào nhau. Vùng này, được đặc trưng bởi màng rụng và
những tế bào hợp bào khổng lồ, giàu chất ngoại bào vô định hình. Tại thời
điểm này, hầu hết tế bào lá nuôi biến dạng. Giữa đĩa đệm và màng rụng là
hồ máu (khoảng quanh lông nhau) được đổ đầy bởi máu mẹ. Chúng được
hình thành từ những hốc trong lá nuôi hợp bào. Cây lông nhau phát triển
vào trong các hồ máu (hình 4.2 và 4.7).
Trong suốt tháng thứ tư và tháng thứ năm, màng rụng hình thành
vách ngăn màng rụng, các vách ngăn này hướng vào khoảng trống quanh
lông nhau nhưng không dính vào đĩa đệm. Chúng có lõi là mô của mẹ và
được phủ lên bề mặt một lớp hợp bào nuôi, chính lớp hợp bào nuôi tách
biệt máu mẹ trong hồ máu với các lông nhau của mô thai. Kết quả của việc
tạo vách này làm bánh nhau được phân chia thành nhiều múi (ngăn) (hình
4.8). Do các vách ngăn màng rụng không dính vào đĩa đệm nên máu mẹ có
thể lưu thông qua lại giữa các ngăn khác nhau.
-
47
Hình 4.3. Phôi 6 tuần. Túi ối và khoang đệm được mở ra để lộ phôi, minh
họa sự xuất hiện của nguyên bào nuôi ở cực phôi và ngược lại những lông
nhau nhỏ ở cực đối phôi. Ống túi noãn hoàng có khuynh hướng dài ra, túi
noãn hoàng có khuynh hướng thoái hóa.
Dây rốn
Ống túi noãn
hoàng
Túi noãn hoàng Màng ối Lá đệm
-
48
Hình 4.4. Sự dính của các màng thai lên thành tử cung. A. Kết thúc tháng
thứ 2. Thấy túi noãn hoàng nằm trong khoang đệm, giữa màng ối và màng
đệm. Tại cực đối phôi, lông nhau thoái hóa (màng đệm nhẵn). B. Cuối
tháng thứ 3, màng ối và màng đệm sát nhập vào nhau thành màng nhau và
khoang tử cung bị xóa dần bởi sự lớn lên của khoang ối và cuối cùng màng
rụng bao và màng nhau dính vào màng rụng thành.
Khi thai tiếp tục phát triển và lớn lên trong tử cung, bánh nhau
cũng lớn lên. Nó tăng sự gồ ghề của bề mặt và trải rộng hơn trong tử
cung, một thai kỳ đủ tháng bánh nhau có thể chiếm từ 15%-30% diện tích
bề mặt trong lòng tử cung. Sự tăng bề dày của nhau là kết quả của sự phát
triển cây lông nhau nhưng không ăn sâu vào mô mẹ.
3.2. Bánh nhau của thai đủ tháng
Bánh nhau đủ tháng hình đĩa với đường kính khoảng 15-25cm, có bề
dày khoảng 3cm, nặng khoảng 500-600g (người Việt trung bình khoảng
470g). Nhau bong ra khỏi thành tử cung khoảng 30 phút sau khi sinh. Bánh
nhau mới bong, nhìn mặt mẹ có thể thấy rõ 15-20 chỗ phình được gọi là
múi nhau, phủ bởi 1 lớp màng rụng đáy (hình 4.8). Các rãnh giữa các múi
nhau chính là các vách ngăn màng rụng.
Bánh nhau Màng nhau dính vào
màng rụng thành Màng rụng đáy
Đĩa đệm
Khoang
ối
Túi noãn
hoàng
Khoang
TC
Lá đệm
Màng
rụng bao
Khoang
đệm
Màng rụng
thành
Khoang ối
-
49
Mặt thai của bánh nhau được phủ hoàn toàn bởi đĩa đệm. Nhiều động
mạch và tĩnh mạch lớn tập trung hướng về dây rốn (hình 4.8). Màng đệm
được phủ bởi màng ối. Đôi khi, cuốngg dây rốn không nằm chính giữa
bánh nhau mà có thể lệch về một phía. Hiếm khi nằm ở rìa của bánh nhau.
3.3. Tuần hoàn nhau
Các ngăn của bánh nhau nhận máu của khoảng 80-100 động mạch
xoắn đi ra từ đĩa màng rụng và đổ vào các hồ máu (hình 4.7). Áp lực trong
các động mạch đổ máu giàu oxy sâu vào hồ máu. Khi áp suất giảm, máu
chảy trở lại đĩa đệm hướng về màng rụng vào đi vào các tĩnh mạch nội mạc
tử cung (hình 4.7).
Nhìn chung, hồ máu của bánh nhau trưởng thành chứa khoảng 150ml
máu, việc đổ đầy máu được lặp đi lặp lại theo chu kỳ khoảng 3-4 lần/phút.
Máu này di chuyển giữa các lông nhau màng đệm có tổng diện tích tiếp xúc
là khoảng 4 - 14m2. Tuy nhiên, sự trao đổi chất ở bánh nhau không diễn ra
ở tất cả các lông nhau mà chỉ có ở những vị trí có các mạch máu của thai
sát dưới lớp hợp bào phủ bên ngoài. Ở những lông nhau nhỏ, lớp hợp bào
thường chia nhiều vi lông nhau để tăng diện tích tiếp xúc giữa tuần hoàn
mẹ và con (hình 4.2. D). Hàng rào máu mẹ - con là màng ngăn cách máu
mẹ và máu con, nó được cấu tạo bởi 4 lớp: (a) lớp nội mô mạch máu của
con, (b) mô liên kết lõi lông nhau, (c) lớp lá nuôi tế bào, (d) lớp lá nuôi hợp
bào (hình 4.2.C). Tuy nhiên, từ tháng thứ 4 trở đi hàng rào này mỏng hơn
làm cho lớp tế bào nội mô mạch máu tiếp xúc sát với lớp hợp bào giúp tăng
khả năng trao đổi chất. Đôi khi người ta gọi nó là hàng rào nhau thai, nó thì
không là hàng rào thật sự vì trở về sau có nhiều chất đi qua màng này một
cách tự do hơn.
3.4. Chức năng của bánh nhau
Chức năng chính của bánh nhau là: (a) trao đổi chất, khí và những
sản phẩn chuyển hóa giữa máu mẹ và con, (b) sản xuất hormon.
-
50
Hình 4.5. Thai 19 tuần trong tử cung, hình còn cho thấy dây rốn và bánh
nhau. Lòng tử cung được lấp đầy. Thành của tử cung có 1 nhân xơ.
Thành tử cung
và màng thai Nhau
Dây rốn
Nhân xơ tử
cung
-
51
Hình 4.6. Thai 23 tuần trong tử cung. Đã cắt bỏ 1 phần thành tử cung và
màng ối. Trong hình chỉ mạch máu bánh nhau hội tụ về dây rốn. Dây rốn
quấn 1 vòng chặt quanh bụng, có khả năng gây ra bất thường ở thai nhi.
Mạch
đĩa
đệm
Cổ tử
cung Dây rốn
-
52
Hình 4.7 Bánh nhau ở giai đoạn nửa sau thai kỳ. Các múi bánh nhau được
chia ra bởi vách màng rụng. Hầu hết máu quanh lông nhau trở về vòng
tuần hoàn mẹ bởi những tĩnh mạch nội mạc. Một phần nhỏ đi vào các múi
lân cận. Khoảng quanh lông nhau được lót bởi lá nuôi hợp bào.
Hình 4.8 Bánh nhau thai đủ tháng. A. Mặt thai, đĩa đệm và dây rốn được
phủ bởi màng ối. B. Mặt mẹ có các múi nhau. Có 1 vùng màng rụng được
bóc đi. Mặt mẹ của bánh nhau luôn được kiểm tra cẩn thận lúc sanh,
thường có một hoặc nhiều múi nhìn hơi trắng bởi vì việc hình thành mô sợi
quá mức và nhồi máu của một nhóm hồ máu.
3.4.1. Trao đổi khí
Trao đổi khí như là O2, CO2, CO được thực hiện bằng khuếch tán.
Thai lấy 20-30ml O2 trong 1 phút từ vòng tuần hoàn mẹ, việc cung cấp O2
Vách màng rụng
ĐM xoắn Đĩa màng rụng TM nội mạc
Màng ối Đĩa đệm Bó mạch rốn Mạch đĩa
đệm
Màng ối
Dây rốn
Đĩa đệm
Múi nhau Màng rụng đáy đã lột bỏ
Mạch đĩa
đệm
-
53
này bị ngắt thì dẫn đến thai chết. Dòng chảy của máu ở bánh nhau quyết
định việc cung cấp O2, lượng O2 qua thai trong những tháng đầu phụ thuộc
vào sự phân tán, không phải khuếch tán.
3.4.2. Trao đổi chất dinh dưỡng và ion
Khả năng miễn dịch bắt đầu phát triển vào giai đoạn sau của tam cá
nguyệt thứ nhất. Thai có thể nhận kháng thể từ mẹ (IgG) vào tuần thứ 14.
Giai đoạn này thai tăng miễn dịch thụ động chống lại các bệnh nhiễm
khuẩn. Lúc mới sinh bé mới bắt đầu sản xuất IgG và đạt hiệu quả tối đa khi
bé 3 tuổi.
Tương quan lâm sàng
Ly giải nguyên hồng cầu thai và phù thai
Hơn 400 kháng nguyên hồng cầu đã được xác định và hầu hết không
gây ra ảnh hưởng trong suốt thai kỳ, một số ít có thể kích thích đáp ứng
miễn dịch của mẹ sinh kháng thể chống lại tế bào máu thai. Tiến trình này
là một ví dụ về isoimmunization, và nếu sự đáp ứng của mẹ có hiệu quả thì
kháng thể sẽ tấn công và làm ly giải hồng cầu thai gây tán huyết ở trẻ sơ
sinh. Bệnh này đôi khi được gọi là ly giải nguyên hồng cầu bởi vì ly giải
quá nhiều tế bào máu kích thích việc sản sinh nhiều hồng cầu non gọi là
nguyên hồng cầu. Trong 1 vài trường hợp, thiếu máu trở nên rất nghiêm
trọng gây phù thai dẫn đến thai chết (hình 4.9). Hầu hết trường hợp nặng là
do kháng nguyên từ nhóm máu hệ CDE (Rhesus). Kháng nguyên D hay Rh
là nguy hiểm nhất, nó sẽ biểu hiện sớm hơn và nghiêm trọng hơn ở những
lần mang thai kế tiếp. Đáp ứng kháng thể xảy ra trong những trường hợp
thai có Rh+ còn mẹ thì Rh- và tế bào hồng cầu của con đi vào hệ tuần
hoàn của mẹ do những vùng chảy máu nhỏ trên bề mặt của lông nhau lúc
sinh. Phân tích nước ối thấy có bilirubin, là sản phẩm tiêu hủy hemoglobin,
để đánh giá mức độ ly giải hồng cầu. Điều trị cho những đứa trẻ mắc bệnh
liên quan đến truyền dịch cho thai trong tử cung hoặc ở trẻ sơ sinh. Tuy
-
54
nhiên, bệnh thì có thể được ngăn chặn bởi việc xác định người phụ nữ có
nguy cơ bằng khảo sát kháng thể và điều trị với kháng D-immunoglobulin.
Kháng nguyên từ nhóm máu ABO cũng có thể gây đáp ứng kháng
thể nhưng ảnh hưởng thì không nhiều như nhóm Rh. Khoảng 20% trẻ sơ
sinh không tương hợp nhóm máu hệ ABO của mẹ, nhưng chỉ 5% có ảnh
hưởng trên lâm sàng. Những trường hợp này có thể điều trị 1 cách hiệu quả
sau khi sinh.
3.4.3. Sản xuất hormon
Cuối tháng thứ 4, bánh nhau sản xuất progesterone với 1 lượng đủ để
có tác dụng duy trì thai kỳ nếu hoàng thể thoái hóa. Có thể, tất cả hormon
được tổng hợp bởi hợp bào nuôi. Ngoài ra, bánh nhau còn sản xuất 1 lượng
hormon estrogen, chủ yếu là estriol, cho đến trước khi kết thúc thai kỳ thì
đạt mức tối đa. Mức estrogen này kích thích tử cung và tuyến vú phát triển.
Trong suốt hai tháng đầu của thai kỳ, hợp bào nuôi cũng sản xuất ra
hCG (human chorionic gonadotropin) để duy trì hoàng thể. Hormon này
được tiết vào trong nước tiểu của mẹ vào giai đoạn đầu của thai kỳ, sự hiện
diện của nó được dùng góp phần chẩn đoán có thai. Một hormon khác nữa
được sản xuất bởi bánh nhau là somatomammotropin. Nó giống như
hormon tăng trưởng giúp thai ưu tiên thu nhận glucose từ máu mẹ và đôi
khi làm mẹ bị tiểu đường. Nó cũng kích thích phát triển vú để tiết sữa.
Tương quan lâm sàng
Hàng rào nhau thai
Hầu hết hormon của mẹ không qua được nhau thai. Hormon có thể
qua là thyroxine nhưng chỉ với tỉ lệ thấp. Một vài progestin tổng có thể qua
nhau thai nhanh chóng và làm cho thai chuyển từ giới nam thành nữ. Thậm
chí nguy hiểm hơn là dùng estrogen tổng hợp – diethylstilbestrol cũng dễ
dàng qua nhau thai. Hỗn hợp này gây ra ung thư biểu mô của âm đạo và bất
thường của tinh hoàn thai nhi.
-
55
Mặc dù hàng rào nhau thai được xem như là một cơ chế bảo vệ chống
lại những yếu tố nguy hại, nhưng nhiều virus như rubella, cytomegalovirus,
Coxsackie, variola, varicella, measles và vius bại liệt – có thể dễ dàng qua
nhau thai. Một vài virus có thể gây nhiễm làm chết tế bào và dị tật bẩm
sinh.
4. MÀNG ỐI VÀ DÂY RỐN
Tại tuần thứ 5, các cấu trúc đi theo cuống phôi nguyên thủy(xem hình
4.10A.C): (a) ống mô liên kết, chứa đựng niệu nang và mạch rốn gồm 2
động mạch và 1 tĩnh mạch; (b) ống noãn hoàng (Vitelline duct), kèm theo
mạch máu của noãn hoàng; (c) kênh liên kết trong phôi và khoang ngoài
phôi là khoảng giữa màng ối và đĩa đệm (hình 4.10B)
Trong suốt thời kỳ phát triển, khoang ối lớn lên nhanh chóng làm
hẹp dần khoang đệm và khoang ối bắt đầu bao lấy cuống phôi nguyên thủy,
rồi sau đó phát triển thành dây rốn nguyên thủy (hình 4.10). Phần xa phôi,
dây rốn chứa đựng ống túi noãn hoàng và các mạch máu rốn. Đoạn gần, nó
chứa cả một vài quai ruột và vết tích của niệu nang (hình 4.10). Túi noãn
hoàng được tìm thấy trong khoang ối được liên kết với dây rốn bởi ống của
nó. Kết thúc tháng thứ 3, màng ối được mở rộng đến tiếp xúc với màng
đệm, xóa đi khoang đệm, túi noãn hoàng co lại và tiêu biến từ từ.
Khoang bụng tạm thời quá nhỏ so với sự phát triển nhanh của quai
ruột nên một số chúng bị đẩy ra khoảng ngoài phôi trong dây rốn. Những
quai ruột bị đẩy ra với hình thức thoát vị rốn sinh lý. Gần kết thúc tháng
thứ 3, quai ruột rút vào trong mình phôi, và khoang trong dây rốn bị tiêu
biến, có 1 chất nền bao quanh các mạch máu của dây rốn được gọi là thạch
Wharton. Mô này rất giàu proteoglycan có nhiệm vụ bảo vệ các lớp mạch
rốn. Thành của động mạch có cơ và có chứa nhiều sợi chun có khả năng co
dãn tốt khi dây rốn co dãn.
-
56
Hình 4.10. A. Phôi 5 tuần minh họa cấu trúc cuống phôi nguyên thủy. B.
Dây rốn nguyên thủy lúc thai 10 tuần. C. Cắt ngang qua vòng dây rốn. D.
Cắt ngang qua dây rốn nguyên thủy thấy quay ruột nhô ra trong dây rốn.
Tương quan lâm sàng
Bất thường dây rốn
Lúc sinh, dây rốn có đường kính khoảng 2cm và dài 50-60cm. Nó thì
ngoằn ngoèo dễ gây thắt nút. Dây rốn dài có thể quấn cổ của thai, sẽ có ảnh
hưởng khi phần còn lại ngắn có nguy cơ sanh khó do sức kéo thai về phía
bám của bánh nhau.
Khoang
ối
Ống túi
noãn hoàng
Khoang
ngoài phôi
Ống niệu
nang
Mạch rốn
Khoang
ngoài phôi
Quai ruột
Màng ối
Túi noãn
hoàng
Quai ruột
Mạch ống –
túi noãn
hoàng
Dây
rốn
NT
-
57
Bình thường có 2 động mạch và 1 tĩnh mạch dây rốn. Tuy nhiên, có
khoảng 1/200 trẻ sơ sinh chỉ có 1 động mạch rốn và trong số này có khoảng
20% có dị tật tim và mạch bẩm sinh. Mất động mạch rốn là do thiếu sót
trong quá trình tạo hoặc do thoái hóa sớm trong sự phát triển thai.
Dây màng ối
Việc xé rách màng ối tạo ra những dây màng ối mà có thể quấn vòng
một bộ phận của thai như là chi hoặc ngón, siết chặt gây ra cắt cụt đoạn
xa…Việc tạo dây màng ối có thể do nhiễm trùng hoặc nhiễm độc ảnh
hưởng đến thai và màng thai hoặc cả hai. Dây màng ối hình thành từ màng
ối, như mô sẹo, siết chặt các cấu trúc của thai.
5. SỰ THAY ĐỔI CỦA BÁNH NHAU Ở GIAI ĐOẠN KẾT THÚC
THAI KỲ
Thời điểm kết thúc thai kỳ, nhiều sự thay đổi xảy ra ở bánh nhau có
thể làm giảm bớt sự trao đổi chất giữa hai vòng tuần hoàn. Những thay đổi
này bao gồm: (a) tăng mô sợi trong lõi của lông nhau, (b) dày màng đáy
mao mạch thai, (c) trao đổi chỉ có tác dụng ở các mao mạch nhỏ của lông
nhau, (d) lắng đọng mô sợi trên bề mặt của lông nhau trong vùng chức
năng và trong đĩa đệm. Mô sợi được hình thành quá mức gây ra nhồi máu ở
một vài múi nhau, nhìn thấy hơi trắng.
Hình 4.11 Bất thường
về chi gây ra bởi dây
màng ối. A Chi khuyết
vòng. B Cụt chi
-
58
6. DỊCH ỐI
Khoang ối được lấp đầy bởi dịch lỏng và sạch được sản xuất ra bởi
những tế bào màng ối, nguyên liệu được lấy từ máu mẹ. Lượng dịch ối
tăng từ 30ml (tuần 10) đến 450ml (tuần 20) và đến 800-1000ml (tuần 37).
Trong suốt những tháng đầu của thai kỳ, phôi treo lơ lửng bởi đây rốn của
nó trong dịch này, vai trò là cái đệm bảo vệ quan trọng. Dịch có chức năng
của dịch ối là: (a) giảm sóc (b) ngăn không cho sự kết dính của phôi với
màng ối, và (c) cho phép thai cử động dễ dàng. Thể tích dịch ối được thay
đổi mỗi 3 giờ. Từ đầu tháng thứ 5, thai nuốt nước ối khoảng 400ml/ngày.
Nước tiểu của thai cũng được thêm vào trong dịch ối ở tháng thứ 5 nhưng
hầu như chỉ là nước, khi bánh nhau có chức năng thì sẽ thải được những
chất chuyển hóa. Trong suốt quá trình chuyển dạ, dịch ối trong màng hình
thành đầu ối giúp cổ tử cung xóa mở.
-
59
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI THAI
-
60
-
61
-
62
CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ
1. Nhau được hình thành từ phần nào của mẹ và của con?
2. Tại sao máu thai và máu mẹ không hòa lẫn vào nhau?
3. Nhau phát triển như thế nào từ khi hình thành đến lúc sinh ra?
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. PGS.Nguyễn Trí Dũng,. (2009). Phôi thai học đại cương. Nhà xuất
bản khoa học kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Đỗ Kính và cộng sự. (2001). Phôi thai học người. Nhà xuất bản Y
học.
3. T.W. Sadler. Langman’ s medical embryology tenth edition, L.
Williams & Wikins