Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế...
Transcript of Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm - afvp.info thiep noi soi-JPH.pdf · Nội soi phế...
Bài tổng quan
Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm Interventionnal endoscopy by flexible bronchoscopy
Jean-Paul Homassona, Nguyễn Huy Dũngb, Hoàng Thị Qúyb, Trần Ngọc Thạchb, Nguyễn Trần Phùngb,
Nguyễn Hữu Lânb
a Hội Phổi Pháp - Việt
b Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Tp HCM, Việt Nam
TÓM TẮT
Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản trong ngành hô hấp. Từ
những năm 1980, ngành nội soi điều trị đã phát triển một cách đáng kể. Lãnh vực ban đầu
gần như chỉ sử dụng duy nhất nội soi phế quản cứng, nó dần dần được thực hiện nhờ ống
soi mềm. Nội soi điều trị có nhiều mục tiêu. Trong đa số các trường hợp nhằm đạt được một
sự thông khí tốt hơn trên những tổn thương tắc nghẽn do hoặc không do khối u.
Các kỹ thuật nội soi điều trị khác nhau thường bổ sung nhau hơn là cạnh tranh. Ta thường
kết hợp một phương pháp phá hủy lập tức với một phương pháp phá hủy chậm hoặc nong cơ
học trong cùng một đợt hay sau đó. Hiểu rõ mỗi kỹ thuật trong các kỹ thuật này cho phép
xác định các chỉ định riêng của chúng. Từ những năm 1980, các liệu pháp đã được phát triển
và cải thiện đáng kể. Soi phế quản ống cứng vẫn giữ nguyên các chỉ định và các giáo đồ của
nó, nhưng chắc chắn rằng sự phát triển các dụng cụ mềm cho phép điều trị một lượng lớn
các tổn thương khí - phế quản lành tính và ác tính nhờ ống nội soi phế quản mềm và dưới
gây tê tại chỗ.
Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010;01(01):29-34.
Hội Phổi Pháp-Việt (AFVP) 2010. Bản quyền riêng.
Từ khóa
Nội soi can thiệp Nội soi phế quản ống soi mềm
Phẫu đông
Nhiệt đông
Tạo hình nhiệt
Tác giả liên hệ
BS Jean-Paul Homasson
Hội Phổi Pháp - Việt (AFVP)
24, Rue Albert Thuret
94669 Chevilly Larue-Cedex
Địa chỉ e-mail :
THÔNG TIN BÀI VIẾT
ABSTRACT
Bronchial endoscopy is one of the basis technical investigation of pulmology. Since 1980,
bronchial endoscopy therapy has been considerably developed. Initially, it was reserved ex-
clusively for rigid bronchoscopy. Now it has been done more frequently with technical assis-
tance of flexible bronchoscopy. Endoscopy therapy has many objectives. In majority of the
cases, it tries to associate an immediate airway flux flow passing through the obstructive
tumoral lesions or not.
The different endoscopy therapy methods are usually completed by other methods. It is fre-
quently to associate a immediate destruction method with a delayed destruction method or a
mechanical dilatation during the same session or secondarily. The knowledge of each method
permits to precise the respective indications. Since the development of interventional endo-
scopy, arsenal therapy is considerably developed and ameliorated.
The rigid bronchoscopy always maintains its indications and its followers. But it is sure that
the development of flexible equipment permits to treat a great number of benign or malig-
nant tracheo-bronchial lesions with the help of flexible bronchoscopy and local anesthesia.
J Fran Viet Pneu 2010;01(01):29-34.
Association Franco-Vietnamienne de Pneumologie (AFVP). All right reserved.
Key-words
Inteventionnal endoscopy
Flexible bronchoscopy
Cryotherapy
Thermocoagulation
Thermoplasty
Xung đột quyền lợi : không
Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie
Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 29
Jean-Paul Homasson và cs. Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm
MỞ ĐẦU
Nội soi phế quản là một trong những kỹ thuật thăm dò cơ bản
trong ngành hô hấp. Nó có thể được thực hiện nhờ vào sự trợ
giúp của ống soi phế quản cứng hay mềm. Nếu như thuật ngữ
« Nội soi bằng sợi cáp quang » thường được sử dụng, nó vẫn
chưa chính xác. Nội soi phế quản ống mềm là thuật ngữ được
khuyến cáo bởi Nhóm Nội soi Pháp ngữ vì nó bao gồm cả kĩ thuật
ghi hình nội soi điện tử vốn không sử dụng sợi cáp quang để
truyền ánh sáng. Từ những năm 1980, ngành nội soi điều trị đã
phát triển một cách đáng kể. Lãnh vực ban đầu gần như chỉ sử
dụng duy nhất nội soi phế quản cứng, nó dần dần được thực hiện
nhờ ống soi mềm. Tuy vậy, không thể giảm nhẹ tầm quan trọng
của nội soi phế quản với ống cứng (dưới gây mê toàn thân). Lý
do là vì sự an toàn, nhanh chóng. Nhưng nếu những chỉ định
được đặt ra đúng đắn, một số lớn trường hợp nội soi điều trị có
thể được thực hiện bằng kĩ thuật nội soi mềm với nhận thức rõ về
việc ta có thể mất thời gian thăm khám (có khi kéo dài 1h trong
phẫu đông) và ta có được sự dễ dàng và mềm dẻo trong khi sử
dụng (khám ngoại trú dưới gây tê tại chỗ).
MỤC TIÊU
Nội soi điều trị có nhiều mục tiêu. Trong đa số các trường hợp
nhằm đạt được một sự thông khí tốt hơn trên những tổn thương
tắc nghẽn do hoặc không do khối u. Chúng ta sử dụng những
phương pháp như tách rời, phá hủy hoặc kéo dãn. Chúng ta cũng
có thể ngừng luồng khí bằng những phương pháp gây tắc nghẽn
gián đoạn hoặc toàn phần. Chỉ định có thể là cách điều trị cho
một triệu chứng (nôn ra máu) hoặc một tổn thương tiền ung thư
không gây tắc nghẽn. Với mục tiêu đó, chuyên khoa phổi có nhiều
kỹ thuật khác nhau, thông thường có tính bổ sung và được nhắc
tới trong Bảng I và mô tả chi tiết và cụ thể hóa những chỉ định
của chúng, mặt thuận lợi và bất lợi đặc trưng. Thực ra, những lập
luận về tài chính có thể là quyết định trong việc lựa chọn một kỹ
thuật này so với kỹ thuật khác.
KỸ THUẬT GẮP
Đây chủ yếu là việc gắp bỏ những dị vật phế quản. Nhắc lại là kỹ
thuật nội soi phế quản đầu tiên bằng ống cứng đã được thực hiện
bởi G. Killian là nhằm mục đích gắp một dị vật. Sự lựa chọn về vật
liệu cứng hay mềm sẽ tùy thuộc vào kích thước của dị vật, bản
chất của nó, tuổi tác và tình trạng hô hấp của bệnh nhân. Ở
người lớn và trẻ em lớn hơn 12 tuổi, phần lớn những dị vật có thể
được lấy ra bằng nội soi phế quản mềm dưới gây tê tại chỗ với tỉ
lệ thành công từ 60-90%. bản chất của dị vật thay đổi tùy theo
thói quen ăn uống [1]. Vì thế chúng ta sử dụng những loại kẹp
khác kiểu, những móc gắp, các giỏ. Khi bệnh nhân ngạt thở hoặc
bị khí phế thũng do tắc nghẽn ta phải dùng nội soi phế quản ống
cứng ngay từ đầu. Trong trường hợp dị vật tan rã được (rau quả,
hạt, viên thuốc, hòn sỏi, mảnh khối u…) ta có thể dùng một cách
ưu thế hơn hiệu quả của kỹ thuật phẫu đông (Hình 1) vốn tránh
được sự chia nhỏ dị vật bởi kẹp hay rút ra khó khăn thậm chí
không hiệu quả những mảnh bở vụn có kích thước nhỏ theo tuần
tự [2].
NHỮNG KỸ THUẬT PHÁ HỦY TỨC THỜI
Laser
Kỹ thuật tiêu chuẩn kể từ năm 1980, giá thành của nó (mua và bảo trì), những trở ngại (nội soi phế quản cứng và gây mê toàn
thân), việc huấn luyện kỹ thuật đã làm giảm dần sự sử dụng so
với kỹ thuật đốt nhiệt đông. Trong khoa phổi, chủ yếu sử dụng
Laser Nd-Yag. Tác động nhiệt của nó cho phép làm đông hoặc
bốc hơi những mô tùy theo công suất. Người ta thường sử dụng
năng lượng thấp để làm đông những mô để sau đó có thể gắp ra
ngoài một cách cơ học với mỏ ống soi phế quản cứng [3]. Có
nghĩa là vai trò của nội soi phế quản mềm bị giới hạn vì nó nhằm
làm bốc hơi mô với năng lượng cao, sẽ gây ra sự kéo dài thời gian
can thiệp và khó khăn trong việc hút khói. Thuận lợi chính của
Laser là ở hiệu ứng phá hủy tức thời của nó mà chủ yếu làm điều
trị khẩn cấp nhung phải nhờ vào nội soi phế quản cứng dưới gây
mệ toàn thân. Laser trong nội soi phế quản mềm dành riêng cho
điều trị những tổn thương nhỏ và nằm ngoài hoàn cảnh khẩn cấp.
Trong tay của chuyên gia thì tai biến rất khó xảy ra (thủng). Xuất
huyết và những tai biến do thiếu oxy thường khó kiểm soát trong
nội soi phế quản mềm nhưng điều này cũng xảy ra ở tất cả những
kỹ thuật nội soi can thiệp mặc dù một số tai biến có thể ít nguy
hiểm hơn.
Nhiệt đông cao tần
Đây cũng là một kỹ thuật sử dụng nhiệt để phá hủy mô [4-5].
Những máy đốt mới cho phép làm đông bằng nhiều phương cách
khác nhau:nhẹ, mạnh, bằng tia lửa điện cũng như cắt bỏ. Các
điện cực rất đa dạng: đơn cực kín đầu tròn đường kính khác
nhau, thòng lọng đốt điện, kìm sinh thiết, hay cả ống lưỡng cực;
chúng rất mềm, có thể sử dụng ở các phân thùy đỉnh của thùy
trên, hoặc cứng. Loạt thiết bị và phương cách sử dụng này cho
phép điều trị thích đáng tất cả các loại thương tổn nội phế quản
ngoại trừ chèn ép từ bên ngoài (Hình 2 - 3). Do đó một số lượng
lớn các thương tổn có thể được điều trị bằng ống soi phế quản
mềm. Khi dùng phương cách cắt bỏ và trong trường hợp cấp cứu
ta phải dùng ống soi phế quản cứng. Những kết quả đạt được
giống hệt với kết quả của Laser liệu pháp nhưng chỉ định rộng
hơn và chi phí thấp hơn nhiều [6]. Kỹ thuật này đang được phát
triển rộng rãi.
Các biến chứng chính bao gồm chảy máu (2,5%) thường ít và dễ
kiểm soát bằng cách tiếp tục làm đông, lửa có thể lan rộng dọc
theo ống thông khi ta không tắt oxy trước khi dùng một liệu pháp
tạo ra các cung điện (cắt hoặc làm đông mạnh). Nguy cơ gây chít
hẹp đồng tâm trong trường hợp làm nhiệt đông vòng quanh đã
được chứng minh bằng thực nghiệm ở lợn do các khung sụn bị
phá huỷ.
Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie
Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 30
HÌNH 1. Lấy cục máu đông qua nội soi.
Tia Argon ion hóa
Vẫn là một tác dụng nhiệt của dòng điện. Argon ion hóa cũng
được gọi là argon plasma. Thiết bị này bao gồm máy làm nhiệt
đông bổ sung thêm mođun argon. Có cả các ống cứng và ống
mềm. Tác động làm đông chỉ xảy ra trên bề mặt và không phá
hủy các cấu trúc sụn. Dụng cụ này đa dụng với nhiều áp dụng
cho các chuyên khoa khác (phẫu thuật, tiêu hóa, phụ khoa), điều
này có thể giúp giảm chi phí đầu tư. Các plasma argon được sử
dụng để phá hủy, tiêu diệt các u nhỏ xuất huyết, các u hạt và đặc
biệt để đảm bảo cầm máu trên những mảng xuất huyết diện
rộng.
Kỹ thuật cắt mảnh nhỏ
Chúng tôi sẽ không chi tiết hoá ở đây, dụng cụ này chỉ dùng được
với ống soi phế quản cứng cho các tổn thương của khí quản và
phế quản gốc. Nó cho phép hút và phá hủy đồng thời nhờ các
lưỡi cắt quay tròn.
Bóng cắt
Đây là một ống thông và một bóng có thể phồng lên làm bằng
polyurethane, cho phép nong và cả cầm máu. Bóng được bơm
phồng lên và hút xẹp đi ở cùng một vị trí, rồi đặt lại chỗ khác nếu
cần thiết. Nó có thể đưa xuống tận các phế quản phân thùy. Thủ
thuật có thể kéo dài từ 3 đến 45 phút. Đây là một thiết bị đắt tiền
để dùng một lần, điều này làm giảm ứng dụng của nó tuy rất
đáng quan tâm. Các công trình xuất bản vẫn còn hiếm.
Tạo hình bằng nhiệt
Chúng ta xếp loại kỹ thuật này trong những kỹ thuật phá huỷ lập
tức bởi vì nó là sóng radio, nhưng có tác động trì hoãn vì tạo hình
bằng nhiệt là một trị liệu cho bệnh hen phế quản. Nguyên tắc là
làm giảm sự co thắt và khối lượng cơ trơn. Trị liệu này được chỉ
định cho hen vừa và nặng. Nó giúp giảm lượng thuốc điều trị và
hiệu quả của nó sẽ kéo dài được vài tháng. Kỹ thuật này hấp dẫn
đối với các nước đang phát triển, nơi mà các bệnh nhân thường
Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie
thiếu các phương tiện tài chính để sử dụng các trị liệu dài hạn
hàng ngày như corticosteroid hít. Nhưng kỹ thuật này không tác
động đến yếu tố viêm của bệnh ; nó vẫn chỉ được dành riêng cho
vài trung tâm thí điểm mà chúng ta đang chờ kết quả.
KỸ THUẬT PHÁ HỦY TRÌ HOÃN
Phẫu đông (đông lạnh)
Kỹ thuật này đã được biết đến từ lâu trong nhiều chuyên ngành y
khoa. Nó được dùng rộng rãi trong ngành hô hấp kể từ đầu
những năm 1990. Tuy nhiên cần thu nhỏ các ống thông trước tiên
để có thể đưa vào những ống nội soi cứng cạnh ống quan sát
quang học và sau đó là đưa vào các ống soi mềm (Hình 4). Hiện
nay những ống thông dùng cho ống soi mềm, hoạt động bằng
oxit nitơ, chất này khi dãn nở nhanh có thể đạt đến nhiệt độ
khoảng - 40 ° C trong các mô tiếp xúc trực tiếp với đầu ống (hiệu
ứng Joule - Thompson). Những ống thông mềm này, không giống
như các đầu dò cứng, không có hệ thống hâm nóng lại để làm
tăng nhanh thời gian trị liệu. Chúng cũng ít mạnh hơn nhưng bù
lại trị liệu này không cần đến gây mê toàn thân cũng như nằm
viện. Đây là một thủ thuật đơn giản, không biến chứng (khung
phế quản được bảo tồn), do đó được sử dụng ngày càng nhiều ở
Bắc Mỹ, nơi mà nó được tái phát hiện sau nhiều năm bị quên
lãng. Hơi lạnh có các tác dụng giảm đau, chống viêm và cầm
máu. Việc phá hủy các mô đạt được bằng hai tiến trình kế tiếp:
một tác động vật lý tức thì (kết tinh ngoại và nội bào) rồi đến tác
động mạch máu muộn (huyết khối). Hoại tử mô sẽ hoàn tất sau 8
- 10 ngày.
Phẫu đông được chỉ định để điều trị các thương tổn xâm lấn, các
u chồi khí quản hay phế quản, ngoại trừ các trường hợp khẩn cấp
do tác dụng trì hoãn của nó (Hình 5). Nó cũng được chỉ định để
điều trị ung thư tại chỗ, ngay cả ung thư vi xâm lấn mà không thể
mổ được. Một số khối u lành và tổn thương dạng sẹo xơ ít hoặc
không nhậy với nhiệt đông. Nhiệt đông thường cần làm nhiều
đợt, đặc biệt nếu sử dụng ống thông mềm và nội soi phế quản
Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 31
HÌNH 2. Dụng cụ đốt nhiệt đông (ống soi cứng và soi mềm).
Jean-Paul Homasson và cs. Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm
Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie
Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 32
ống mềm. Trong ung thư học, tác động tiềm năng hiệp đồng giữa
hóa trị và xạ trị là rất có thể nhưng cần thêm các nghiên cứu lâm
sàng và cơ bản [7]. Hiệu quả tiềm năng của kết hợp nhiệt đông -
hóa trị gần đây đã được chứng minh ở chuột [8].
Xạ trong liều cao
Đây là một kỹ thuật nội soi can thiệp chỉ dùng ống soi mềm, hoàn
toàn loại trừ ống soi phế quản cứng. Do đó, đây là một thủ thuật
ngoại trú thực hiện dưới gây tê tại chỗ. Kể từ cuối những năm
1980, chúng ta sử dụng các máy chiếu nguồn mà nhân viên
không bị chiếu xạ. Nguồn hoạt động là Iridium - 192, chuyển vào
các phế quản qua lòng một ống thông được đặt bằng ống nội soi
mềm. Một máy tính điều khiển sự chuyển động của nguồn mà
định lượng đã được xác định trước. Liều cao cho phép thực hiện
các chiếu xạ nhanh, giới hạn thời gian trị liệu trong vài phút. Liều
phân bố là khoảng từ 5 - 7 grays, từ 1 cm của ống thông (tương
ứng với khoảng gấp đôi liều trong xạ trị ngoài thông thường)
trong mỗi đợt. Thường ta dự kiến 4 - 6 đợt cách nhau một tuần.
Kỹ thuật đã được qui tắc hoá tốt hơn và chủ yếu dành cho những
khối u nhỏ hoặc tái phát tại các mỏm cụt sau phẫu thuật cắt thùy
hoặc cắt phổi. Viêm phế quản do bức xạ là một biến chứng thông
thường với việc tạo các giả mạc. Chúng ta cũng có thể thấy các
chít hẹp sợi về sau. Giá thành, việc nội soi phế quản lặp đi lặp lại
nhiều lần và những biến chứng đặc biệt là xuất huyết đã hạn chế
mạnh việc sử dụng thủ thuật này trong ngành phế quản học.
Quang hoá liệu pháp
Giống như phẫu đông, trị liệu được thực hiện thông qua một ống
nội soi mềm dưới gây tê tại chỗ. Ta tiêm trước cho bệnh nhân
một chất cảm quang mà các tế bào khối u ưu tiên nhận bắt và ta
chiếu sáng các mô nhạy cảm bởi một tia sáng đơn sắc đồng nhất
(Laser màu hoặc diode) với độ dài sóng của đỉnh điểm hấp thu
giống như của chất cảm quang. Sau đó quá trình oxy hóa sẽ dẫn
đến cái chết muộn của các tế bào. Kết quả lành bệnh tốt đạt được
trên các khối u nhỏ.
Do chi phí cao của các chất cảm quang và các nguy cơ tác dụng
phụ (nhạy cảm với ánh sáng và bỏng da độ 2) nên kỹ thuật này
hiếm khi được sử dụng.
HÌNH 3. Điều trị tận gốc một khối u cơ trơn.
HÌNH 5. Điều trị tạm bợ adenocarcinome. Hình ảnh trước và sau phẫu đông.
HÌNH 4. Ống thông dùng điều trị đông lạnh. a). Ống cứng b). Ống mềm.
a) b)
Jean-Paul Homasson và cs. Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm
Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie
Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 33
KỸ THUẬT NONG CƠ HỌC
Giá đỡ (stent)
Có rất nhiều loại. Điều này có nghĩa rằng không có cái nào là
hoàn hảo. Chèn ép từ ngoài là chỉ định chính (Hình 6). Chỉ có một
số giá đỡ bằng kim loại có thể được đặt bằng ống nội soi mềm.
Những loại khác được đặt bằng soi phế quản ống cứng và dưới
gây mê toàn thân.Loại được sử dụng phổ biến nhất là các giá đỡ
bằng silicone, nhưng hiện nay người ta đang cố phát triển loại giá
đỡ gọi là hỗn hợp; các khung kim loại được bao phủ bằng một lớp
silicon để tránh sự tăng trưởng khối u hoặc u hạt có thể xảy ra
giữa lưới kim loại. Các giá đỡ thường được dung nạp tốt, nhưng
thường bị dịch chuyển khá nhiều trong các trường hợp chít hẹp
lành tính. Trừ khi được cải tiến trong tương lai, soi phế quản ống
cứng vẫn là lãnh vực ưu tiên dùng đặt giá đỡ.
Nong bằng bóng
Kỹ thuật này được thực hiện bằng ống nội soi mềm dưới gây tê
tại chỗ. Thủ thuật này gồm đưa một dây dẫn kim loại qua kênh
thủ thuật của ống nội soi mềm được kiểm soát bằng màn hình.
Rồi ta rút ống nội soi mềm ra và một ống thông có bóng với kích
thước phù hợp sẽ được trượt qua dây dẫn kim loại. Ống nội soi
mềm sau đó được đưa vào lại bên cạnh ống thông để kiểm tra vị
trí đúng và sự bơm căng bóng bằng cách nhìn trực tiếp. Người ta
bơm căng bóng nhiều lần liên tiếp và kết quả được đánh giá dựa
trên sự gia tăng ổn định đường kính phế quản sau khi nong. Kỹ
thuật này được sử dụng để điều trị các chít hẹp sợi thường thứ
phát sau ghép phổi. Nhưng hiệu quả không kéo dài.
CÁC KỸ THUẬT ĐỊNH HƯỚNG HOẶC NGĂN CHẶN DÒNG
KHÍ
Nút chặn
Đây là những nút nhỏ gài vào trong các phế quản phân thùy bằng
một ống nội soi mềm. Phương pháp này được chỉ định như là một
điều trị thay thế cho phẫu thuật điều trị tràn khí màng phổi trong
trường hợp không thể phẫu thuật hoặc các lỗ rò phế quản-màng
phổi. Khả năng dung nạp của thủ thuật tốt và chúng có thể rút ra
trong trường hợp thất bại điều trị. Vì phải đặt nhiều nút chặn nên
chi phí cao tuy vẫn thấp hơn so với phẫu thuật (9).
Van một chiều
Nguyên tắc là chỉ để dòng khí thoát ra một chiều khi thở ra để
làm giảm thể tích phổi từ thượng nguồn. Đây cũng là một điều trị
thay thế cho phẫu thuật giảm thể tích cho các bệnh nhân bị khí
phế thũng nặng. Có thể lấy van ra. Khả năng dung nạp tốt.
Chi phí vẫn còn là một rào cản cho việc sử dụng chúng trong thực
hành hiện tại. Một nghiên cứu quốc tế lớn đang tiến hành [10].
Các kỹ thuật khác
Các kỹ thuật khác đang được nghiên cứu: chúng tôi chỉ kể tên, gồm thủ thuật bít thùy nội phế quản và mở cửa sổ phế quản.
KẾT LUẬN
Các kỹ thuật nội soi điều trị khác nhau thường bổ sung nhau hơn
là cạnh tranh. Ta thường kết hợp một phương pháp phá hủy lập
tức với một phương pháp phá hủy chậm hoặc nong cơ học trong
cùng một đợt hay sau đó.
Hiểu rõ mỗi kỹ thuật trong các kỹ thuật này cho phép xác định
các chỉ định riêng của chúng. Nhưng giá của một thủ thuật đối với
những chỉ định tương tự đang ngày càng là một yếu tố quyết định
trong việc lựa chọn thiết bị này hay thiết bị khác. Hiện tại chúng
ta có thể xác nhận rằng kỹ thuật tốt nhất khi so sánh chỉ định/chi
phí là nhiệt đông cao tần.
Ngoài phẫu thuật, xạ trị và hóa trị là những trị liệu thông thường
của ung thư phổi không phải tế bào nhỏ. Nội soi can thiệp thường
chỉ được đề nghị ở giai đoạn trễ của bệnh như là trị liệu tạm thời.
Nội soi điều trị trước những trị liệu này có thể là một lựa chọn
đúng đắn hơn nhưng thông thường vẫn chưa được chấp nhận và
cần có nhiều nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng bổ sung.
Tuy nhiên, chúng ta đã chứng minh thời gian sống còn kéo dài
đáng kể khi kết hợp phẫu đông - xạ trị và hóa trị. Từ những năm
1980, các liệu pháp đã được phát triển và cải thiện đáng kể. Soi
phế quản ống cứng vẫn giữ nguyên các chỉ định và các giáo đồ
của nó, nhưng chắc chắn rằng sự phát triển các dụng cụ mềm
cho phép điều trị một lượng lớn các tổn thương khí - phế quản
lành tính và ác tính nhờ ống nội soi phế quản mềm và dưới gây tê
tại chỗ.
Jean-Paul Homasson và cs. Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm
HÌNH 6. Stent khí quản bằng silicone (ống soi cứng).
Kỹ thuật gắp dị vật
Kẹp
Móc gắp
Giỏ gắp
Đông lạnh
Kỹ thuật phá hủy
Phá hủy tức thời
Laser
Nhiệt đông cao tần
Tia argon ion hóa
Sóng âm (tạo hình nhiệt)
Cắt mảnh nhỏ
Bóng cắt
Phá hủy trì hoãn
Đông lạnh
Xạ trong liều cao
Quang hóa liệu pháp
Tiêm vào khối u chất chống phân bào
Kỹ thuật nong dãn
Giá đở (Stent)
Bóng nong
Kỹ thuật định hướng hoặc ngăn dòng khí
Van một chiều
Nút chặn
Keo sinh học
Bảng 1. Kỹ thuật nội soi can thiệp bằng ống soi mềm.
Journal Franco-Vietnamien de Pneumologie
Tạp chí Hô hấp Pháp-Việt 2010; 01(01): 34
REFERENCES
1. NGUYEN HUU L, NGYEN HUY D, TRAN NGOC T, NGUYEN
TRAN P, HOANG THI Q, AELONY Y, HOMASSON J.P. Endo-
bronchial foreign bodies in Vietnamese adults are related to
eating habits. Respirology 2010 ; 15 : 481-494.
2. RODEN S., HOMASSON J.P. Une nouvelle indication de la
cryothérapie endobronchique : l’extraction de corps étrangers.
Presse Méd 1989 ; 18 : 897.
3. CAVALIERE S, FOCCOLI P, FARINA PL. Nd-YAG LASER bron-
choscopy. A five year experience with 1936 applications in
1000 patients. Chest 1988 ; 94 : 15-21.
4. HOMASSON J.P. Endobronchial electrocautery. Sem Crit Care
Med 1997 ; 18 : 535-543.
5. HOMASSON J.P, RODEN S, ANGEBAULT M, PHUNG THUY
M,NGUYEN PHUONG T. Traitement des tumeurs bronchiques
par thermocoagulation haute fréquence. Rev Pneumol Clin
1995 ; 51 : 77-81.
6. SUTEDJA G, VAN BOXEM TJ, SCHRAMEL FM, FELIUS C, POST-
MUS PE. Endobronchial electrocautery is an excellent alterna-
tive for Nd-YAG LASER to treat airway tumors. J Bronchol
1997 ; 4 : 101-105.
7. HOMASSON J.P, PECKING A, RODEN S, ANGEBAULT M, BON-
NIOT J.P. Tumor fixation of bleomycin labeled with 57 cobalt
before and after cryotherapy of bronchial carcinoma. Cryobiol-
ogy 1992 ; 29 : 543-548.
8. FOREST V, HADJERES R, BERTRAND R, JEAN-FRANCOIS R.
Optimisation and molecular signalling of apoptosis in sequen-
tial cryotherapy on chemotherapy combination in human A549
lung cancer xenografts in SCI mice. British J Cancer 2009 ;
100 : 1896-1902.
9. YOICHI W, KEISURE M, AKIHITO T. Bronchial occlusion with
EWS. XIII World Congress of Bronchology 2004 ; 46.
10. LEROY S., MARQUETTE C.H. VENT : étude internationale de la
valve endobronchique pour le traitement palliatif de l’emphy-
sème. Rev Mal Resp 2004 ; 21 : 1144-1152.
Jean-Paul Homasson và cs.
Nội soi can thiệp bằng ống soi mềm