ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải...

7
1 Hoạt động thm tra các dán lut, pháp lnh ca các cơ quan Quốc hi, thc trng và gii pháp The Bodies of National Assembly’s examining projects of Bills and Ordinances activities, Real situation and solutions NXB H. : Khoa Luật, 2014 Số trang 96 tr. + Nguyn Doãn Khôi Khoa Lut Luận văn ThS ngành: Lý lun và lch snhà nước và pháp lut; Mã s: 60 38 01 Người hướng dn: TS. Phm ThDuyên Tho Năm bảo v: 2014 Keywords: Lch snhà nước pháp lut; Quc hi; Dán; Pháp lut Vit Nam Content 1. Tính cp thiết của đề tài Hoạt động thm tra dán lut, pháp lnh của các cơ quan ca Quc hi (Hội đồng Dân tc và các y ban ca Quc hi) là mt khâu trong quy trình lp pháp, có vai trò quan trng, nhm bo đảm chất lượng và hiu quca hoạt động lp pháp ca Quc hi. Hiến pháp khẳng định vtrí, vai trò đặc bit ca Quc hi là cơ quan duy nhất có quyn lp hiến và lp pháp. Để giúp Quc hi thc hin tt vtrí, vai trò hiến định đó, thm tra các dán lut, pháp lnh của các cơ quan ca Quc hi là hoạt động rt cn thiết. Cùng vi vic nâng cao chất lượng, hiu quhoạt động ca Quc hội, các cơ quan của Quc hi, trong những năm vừa qua, hoạt động lp pháp ca Quc hội đã từng bước được ci tiến và có nhiu chuyn biến tích cc cvchất lượng và slượng, cơ bản đáp ứng được yêu cu xây dng, đổi mi, phát trin và bo vTquc. Tuy nhiên, nhng kết quđạt được vn chưa đáp ứng được mong đợi. Nhiu ý kiến khi đánh giá thực trng hthng pháp lut Vit Nam hin nay cho rng: pháp luật đi vào cuộc sng còn chm, thiếu tính ổn định; tình trạng văn bản lut cn sửa đổi, bsung chiếm tlkhá ln trong tng svăn bản được ban hành. Điu này có nguyên nhân tnhiu phía, trong đó có nhng hn chế, tn ti trong công đoạn thm tra các dán lut của các cơ quan ca Quc hi. Bi vy, vấn đề đặt ra là: bên cnh vic tiếp tục đổi mi vtchc và hoạt động ca Quc hi, các cơ quan ca Quc hội nói chung, trong đó có hoạt động thm tra dán lut, pháp lnh cn được tiếp tc nghiên cu thấu đáo để có nhng ci tiến cho phù hợp hơn nữa vi xu thế phát trin ca Quc hi trong giai đoạn hin nay. Hiến pháp năm 1992 xác định nhim vxây dng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyn xã hi chnghĩa. Bi vy, yêu cu đẩy mạnh hơn nữa hoạt động lp pháp ca Quc hội cũng cấp bách hơn, Quốc hi phi kp thời ban hành các văn bản lut không nhng đảm bo vslượng mà còn có chất lượng tt, làm cơ sở pháp lý cho việc điều chnh các quan hxã hội, đáp ứng yêu cu phát trin nn kinh tế thtrường định hướng xã hi chnghĩa, hi nhp kinh tế quc tế, bo vquyn và li ích chính đáng của công dân. Bên cạnh đó, công cuộc đổi mi cũng đặt ra yêu cu hoàn thin hthng pháp lut hơn nữa, bảo đảm xây dựng được mt hthng pháp luật đồng b, thng nht, khthi đáp ng yêu cu của quá trình đổi mới đất nước, phc vsnghip xây dng và bo vTquc. Điều này mt ln nữa đặt ra yêu cu tiếp tc đổi mi, hoàn thin công tác thm tra dán lut, pháp lnh của các cơ quan Quốc hi.

Transcript of ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải...

Page 1: ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháprepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6187/1/00050003248.pdf · Hoạt động thẩm tra các dự án

1

Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của

các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháp The Bodies of National Assembly’s examining projects of Bills and Ordinances activities, Real

situation and solutions

NXB H. : Khoa Luật, 2014 Số trang 96 tr. +

Nguyễn Doãn Khôi

Khoa Luật

Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01

Người hướng dẫn: TS. Phạm Thị Duyên Thảo

Năm bảo vệ: 2014

Keywords: Lịch sử nhà nước pháp luật; Quốc hội; Dự án; Pháp luật Việt Nam

Content

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội (Hội đồng Dân tộc

và các Ủy ban của Quốc hội) là một khâu trong quy trình lập pháp, có vai trò quan trọng, nhằm bảo

đảm chất lượng và hiệu quả của hoạt động lập pháp của Quốc hội. Hiến pháp khẳng định vị trí, vai

trò đặc biệt của Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để giúp Quốc hội thực

hiện tốt vị trí, vai trò hiến định đó, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội

là hoạt động rất cần thiết.

Cùng với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc

hội, trong những năm vừa qua, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã từng bước được cải tiến và có

nhiều chuyển biến tích cực cả về chất lượng và số lượng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu xây dựng,

đổi mới, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng được

mong đợi. Nhiều ý kiến khi đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cho rằng:

pháp luật đi vào cuộc sống còn chậm, thiếu tính ổn định; tình trạng văn bản luật cần sửa đổi, bổ sung

chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số văn bản được ban hành. Điều này có nguyên nhân từ nhiều phía,

trong đó có những hạn chế, tồn tại trong công đoạn thẩm tra các dự án luật của các cơ quan của

Quốc hội. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là: bên cạnh việc tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động của Quốc

hội, các cơ quan của Quốc hội nói chung, trong đó có hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh cần

được tiếp tục nghiên cứu thấu đáo để có những cải tiến cho phù hợp hơn nữa với xu thế phát triển

của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay.

Hiến pháp năm 1992 xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa. Bởi vậy, yêu cầu đẩy mạnh hơn nữa hoạt động lập pháp của Quốc hội cũng cấp bách

hơn, Quốc hội phải kịp thời ban hành các văn bản luật không những đảm bảo về số lượng mà còn có

chất lượng tốt, làm cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích

chính đáng của công dân. Bên cạnh đó, công cuộc đổi mới cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống

pháp luật hơn nữa, bảo đảm xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi đáp

ứng yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều

này một lần nữa đặt ra yêu cầu tiếp tục đổi mới, hoàn thiện công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh

của các cơ quan Quốc hội.

Page 2: ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháprepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6187/1/00050003248.pdf · Hoạt động thẩm tra các dự án

2

Từ thực trạng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh hiện nay tuy đã được quan tâm đổi mới, thiết

thực, hiệu quả hơn trước, các báo cáo thẩm tra đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng

của dự án trước khi trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội, nhưng không vì vậy mà không còn

những hạn chế thiếu sót. Số lượng các dự án luật mà Chính phủ, các cơ quan soạn thảo trình lên Ủy

ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội ngày càng nhiều trong khi dự thảo, dự án trình không đảm bảo

đúng thời hạn để các cơ quan của Quốc hội có đủ thời gian, thông tin tiến hành thẩm tra theo luật

định; việc tiến hành phối hợp thẩm tra dự án luật còn chưa nhịp nhàng; hình thức và hiệu lực của báo

cáo thẩm tra còn có những hạn chế nhất định… Những điều đó hạn chế rất lớn đến hiệu quả hoạt

động lập pháp của Quốc hội, việc bảo đảm số lượng và chất lượng các dự án luật, pháp lệnh là rất

khó có thể thực hiện được. Vì thế, đổi mới quy trình lập pháp nói chung, quy trình, thủ tục thẩm tra

các dự án luật, pháp lệnh nói riêng là hết sức cấp bách.

Trên phương diện khoa học pháp lý, yêu cầu cải cách pháp luật, thực hiện mục tiêu xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan lập pháp, đổi mới thực

hiện chức năng lập pháp, quy trình lập pháp, hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ

quan của Quốc hội phải được thực hiện thường xuyên, đầy đủ để tạo cơ sở khoa học cho việc tiến

hành đổi mới. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng trong một thời gian dài và cho đến hiện nay việc

đầu tư nghiên cứu, phát triển khoa học lập pháp, trong đó có vấn đề nghiên cứu làm sáng tỏ những

cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội

đã chưa được chú ý đúng mức.

Xuất phát từ những nội dung trình bày trên, bản thân tác giả luận văn nhận thấy, nghiên

cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục những tồn tại trong hoạt động thẩm tra dự án luật,

pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội đang là nhiệm vụ bức thiết, cấp bách, có ý nghĩa quan

trọng nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả các luật do Quốc hội, pháp lệnh do Ủy ban thường vụ

Quốc hội ban hành. Từ đó, tác giả chọn đề tài luận văn thạc sĩ là “Hoạt động thẩm tra các dự án

luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháp” như là một nội dung

nghiên cứu mang ý nghĩa thời sự, hết sức cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức

Quốc hội, thực hiện các chức năng của Quốc hội luôn là một trong những hướng ưu tiên của nhiều

nhà khoa học pháp lý. Có rất nhiều đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước, các sách, các luận án tiến

sĩ, luận văn thạc sĩ về các vấn đề này, từ các công trình trực tiếp đến gián tiếp liên quan đến đề tài

luận văn. Có thể kể đến một số công trình sau:

Đề tài nghiên cứu cấp bộ về “Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội và ban

hành pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”, năm 2001, do đồng chí Vũ Mão, nguyên Chủ

nhiệm Văn phòng Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội làm chủ nhiệm.

Đây là đề tài tập trung nghiên cứu quy trình lập pháp mở rộng, trong đó có đề cập đến hoạt động

thẩm tra dự án luật của các cơ quan của Quốc hội, tuy nhiên chưa được chú trọng nhiều, nội dung

còn có tính khái quát cao.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội trong

điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, năm 2006, do

PGS.TS Lê Văn Hòe làm chủ nhiệm. Đây là đề tài nghiên cứu những vấn đề có đề cập đến các khía

cạnh khác nhau liên quan đến đề tài luận văn, song chỉ giới hạn ở việc đưa ra khái niệm năng lực lập

pháp, các yếu tố tạo thành năng lực lập pháp, thực trạng và giải pháp tăng cường năng lực lập pháp

của Quốc hội.

Cùng với đó, còn có một số công trình khoa học khác như luận án tiến sĩ về “Cơ sở lý luận

của việc đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội ở Việt Nam”, của NCS Lê

Thanh Vân, bảo vệ năm 2003 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Luận án tiến sĩ về

“Hoàn thiện quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay” của NCS Hoàng Văn Tú, bảo vệ năm 2004 tại

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Luận văn Thạc sĩ về “Đổi mới tổ chức và hoạt động của

Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội” của Đặng Đình Luyến, bảo vệ năm 2006 tại Viện Nhà

nước và Pháp luật… Những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ này cũng đã nghiên cứu một số vấn đề

có liên quan đến đề tài luận văn.

Bên cạnh đó còn có các sách và các bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên ngành liên

quan đến đề tài, như sách: “Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới” của

Page 3: ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháprepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6187/1/00050003248.pdf · Hoạt động thẩm tra các dự án

3

GS.TSKH. Đào Trí Úc, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội - 1997. Đây là công trình khoa học nghiên

cứu những vấn đề lý luận về nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới; sách “Quốc hội Việt Nam

- Tổ chức, hoạt động và đổi mới” của PGS.TS Phan Trung Lý, NXB Chính trị Quốc gia - 2010. Đây

là cuốn sách chuyên khảo nghiên cứu về tổ chức, hoạt động và phương hướng đổi mới của Quốc hội

Việt Nam; bài viết “Nâng cao chất lượng dự án luật, pháp lệnh” của TS Phạm Tuấn Khải, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 3/2004; bài viết “Quy trình lập pháp

Việt Nam: Từ soạn thảo và xin ý kiến đến quyết định chính sách, dịch chính sách và thẩm định chính

sách”, của TS Nguyễn Sĩ Dũng và Ths Hoàng Minh Hiếu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13/2008;

bài viết “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tính hợp hiến, hợp

pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật” của TS. Hoàng Văn Tú; bài viết “Thực trạng và

giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh” của TS. Vũ Đức Khiển; bài

viết “Một số ý kiến về xây dựng báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh” của Ths. Nguyễn Quang

Minh; bài viết “Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc

hội - Thực trạng và giải pháp” của GS. TS. Trần Ngọc Đường; bài viết “Vai trò thẩm tra các dự án

luật của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực các Ủy ban của Quốc hội” của tác giả Trần

Hồng Nguyên; bài viết “Một số vấn đề đặt ra về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các

Ủy ban của Quốc hội” của GS. TS. Bùi Xuân Đức; bài viết “Thực trạng về Báo cáo thẩm tra và một

số kiến nghị” của Ths Nguyễn Mạnh Cường,... Đây là những bài viết có đề cập đến các nội dung lý

luận và thực tiễn trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, có liên quan đến đề tài của luận văn.

Ngoài ra trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, tác giả Luận văn cũng tham khảo một số tài

liệu, sách là công trình khoa học của các tác giả nước ngoài có liên quan đến luận văn, như: Roger

Davidson và Walter J.Olesfek: “Quốc hội và các thành viên”, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2002…

Có thể khẳng định tất cả các công trình khoa học trên đều có đề cập ở mức độ khác nhau

những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn, nhưng không đầy đủ, chưa có tính hệ

thống; trong đó một số không còn phù hợp với pháp luật hiện hành và yêu cầu mới đối với Quốc hội.

Vì lẽ đó, có thể khẳng định đề tài luận văn “Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ

quan Quốc hội, thực trạng và giải pháp” không trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã được

công bố.

3. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề lý luận, khuôn khổ pháp lý và thực

tiễn triển khai hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ở Việt

Nam; hoạt động thẩm tra ở Nghị viện một số nước; những vấn đề về chủ trương, chính sách của

Đảng trong việc nâng cao chất lượng thẩm tra dự án luật của các cơ quan Quốc hội.

Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội là một công đoạn

trong quy trình lập pháp, có quan hệ hữu cơ với các giai đoạn khác của quy trình lập pháp. Tuy vậy,

do khuôn khổ có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoạt động thẩm

tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.

4. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn

Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động thẩm tra dự

án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội; đề xuất các quan điểm và giải pháp tăng cường

chất lượng hoạt động này, nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thẩm tra;

phát huy vai trò của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội nước ta hiện nay.

Để thực hiện tốt mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích làm sáng tỏ khái niệm, vai trò, và mục đích của hoạt

động thẩm tra; nội dung, các bước của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của

Quốc hội.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân

của những hạn chế, bất cập trong công tác thẩm tra dự án luật của các cơ quan của Quốc hội ở Việt

Nam hiện nay.

- Xem xét, phân tích hoạt động thẩm tra dự án luật ở một số nước trên thế giới và những

điểm hợp lý có thể tham khảo ở Việt Nam.

- Đề xuất, kiến nghị những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra

dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.

Page 4: ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháprepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6187/1/00050003248.pdf · Hoạt động thẩm tra các dự án

4

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa

duy vật biện chứng. Đây là cơ sở cho việc nhận thức bản chất nội tại và các mối quan hệ biện chứng

của các vấn đề cần nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng

hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đánh giá qua các số liệu thu thập có liên quan đến hoạt động thẩm

tra các dự án luật, pháp lệnh của cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam cũng như một số nước trên thế

giới nhằm làm sáng tỏ những luận cứ khoa học và tính thuyết phục cao trong các đề xuất về quan

điểm, giải pháp tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động thẩm tra của các cơ quan Quốc hội ở Việt

Nam hiện nay. Cụ thể là:

- Trong chương 1, để giải quyết những vấn đề lý luận, luận văn chủ yếu sử dụng các phương

pháp phân tích và tổng hợp, luật học so sánh, từ đó làm rõ các khái niệm, bản chất, mục đích, nội

dung, hình thức, vị trí, vai trò của thẩm tra dự án luật, pháp lệnh trong hoạt động lập pháp và các yếu

tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo thẩm tra.

- Trong chương 2, luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích và tổng hợp,

xã hội học để đánh giá toàn diện, khách quan thực trạng hoạt động thẩm tra dự án luật của các cơ

quan của Quốc hội.

- Trong chương 3, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp trên, trong đó có tính đến

những yêu cầu thực tiễn và những kiến nghị đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra dự

án luật, pháp lệnh.

6. Điểm mới của luận văn

Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về hoạt động thẩm tra dự

án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ

những vấn đề lý luận, quan điểm về hoạt động thẩm tra; đánh giá thực trạng và những hạn chế trong

công tác thẩm tra, kinh nghiệm của một số nước về hoạt động thẩm tra các dự án luật và trên cơ sở

đó, đề xuất phương hướng, giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập hiện nay trong công tác thẩm tra dự

án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội. Từ đó góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống

pháp luật

Việt Nam đồng bộ, nhất quán, có tính khả thi và hiệu lực pháp lý cao. Cụ thể:

- Luận văn đưa ra các phương pháp tiếp cận khác nhau về hoạt động thẩm tra dự án luật,

pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, từ đó làm rõ khái niệm, bản chất, mục đích của hoạt động thẩm

tra dự án luật.

- Chỉ rõ các bước của hoạt động thẩm tra, nội dung và hình thức thẩm tra, các yếu tố ảnh

hưởng đến chất lượng báo cáo thẩm tra.

- Xác lập các quan điểm, đề xuất và dẫn giải các giải pháp nhằm tăng cường chất lượng của

hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về cơ sở lý luận và thực tiễn

trong việc tiếp cận và hoàn thiện công tác thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của

Quốc hội ở Việt Nam.

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về tổ chức và

hoạt động của Quốc hội, về chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật ở các cơ sở đào

tạo chuyên ngành luật hiện nay ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo cho đại biểu Quốc hội, các cơ quan

của Quốc hội và các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn trong việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và

hoạt động của Quốc hội, đổi mới quy trình lập pháp và công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của

các cơ quan của Quốc hội, nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục gồm ba

chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của

Quốc hội.

Chương 2: Thực trạng hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của

Page 5: ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháprepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6187/1/00050003248.pdf · Hoạt động thẩm tra các dự án

5

Quốc hội ở Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp đổi mới hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan

của Quốc hội.

References

1. Nguyễn Văn An (2003), “Đổi mới các công đoạn làm luật và đưa luật vào cuộc sống”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, (6)/2003.

2. Ban Công tác lập pháp (2004), Kỷ yếu Hội thảo đổi mới quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, Hà

Nội.

3. Ban Công tác lập pháp (2006), Quy trình, thủ tục trong hoạt động của Quốc hội, Nxb Tư

pháp, Hà Nội, tr. 360.

4. Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 về Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng

đến năm 2020.

5. Nguyễn Sĩ Dũng (2008), Chất lượng dự án luật không đạt là do vừa thiết kế, vừa thi công (Bài

trả lời phỏng vấn), Đại biểu nhân dân, số ra ngày 09/01/2008.

6. Nguyễn Sĩ Dũng (2008), “Quy trình lập pháp Việt Nam: Từ soạn thảo và xin ý kiến đến quyết

định chính sách, dịch chính sách và thẩm định chính sách”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

(131), tháng 9/2008.

7. Đảng cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương khóa

VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

9. Nguyễn Minh Đoan (2006), “Chất lượng và nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật

ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số (13).

10. Trần Ngọc Đường (2011), “Hoạt động lập pháp của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, (1)/2011.

11. Hoàng Minh Hiếu (2003), “Vai trò của Ủy ban trong quy trình lập pháp ở Nghị viện một số

nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (7)/2003.

12. Phạm Văn Hùng (2007), Vai trò của các Ủy ban trong hoạt động lập pháp, số 101, tháng

7/2007.

13. Phạm Tuấn Khải (2001), Thực trạng công tác xây dựng pháp luật của Chính phủ, bài viết trình

bày tại Hội thảo về đổi mới quy trình lập pháp được tổ chức tại Văn phòng Quốc hội, tháng

8/2001.

14. Leston-Bandeiras, C và Norton, P (2005), Thiết chế nghị viện: Những khái niệm cơ bản, Tài

liệu Chương trình dự án VIE/02/07 VPQH, UNDP, Hà Nội, tr.37

15. Phan Trung Lý (2009), Tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa. Sách: Quốc hội và các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

16. Phan Trung Lý (2009), Văn bản quy phạm pháp luật và quy trình ban hành văn bản quy phạm

pháp luật, Nxb Thời đại, Hà Nội.

17. Phan Trung Lý (2010), Quốc hội Việt Nam - Tổ chức, hoạt động và đổi mới, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

18. Mark J.Green - James M.Fallow - David R.Zwick (2001), Ai chỉ huy Quốc hội? (Sách dịch),

Nxb Công an nhân dân, Tr.85-86.

19. Ngô Đức Mạnh (2000), “Suy nghĩ về đổi mới quy trình lập pháp của Quốc hội”, Tạp chí Cộng

Page 6: ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháprepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6187/1/00050003248.pdf · Hoạt động thẩm tra các dự án

6

sản, (604), tháng 11/2000.

20. Trần Hồng Nguyên (2006), Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội .

21. Quốc hội (1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)), Hiến pháp nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Quốc hội (2001), Luật tổ chức Quốc hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Mai Hồng Quỳ (2001), “Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp, (11)/2001.

24. Quốc hội (2008), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

25. Nguyễn Đình Quyền (2006), Quốc hội Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

26. Richard W.Stevenson (1996), Một chiến dịch thiết lập ảnh hưởng, New york Times,

29/10/1996.

27. Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học - Văn phòng Quốc hội (2007), Báo

cáo tổng kết hội thảo Quy trình thủ tục làm việc của các Ủy ban trong hoạt động lập pháp của

Quốc hội, Hải Phòng.

28. Hoàng Văn Tú (2004), Hoàn thiện quy trình lập pháp hiện nay ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ

Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

29. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tập 4, tr. 175.

30. Từ điển Tiếng Việt (2002), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.922.

31. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

32. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2011), Nghị quyết số 271/NQ-UBTVQH13 ngày 01 tháng 11 năm

2011 về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

33. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2012), Đề án số 144/ĐA-UBTVQH13 ngày 18 tháng 5 năm 2012

về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

34. Văn phòng Quốc hội (2002), Tổ chức và hoạt động của Quốc hội một số nước, Hà Nội.

35. Văn phòng Quốc hội (2004), Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Văn phòng Quốc hội (2006), Quy trình lập pháp ở một số nước trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà

Nội.

37. Văn phòng Quốc hội (2007), Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Quốc hội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.148.

38. Văn phòng Quốc hội (2009), Quốc hội và các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

39. Văn phòng Quốc hội (2011), Kỷ yếu kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XII, tháng 4/2011.

40. Lê Thanh Vân (2007), Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Yểu (1998), Đổi mới hoạt động lập pháp - một nội dung quan trọng của đổi mới

hoạt động của Quốc hội, trong cuốn Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các

Hiến pháp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Nguồn UNDP, Legislative Commitee System, http://magnet.undp.org/docs/

parliaments/Legislative%20Committee%20System.htm.

Page 7: ạt độ ẩ các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháprepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/6187/1/00050003248.pdf · Hoạt động thẩm tra các dự án

7