a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH...
Transcript of a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH...
a
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
ĐIỂM BÁO
Ngày 09 tháng 7 năm 2018
Bộ, ngành
1. Đầu năm 2019, bãi bỏ hàng loạt giấy phép con
2. VCCI: Nhiều mức phạt quá nặng trong dự thảo mới của Bộ Công Thương
3. Hết năm 2020, Việt Nam vào nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN về phát triển Chính phủ điện tử
4. Cải cách độc quyền Nhà nước trong 4 ngành
5. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tuyến y tế cơ sở
6. Người dân, doanh nghiệp là trung tâm của phát triển chính phủ điện tử
7. Bảy hiệp hội "khóc" với Thủ tướng
Địa phương
8. Trung tâm Hành chính công: Nỗ lực hoàn thành công tác chuyên môn
9. Giúp người dân làm thủ tục hành chính
10. Bắc Ninh đưa ứng dụng Zalo vào cải cách hành chính
11. Cấp phép và kiểm soát
12. Làm CMND miễn phí cho bà con dân tộc thiểu số
1. Đầu năm 2019, bãi bỏ hàng loạt giấy phép con Từ 1/1/2019, sẽ bãi bỏ các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa,
dịch vụ, sản phẩm cụ thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa,
dịch vụ, sản phẩm được sản xuất, tiêu thụ - các quy định này đang
cản trở hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
người dân.
Ảnh minh họa
Nội dung chủ yếu của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật
liên quan đến quy hoạch là bãi bỏ các quy hoạch sản phẩm, như quy
hoạch công nghiệp hóa chất, quy hoạch công nghiệp dược,… đang tồn
tại. Đây là hành lang pháp lý quan trọng để loại bỏ những giấy phép trái
quy luật kinh tế thị trường và là bước đột phá về thủ tục hành chính
trong đầu tư, sản xuất kinh doanh. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2019.
TTXVN dẫn lời Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Hiếu
cho biết, Luật Quy hoạch được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 4 sẽ
có hiệu lực thi hành vào đầu năm 2019 nhằm thay đổi phương thức
quản lý nhà nước theo hướng nhà nước kiến tạo và phục vụ, trong đó
xác định quy hoạch là công cụ quan trọng để phân bổ nguồn lực theo cơ
chế thị trường, thúc đẩy việc huy động các nguồn lực của xã hội cho đầu
tư phát triển.
Luật Quy hoạch cũng tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành; đổi mới
phương pháp, nội dung quy hoạch theo phương pháp tích hợp, đa
ngành, từ đó giúp các cấp, các ngành quản lý, phát triển một cách đồng
bộ, khắc phục tình trạng quản lý chia cắt, cục bộ ngành và tính cát cứ
địa phương…
Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về quy
hoạch sau khi Luật Quy hoạch được thông qua, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc
hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật liên
quan đến quy hoạch. Luật này sẽ đảm bảo quy định của các luật liên
quan thống nhất, đồng bộ với Luật Quy hoạch và có hiệu lực từ ngày
1/1/2019 để tránh tạo khoảng trống pháp lý, xung đột, vướng mắc trong
công tác lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện các loại quy hoạch.
Luật sửa đổi, bổ sung 11 Luật có quy định liên quan đến quy hoạch, bãi
bỏ các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ
thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm được
sản xuất, tiêu thụ (quy hoạch sản phẩm) đang cản trở hoạt động đầu tư,
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Bản chất các quy
hoạch sản phẩm này chỉ là các điều kiện kinh doanh.
Luật gồm 12 điều, trong đó có 11 điều sửa đổi 11 Luật, bao gồm Luật An
toàn thực phẩm, Luật Công chứng, Luật Dược, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư
công, Luật Điện lực, Luật Hóa chất, Luật Khoa học và công nghệ, Luật
Phòng chống tác hại của thuốc lá, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả, Luật Trẻ em và 1 điều quy định về hiệu lực thi hành luật.
Thứ trưởng Nguyễn Văn Hiếu nhấn mạnh, việc ban hành Luật không
làm phát sinh thủ tục hành chính vì một số lĩnh vực không tiếp tục quản
lý bằng quy hoạch mà quản lý bằng điều kiện đầu tư, kinh doanh hoặc
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hiện đã được quy định trong các văn bản
quy phạm pháp luật (ví dụ sản xuất kinh doanh hóa chất, thuốc lá, dược,
công chứng…).
Chẳng hạn trong lĩnh vực công chứng, Luật bãi bỏ điểm b khoản 1 Điều
70 Luật Công chứng: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc quản lý
nhà nước về công chứng tại địa phương và thực hiện các biện pháp
phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn phù hợp với Quy
hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
Nhiều ý kiến cho rằng, việc bỏ quy định về lập quy hoạch tổng thể phát
triển tổ chức hành nghề công chứng là phù hợp với Luật Quy hoạch, bảo
đảm đúng với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng.
Đại biểu Quốc hội Đặng Thế Vinh (Hậu Giang) chỉ rõ, việc bỏ quy hoạch
tổng thể về hành nghề công chứng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thành lập các văn phòng công chứng, đáp ứng yêu cầu của người dân
và doanh nghiệp. Đại biểu cũng cho rằng, không nên lo ngại việc bỏ quy
hoạch thì các văn phòng công chứng sẽ thành lập tràn lan, cạnh tranh
không lành mạnh vì công chứng là ngành nghề kinh doanh có điều kiện
đã được quy định trong Luật Đầu tư. Ngoài ra, Luật Công chứng cũng
quy định chặt chẽ các điều kiện hành nghề công chứng viên, điều kiện
thành lập và hoạt động của văn phòng công chứng. Nếu cạnh tranh
không lành mạnh thì xử lý theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) nhấn mạnh, Luật bãi bỏ
quy hoạch tổng thể phát triển, tổ chức hành nghề công chứng là hoàn
toàn đúng đắn, có căn cứ pháp luật và phù hợp với thực tiễn. Việc bỏ
quy định về lập quy hoạch tổng thể phát triển, tổ chức hành nghề công
chứng để phù hợp với Luật Quy hoạch, bảo đảm tính xã hội hóa do thị
trường quyết định dựa trên cơ sở cung cầu các tổ chức hành nghề công
chứng bình đẳng trong hành nghề, cạnh tranh lành mạnh bằng chất
lượng dịch vụ. Nhà nước có trách nhiệm phát triển phòng công chứng ở
những nơi khó khăn mà khu vực tư không có khả năng đầu tư nhằm
đảm bảo phục vụ cho người dân./.
Theo baochinhphu.vn
2. VCCI: Nhiều mức phạt quá nặng trong dự thảo mới của Bộ Công Thương VCCI cho rằng, một số mức xử phạt tại dự thảo của Bộ Công
Thương là quá nặng, nên đề nghị chuyển sang khung nhẹ hơn...
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có ý kiến đóng
góp cho dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 67 ngày 25/5/2017 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí.
Theo đó, có một số quy định tại dự thảo của Bộ Công Thương được
VCCI đánh giá là mức xử phạt quá nặng, đề nghị giảm nhẹ khung xử
phạt.
Ảnh minh họa
Cụ thể, đối với hành vi vi phạm về kinh doanh LPG (khí gas), dự thảo
quy định mức xử phạt từ 10-20 triệu đồng đối với hành vi không có biên
bản giao nhận có ký tên xác nhận của khách hàng sử dụng về kiểm tra
độ kín của van chai, các đầu nối và ống mềm sau khi lắp đặt mới hoặc
thay chai LPG xong; không treo biển hiệu, biểu tượng của thương nhân
kinh doanh LPG mà cửa hàng ký hợp đồng bán LPG chai.
"Đây là mức xử phạt quá nặng đối với các hành vi trên. Xét bản chất thì
các hành vi này không gây nguy hiểm đến các lợi ích công cộng mà chỉ
là các lỗi về mặt kĩ thuật trong các hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, khi so sánh với các hành vi khác trong cùng khung, các hành
vi này cũng không nghiêm trọng bằng. Ví dụ so sánh với hành vi kinh
doanh chai LPG mini, LPG chai mini không được phép nạp lại. Do vậy,
đề nghị Ban soạn thảo chuyển khung xử phạt đối với hai hành vi này
sang khung nhẹ hơn", VCCI góp ý.
Hay, với quy định không báo cáo nhãn hiệu hàng hóa theo quy định;
không báo cáo hệ thống phân phối, hoạt động mua bán khí trên thị
trường đến cơ quan quản lý có thẩm quyền theo quy định, cũng bị xử
phạt từ 40-60 triệu đồng, là mức phạt được VCCI đánh giá là quá cao.
VCCI cho rằng, nếu so sánh với hành vi cùng khung là mua, bán LPG và
LPG chai trôi nổi trên thị trường không có nguồn gốc xuất xứ hoặc
không đủ điều kiện lưu thông trên thị trường, thì hành vi này nhẹ hơn rất
nhiều, nên đề nghị Ban soạn thảo chuyển khung xử phạt đối với các
hành vi này theo hướng nhẹ hơn.
Đơn vị này cũng góp ý tương tự đối với quy định xử phạt "từ 10-20 triệu
đồng đối với hành vi không ghi đầy đủ, rõ ràng biển hiệu, biểu tượng của
trạm nạp theo quy định của pháp luật" tại dự thảo.
Song song với đó, VCCI cũng đề nghị Bộ Công Thương bãi bỏ một số
quy định không hợp lý trong dự thảo nghị định.
Cụ thể, về hành vi vi phạm quy định về sản xuất, chế biến LPG, dự thảo
quy định xử phạt đối với hành vi không thiết lập hệ thống phân phối theo
quy định khi tiến hành bán lẻ LPG chai trên thị trường (khoản 3 Điều 41
được sửa đổi).
Tuy nhiên, theo VCCI, Nghị định 87 (từ Điều 20-22), việc thiết lập hệ
thống phân phối là quyền của thương nhân chứ không phải nghĩa vụ.
Thương nhân có thể bán hàng cho hệ thống phân phối hoặc bán trực
tiếp cho khách hàng sử dụng.
"Nghị định cũng không có quy định nào về hệ thống phân phối (cho
trường hợp thương nhân có hệ thống phân phối), chỉ dẫn chiếu tới quy
định chung tại Luật Thương mại. Do đó, việc xử phạt đối với hành vi này
là không phù hợp với Nghị định 87 và không có căn cứ, do đây không
phải hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy
định tại khoản 3 Điều 41 (được sửa đổi)", VCCI nêu quan điểm.
Đơn vị này cũng đề nghị xem xét sửa đổi hoặc bãi bỏ quy định xử phạt
đối với hành vi sử dụng LPG chai mini không được phép nạp lại trong cơ
sở kinh doanh dịch vụ ăn uống.
Bởi theo pháp luật xử phạt vi phạm hành chính thì để xác định xử phạt
phải có yếu tố "lỗi" trong hành vi, tuy nhiên, đối với hành vi này, phần lớn
các trường hợp cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống không thể biết được
LPG chai mini có được phép nạp lại hay không (bởi việc sang nạp không
thực hiện bởi họ). Vì vậy xử phạt hành vi này là chưa phù hợp.
VCCI đề nghị bãi bỏ quy định xử phạt hành vi không thực hiện chế độ
ghi chép và xuất hóa đơn, chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính. Lý
do được VCCI đưa ra là hành vi này thuộc phạm vi xử phạt trong lĩnh
vực hóa đơn, vì vậy Dự thảo quy định xử phạt đối với hành vi này sẽ gây
ra sự chồng lấn về phạm vi xử phạt.
Theo baochinhphu.vn
3. Hết năm 2020, Việt Nam vào nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN về phát triển Chính phủ điện tử
Dự thảo “Nghị quyết về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển
Chính phủ điện tử giai đoạn 2018-2020, định hướng đến 2025” đặt mục
tiêu hết năm 2020, Việt Nam nằm trong Nhóm 4 quốc gia đứng đầu
ASEAN về Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc.
Một trong những mục tiêu được đề ra trong dự thảo Nghị quyết mới của
Chính phủ là tiếp tục nâng vị trí của Việt Nam về Chính phủ điện tử theo
xếp hạng của Liên hợp quốc (Ảnh minh họa. Nguồn: Internet)
Dự thảo “Nghị quyết về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển
Chính phủ điện tử (CPĐT) giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm
2025” của Chính phủ đang được Văn phòng Chính phủ đăng tải công
khai trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ (chinhphu.gov.vn) để lấy ý
kiến đóng góp của người dân, doanh nghiệp.
Theo dự thảo, mục tiêu của Nghị quyết mới của Chính phủ về CPĐT là
hoàn thiện nền tảng cho phát triển CPĐT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động và chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp của các cơ quan
hành chính nhà nước; phát triển CPĐT hướng tới các mục tiêu chương
trình hành động của Chính phủ trong việc nâng cao năng lực, hiệu quả
của tổ chức bộ máy Chính phủ, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; phát triển CPĐT dựa
trên dữ liệu và dữ liệu mở, hướng tới nền kinh tế số, xã hội số, bảo đảm
an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng, tạo ra các giá trị mới góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục nâng vị trí của Việt Nam về
CPĐT theo xếp hạng của Liên hợp quốc.
Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ cũng xác định các chỉ tiêu cụ thể cho
phát triển CPĐT theo 2 giai đoạn 2018-2020 và 2021-2025. Trong đó,
với giai đoạn 2018-2020, nhóm chỉ tiêu xây dựng các văn bản pháp lý và
xây dựng hệ thống nền tảng phát triển CPĐT gồm: ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến tạo lập, quản lý và chia sẻ dữ
liệu, bảo vệ thông tin cá nhân, xác thực điện tử, đầu tư ứng dụng CNTT;
hoàn thành xây dựng các hệ thống nền tảng (hệ thống kết nối, liên
thông, tích hợp, chia sẻ dữ liệu các hệ thống thông tin ở Trung ương và
địa phương; trục liên thông văn bản quốc gia; Cổng dịch vụ công quốc
gia; hệ thống xác thực định danh điện tử; hệ thống thông tin báo cáo
quốc gia; các cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư và Bảo hiểm xã hội, Tài
chính).
Nhóm chỉ tiêu cụ thể đối việc xây dựng hệ thống thông tin phục vụ người
dân, doanh nghiệp bao gồm: 10% người dân, doanh nghiệp tham gia hệ
thống CPĐT được xác thực định danh điện tử thông suốt và hợp nhất; tỷ
lệ hồ sơ giải quyết theo dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trên tổng số
hồ sơ đạt từ 30% trở lên; tăng tối thiểu 20% thủ tục hành chính (TTHC)
đáp ứng yêu cầu được triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4;
các TTHC được chuẩn hóa, điện tử hóa, bảo đảm mức độ hài lòng của
người dân và doanh nghiệp về TTHC đạt mức trên 70% vào năm 2020.
Nhóm chỉ tiêu cụ thể đối với việc xây dựng hệ thống thông tin phục vụ
chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước gồm có: 60% phần mềm
quản lý văn bản và điều hành của các bộ, ngành, địa phương được kết
nối, liên thông với nhau qua trục liên thông văn bản quốc gia, trên 50%
phần mềm quản lý văn bản và điều hành tại các bộ, ngành, địa phương
được kết nối, liên thông phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ
quan trực thuộc bộ, ngành, địa phương; 60% hồ sơ công việc tại cấp bộ,
cấp tỉnh, 30% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 20% hồ sơ công việc tại
cấp xã được xử lý trên môi trường mạng; bảo đảm 50% báo cáo được
gửi, nhận qua hệ thống thông tin báo cáo quốc gia; rút ngắn từ 30-50%
thời gian họp, giảm tối đa việc sử dụng tài liệu giấy thông qua việc ứng
dụng các giải pháp chính phủ không giấy tờ, văn phòng điện tử; hoàn
thành đánh giá và đề xuất giải pháp giảm chi phí đầu tư, triển khai, vận
hành, quản trị hạ tầng CNTT của các bộ, ngành, địa phương trên cơ sở
tái cấu trúc và tối ưu hóa hạ tầng CNTT.
Ngoài ra, cũng trong giai đoạn 2018-2020, tại dự thảo Nghị quyết mới,
Văn phòng Chính phủ cũng đề xuất mục tiêu tiếp tục nâng cao Chỉ số về
CPĐT (EGDI), bao gồm 3 nhóm chỉ số dịch vụ công trực tuyến (OSI), hạ
tầng viễn thông (TII) và nguồn nhân lực (HCI); phấn đấu đến hết năm
2020, Việt Nam nằm trong Nhóm 4 quốc gia đứng đầu ASEAN về Chỉ số
dịch vụ công trực tuyến (OSI) và Chỉ số phát triển CPĐT của Liên hợp
quốc.
Đối với giai đoạn 2021-2025, các chỉ tiêu cụ thể được đề ra trong dự
thảo Nghị quyết về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển
CPĐT giai đoạn 2018-2020, định hướng đến 2025” gồm có: 100% Cổng
dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp Bộ, cấp tỉnh được
kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cổng dịch vụ công quốc gia; 100% dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, 4 phổ biến, liên quan nhiều tới người dân,
doanh nghiệp tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia; 100% giao dịch
trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh và
hệ thống thông tin một cửa điện tử phải được xác thực điện tử;
40% người dân và doanh nghiệp tham gia hệ thống CPĐT được xác
thực định danh điện tử thông suốt và hợp nhất; tỷ lệ hồ sơ giải quyết
theo dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trên tổng số hồ sơ đạt từ 50%
trở lên; 80% TTHC đáp ứng yêu cầu được triển khai dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3, 4; mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp về
TTHC đạt mức trên 80% vào năm 2025.
Cùng với đó, đến năm 2025, 60% các hệ thống thông tin của các bộ,
ngành có liên quan đến người dân, doanh nghiệp đã đưa vào vận hành,
khai thác được kết nối, liên thông qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu;
thông tin của người dân, doanh nghiệp đã được số hóa và lưu trữ tại các
cơ sở dữ liệu quốc gia không phải cung cấp lại; 80% phần mềm quản lý
văn bản và điều hành của các bộ, ngành, địa phương được kết nối, liên
thông, trên 60% phần mềm quản lý văn bản và điều hành tại các bộ,
ngành, địa phương được kết nối, liên thông phục vụ gửi, nhận văn bản
điện tử giữa các cơ quan trực thuộc bộ, ngành, địa phương; 80% hồ sơ
công việc tại cấp bộ, cấp tỉnh, 60% hồ sơ công việc tại cấp huyện và
50% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng; 80%
báo cáo của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp được cập nhật,
xử lý, chia sẻ trên hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, phục vụ hiệu quả
hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành.
Đồng thời, nhân rộng mô hình Chính phủ, Văn phòng Chính phủ không
giấy tờ đến UBND cấp tỉnh, cấp huyện; đến cuối năm 2025, phấn đấu
100% cấp tỉnh, 80% cấp huyện thực hiện họp không giấy tờ tại các cuộc
họp của UBND; tái cấu trúc, tối ưu hóa sử dụng hạ tầng CNTT hướng tới
sử dụng chung hạ tầng CNTT, giảm đầu tư chồng tréo, trùng lặp, lãng
phí nguồn lực của nhà nước và xã hội; đảm bảo số lượng dữ liệu của
Chính phủ được số hóa từ tài liệu gốc, được kiểm kê chính xác và chiếm
đến 50% dữ liệu của Chính phủ.
Để thực hiện được các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể kể trên, tại dự thảo “Nghị
quyết về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn
2018-2020, định hướng đến năm 2025” cũng đề xuất 5 nhóm nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu sẽ được tập trung thực hiện trong thời gian tới, bao
gồm: Xây dựng, hoàn thiện thể chể tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện
cho việc triển khai, xây dựng phát triển CPĐT; Xây dựng nền tảng công
nghệ phát triển CPĐT phù hợp với xu thế phát triển CPĐT trên thế giới;
Xây dựng, phát triển CPĐT gắn kết chặt chẽ ứng dụng CNTT với cải
cách hành chính, đổi mới lề lối làm việc nhằm chuẩn hóa, điện tử hóa
quy trình nghiệp vụ, số hóa, tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan
nhà nước từ Trung ương đến địa phương; đổi mới phương thức phục vụ
người dân, doanh nghiệp; Bảo đảm các nguồn lực triển khai xây dựng
CPĐT; Thiết lập cơ chế bảo đảm thực thi với mục tiêu, chỉ tiêu đo lường
kết quả cụ thể, cơ chế theo dõi, giám sát, trách nhiệm giải trình, xử lý kịp
thời vướng mắc và nguồn lực tài chính, con người để bảo đảm thực thi.
Năm 2016, Chỉ số phát triển CPĐT của Việt Nam được Liên hợp quốc
xếp hạng thứ 89/193 quốc gia, tăng 10 bậc so với năm 2014; tuy nhiên
lại tụt xuống vị trí thứ 6 trong khu vực ASEAN (năm 2015 Việt Nam đứng
5 trong 11 nước ASEAN), sau các nước: Singapore (thứ 4 thế giới và
thứ nhất ASEAN); Malaysia (60, 2); Philippines (71, 3); Thái Lan (77, 4);
Bruney (83, 5). Cũng theo báo cáo Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử
năm 2016 của Liên Hợp Quốc, chỉ số về cung cấp dịch vụ công trực
tuyến của Việt Nam được đánh giá cao, đạt 0,57 điểm, tăng 8 bậc, từ
thứ hạng 82/193 lên thứ hạng 74/193 so với năm 2014.
Theo ictnews.vn
4. Cải cách độc quyền Nhà nước trong 4 ngành Ý kiến chuyên gia cho rằng 4 lĩnh vực độc quyền mạng lưới (điện,
viễn thông, đường sắt và hàng không) ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng, giá thành và năng lực cạnh tranh của các DN Việt Nam.
Ảnh: VGP/Thu Lê
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) vừa phối hợp với
Aus4Refrom tổ chức Hội thảo khoa học “Cải cách độc quyền Nhà nước
trong các ngành công nghiệp mạng lưới”.
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, cải cách độc quyền Nhà nước
trong các ngành công nghiệp mạng lưới là vấn đề được đặt ra ở rất
nhiều quốc gia trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhiều
nước đã thành công trong việc giảm tối đa hoặc xóa bỏ độc quyền trong
các ngành này thì Việt Nam mới đang “loay hoay” trong giai đoạn chuyển
đổi từ độc quyền Nhà nước hoàn toàn sang cạnh tranh một phần.
“Bối cảnh kinh tế, chính trị rất khác so với các nước lý giải tại sao quá
trình giảm độc quyền của Việt Nam khó khăn như vậy”, bà Lan nói.
Cụ thể, theo bà Phạm Chi Lan, Việt Nam vẫn đang theo đuổi nền kinh tế
thị trường định hướng XNCN, theo đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo và
DNNN vẫn là bộ phận quan trọng của thành phần kinh tế đó.
Về nguyên tắc, các thành phần kinh tế đều bình đẳng và đã có nhiều
chính sách cụ thể để thực thi yêu cầu này, nhưng trên thực tế, trong một
số chính sách vẫn có một loạt các điều kiện trói buộc, mang tính ‘đánh
đố’ cao, khiến các DN ngoài Nhà nước ‘chùn chân’ và gần như không có
cửa tham gia một số lĩnh vực.
Bên cạnh đó, hệ thống quản trị DNNN chưa đủ công khai, minh bạch và
thiếu trách nhiệm giải trình dẫn tới các yếu kém của DNNN, nhất là trong
các lĩnh vực độc quyền tiếp tục tồn đọng, chậm bị phát hiện.
Ngoài ra, vị chuyên gia cho rằng các DN độc quyền của đã xuất hiện
cách đây cả nửa thế kỷ, chứ không chỉ từ thời điểm các tổng công ty
Nhà nước được hình thành từ các năm 1994-1995, vì vậy phá vỡ nó
càng khó khăn hơn so với các nước khác.
Dẫn ra ví dụ ở cả nhiều lĩnh vực đã được cổ phẩn hóa, tỷ lệ cổ phần
nắm giữ của Nhà nước vẫn chiếm tới 50-60%, bà Lan cho rằng một tỷ lệ
quá lớn như vậy không thể tạo động lực cho tư nhân, khuyến khích cạnh
tranh khi họ chỉ có thể bỏ tiền vào mà không có quyền điều hành.
Còn theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, 4 lĩnh vực độc quyền mạng
lưới (điện, viễn thông, đường sắt và hàng không) ảnh hưởng rất nhiều
đến chất lượng, giá thành và năng lực cạnh tranh của các DN Việt Nam.
Theo ông Doanh, mặc dù trong Luật Cạnh tranh đã có đề cập nhưng
đến nay vẫn chưa có cơ quan đủ thẩm quyền để giám sát độc quyền.
Vị chuyên gia cũng lưu ý, trong 4 ngành kể trên, mức độ độc quyền
mạng lưới cũng có sự khác nhau. “Ngành điện có mức độ độc quyền rất
cao, trong khi đó đường sắt lại tự độc quyền với mạng lưới của mình
nhưng không đủ sức cạnh tranh với các loại hình vận tải khác, cộng
thêm với những ‘sai sót’ không đáng có gây nên những tai nạn nghiêm
trọng trong thời gian qua khiến thị phần ngành này ngày càng giảm", ông
Doanh nhận định.
Bà Phạm chi Lan cho rằng, Việt Nam cần thực hiện theo đúng lộ trình đã
cam kết trong các FTA và những cam kết quốc tế khác. “Có không ít các
FTA nếu được thực hiện trước sự giám sát quốc tế và sức ép cạnh tranh
hiện tại sẽ giúp cho việc thực hiện quy định nội bộ của Việt Nam tốt
hơn”.
Đồng thời, ứng dụng tối đa các công nghệ hiện đại vào hệ thống quản trị
của các DN và hệ thống quản trị của Nhà nước với các DN mạng lưới để
năng cao tính hiệu quả và năng lực canh tranh.
Bà Lan cho rằng trong giai đoạn 2021-2030, phải thay đổi rất căn bản
cách xây dựng Tổng sơ đồ điện 8, tận dụng sự tham gia tối đa của các
chuyên gia công nghệ, kinh tế, đưa ra bài toán kinh tế sòng phẳng, thực
chất hơn, đồng thời khuyến khích các DN tham gia vào lĩnh vực năng
lượng tái tạo.
Đồng tình với quan điểm này, chuyên gia Lê Đăng Doanh cho rằng, để
giảm mức độ độc quyền “chỉ ứng dụng khoa học công nghệ mới có hi
vọng”. Đối với ngành điện, với dự kiến, đến năm 2020, giá điện mặt trời
sẽ giảm hẳn và có khả năng canh tranh điện than. Hoặc trong tương lai
không xa, có thể có những vệ tinh cung cấp dịch vụ internet cho toàn
cầu, lúc đó mức độ độc quyền sẽ giảm đi.
Với ngành hàng không, ông Doanh khuyến nghị cần phân tích sâu cơ
chế và hiệu quả tài chính để thấy rõ việc cho phép cạnh tranh đem lại cải
thiện rõ rệt như thế nào.
Về việc cổ phần hóa các DNNN, chuyên gia Lê Đăng Doanh cho rằng
cần phải thực hiện đến mức độ đủ để có các cổ đông chiến lược, nếu
không hoạt động của DN sẽ không có nhiều khác biệt so với trước đây.
Theo chinhphu.vn
5. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tuyến y tế cơ sở
Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tuyến y tế cơ sở với mục tiêu
bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân và bảo hiểm y tế toàn dân, được
Bộ Y tế lựa chọn là nội dung quan trọng cho Ngày Bảo hiểm y tế Việt
Nam (1-7) năm 2018 với chủ đề “Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
bảo hiểm y tế (KCB BHYT) tuyến y tế cơ sở”.
Xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở
Thực hiện Quyết định số 2348/QĐ-TTg ngày 5-12-2016 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở
trong tình hình mới, Bộ Y tế có Chương trình hành động số 1379/CTr-
BYT ngày 19-12-2017 triển khai thực hiện đề án xây dựng và phát triển
mạng lưới y tế cơ sở giai đoạn 2018 - 2020 và Hướng dẫn số 1383/HD-
BYT ngày 19-12-2017 hướng dẫn triển khai mô hình điểm trạm y tế xã,
phường, thị trấn giai đoạn 2018 - 2020. Theo đó, đến năm 2020, có ít
nhất 90% số trạm y tế xã có đủ điều kiện KCB BHYT, thực hiện ít nhất
80% trong danh mục dịch vụ kỹ thuật của tuyến xã; 95% số trung tâm y
tế huyện thực hiện ít nhất 80% số danh mục dịch vụ kỹ thuật của tuyến
huyện; 70% số xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã; phấn đấu 90% số dân
được quản lý, theo dõi sức khỏe; hoàn thiện việc đầu tư trạm y tế các xã
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Đến năm
2025: tất cả số trạm y tế xã có đủ điều kiện KCB BHYT và thực hiện
được đầy đủ các nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu, thực hiện ít nhất
90% số danh mục dịch vụ kỹ thuật của tuyến xã; tất cả trung tâm y tế
huyện thực hiện ít nhất 90% số danh mục dịch vụ kỹ thuật của tuyến
huyện; tất cả các xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã; toàn bộ dân số
được quản lý, theo dõi sức khỏe.
Đánh giá về thực trạng y tế cơ sở hiện nay, Cục trưởng Quản lý KCB
(Bộ Y tế) Lương Ngọc Khuê cho rằng, công tác chăm sóc sức khỏe tại
tuyến y tế cơ sở ở một số địa phương chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu
về chăm sóc sức khỏe tại tuyến ban đầu. Năng lực cán bộ y tế tuyến cơ
sở còn hạn chế, kiến thức và chuyên môn không được cập nhật. Chưa
bảo đảm tính sẵn có và tính tiếp cận các thuốc thiết yếu để phục vụ KCB
tại tuyến xã, trang thiết bị y tế cơ bản chưa đầy đủ... Chính vì vậy, Bộ Y
tế đang tập trung nhiều nguồn lực, chỉ đạo về tăng cường y tế cơ sở,
trong đó nâng cao chất lượng KCB, trạm y tế xã hoạt động theo nguyên
lý y học gia đình là nhiệm vụ trọng tâm. Nhiều giải pháp đồng bộ đã
được ngành y tế tiến hành như kiểm tra, giám sát, hỗ trợ kỹ thuật cho
một số tỉnh, thành phố trong thực hiện quản lý bệnh mãn tính. Hiện một
số tỉnh, thành phố đã thực hiện tốt công tác quản lý bệnh không lây
nhiễm tại tuyến y tế cơ sở. Tại các địa phương này, đối với các bệnh
mãn tính, bệnh không lây nhiễm như tăng huyết áp, đái tháo đường,
người có BHYT được khám bệnh, cấp thuốc định kỳ tại trạm y tế gần
nhà rất thuận lợi, tiết kiệm thời gian và chi phí.
Bộ Y tế cũng lựa chọn và tổ chức các đoàn khảo sát tại 26 trạm y tế xã,
phường của tám tỉnh, thành phố gồm: Lào Cai, Khánh Hòa, Lâm Đồng,
Long An, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Yên Bái, Hà Tĩnh nhằm xây dựng mô
hình trạm y tế chuẩn để nhân rộng trên phạm vi cả nước. Với mục tiêu
của việc hoàn thiện mô hình chuẩn trạm y tế là, bảo đảm cung ứng đầy
đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, KCB cho từng người dân
trên địa bàn; cung ứng dịch vụ theo hướng toàn diện, liên tục, phối hợp
và lồng ghép chặt chẽ giữa dự phòng và điều trị, giữa cơ sở y tế trên địa
bàn và tuyến trên.
Đồng thời, ngành y tế triển khai quyết liệt việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý KCB và thanh toán BHYT với mục tiêu cải cách
thủ tục hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch trong cung ứng dịch
vụ y tế, trong giám định chi phí và thanh toán BHYT, góp phần tăng độ
chính xác và hiệu quả trong quản lý nhà nước về BHYT. Thông tin từ
Cổng tiếp nhận dữ liệu Hệ thống thông tin giám định BHYT của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam cho thấy, hiện tỷ lệ liên thông dữ liệu toàn quốc
đạt khoảng 97,6% (12.307 cơ sở KCB gửi dữ liệu trong số 12.614 cơ sở
KCB ký hợp đồng KCB BHYT)...
BHYT là nguồn tài chính quan trọng
Ðể đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ về đổi mới y tế cơ sở, Bộ Y tế xác
định BHYT là cơ chế tài chính y tế quan trọng cho chăm sóc sức khỏe
nhân dân. Thực hiện BHYT toàn dân, y tế cơ sở phát triển, người có thẻ
BHYT được tiếp cận với dịch vụ KCB ngay tại địa bàn sinh sống thay vì
phải đi lên tuyến trên. Tiếp cận dịch vụ y tế tại tuyến y tế cơ sở không chỉ
giảm tải cho tuyến trên, giảm chi phí cho người dân và chi phí xã hội, mà
còn là cơ hội để được KCB kịp thời, tăng hiệu quả điều trị, hạn chế các
biến chứng nặng của bệnh. Y tế cơ sở phát triển, nhất là y tế tuyến xã là
cơ hội chăm sóc sức khỏe cho tất cả mọi người, nhất là người mắc các
bệnh mãn tính như tăng huyết áp, đái tháo đường, thậm chí cả bệnh lao,
HIV.
Phó Vụ trưởng BHYT (Bộ Y tế) Phan Văn Toàn cho biết, thời gian qua,
ngành y tế đã đẩy mạnh nhiều hoạt động nâng cao năng lực cung ứng
và chất lượng dịnh vụ của mạng lưới y tế cơ sở. Bộ Y tế cũng ban hành
Thông tư số 39/2017/TT-BYT quy định gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến
y tế cơ sở. Theo đó, gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ BHYT chi trả, bao
gồm 78 dịch vụ kỹ thuật KCB và 241 thuốc mà trạm y tế tuyến xã phải
cung cấp được (áp dụng tại trạm y tế xã, phường, thị trấn và tương
đương, phòng khám bác sĩ gia đình độc lập, trạm y tế quân dân y và
phòng khám quân dân y).
Bên cạnh đó, Bộ Y tế trình Chính phủ Nghị định sửa đổi Nghị định số
105/2014/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Luật BHYT. Trong đó có một nội
dung quan trọng là, đề nghị bỏ quy định giao quỹ KCB cho trạm y tế tối
đa bằng 20% quỹ KCB BHYT ngoại trú, việc bỏ quy định giao quỹ sẽ
nâng mức chi trả chi phí KCB tại trạm y tế tuyến xã, kể cả chi phí điều trị
bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, chi trả chi phí thuốc điều trị HIV,
lao…, qua đó nâng cao chất lượng KCB BHYT tại tuyến y tế cơ sở, tăng
cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế của người có thẻ BHYT ngay tại tuyến cơ sở,
giảm tình trạng người bệnh lên tuyến trên điều trị gây quá tải cho bệnh
viện tuyến trên… Đồng thời, Bộ Y tế đang nghiên cứu, xây dựng để triển
khai đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin thống nhất trong quản lý trạm
y tế, tiêm chủng, quản lý bệnh tật, hồ sơ sức khỏe người dân gắn với
quản lý thẻ, thanh toán BHYT.
Hết năm 2017 có 79,9 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ
85,6% dân số; ước tính đến ngày 31-5-2018 có 81,3 triệu người tham
gia BHYT đạt tỷ lệ bao phủ 86,6% dân số, hoàn thành chỉ tiêu của Đảng,
Quốc hội giao trước bốn năm (Đảng, Quốc hội giao tỷ lệ bao phủ BHYT
năm 2020 là hơn 80%), vượt chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao tại
Quyết định số 1167/QĐ-TTg ngày 28-6-2016 (năm 2017 Thủ tướng giao
82,2%), trong đó người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới sáu
tuổi và các đối tượng chính sách xã hội đã được Nhà nước hỗ trợ toàn
bộ mức đóng BHYT (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam).
Theo nhandan.com.vn
6. Người dân, doanh nghiệp là trung tâm của phát triển chính phủ điện tử Dự thảo tờ trình và nghị quyết của Chính phủ về một số nhiệm vụ,
giải pháp trọng tâm phát triển chính phủ điện tử (CPĐT) giai đoạn
2018 - 2020, định hướng đến năm 2025 vừa được Văn phòng Chính
phủ (VPCP) đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử Chính
phủ (chinhphu.vn) để lấy ý kiến đóng góp của người dân, doanh
nghiệp.
Người dân đánh giá sự hài lòng về dịch vụ hành chính tại quận 1,
TPHCM. Ảnh: VIỆT DŨNG
Chưa được như mong đợi
Tại hội thảo “Phát triển CPĐT hướng tới nền hành chính hiện đại và hiệu
quả” vừa diễn ra ở Hà Nội, báo cáo của VPCP cho biết thời gian qua, cả
3 nhóm chỉ số cơ bản của hệ thống CPĐT là: số lượng dịch vụ công trực
tuyến, hạ tầng viễn thông và nguồn nhân lực đều đã được nâng cao.
Hiện tổng cộng đã có thêm 13.909 dịch vụ cấp độ 3 và 4 được các bộ,
cơ quan ngang bộ và địa phương xây dựng, vận hành. Như vậy, các bộ,
cơ quan ngang bộ và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đã cung cấp tổng cộng
1.551 dịch vụ công trực tuyến. Tại các địa phương, con số này là 45.374
dịch vụ. Chỉ số hạ tầng viễn thông cũng có sự gia tăng đáng kể: tỷ lệ
người dùng Internet chiếm 54,2% dân số Việt Nam, số thuê bao cố định
là 4,9 thuê bao/100 dân, số thuê bao di động là 129 thuê bao/100 dân…
Theo Sách trắng công nghệ thông tin (CNTT), nhiều dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương hoạt động hiệu quả,
tiếp nhận và giải quyết lượng hồ sơ rất lớn. Tiêu biểu trong số này là Bộ
Công an (8,8 triệu hồ sơ), Bộ Công thương (772.000 hồ sơ), Bộ Giáo
dục - Đào tạo (270.000 hồ sơ), Bộ Giao thông Vận tải (144.000 hồ sơ),
Hà Nội (225.173 hồ sơ), Lâm Đồng (110.000 hồ sơ)...
Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông Nguyễn Minh Hồng, việc
ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT ở nước ta trong những năm qua được
Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo thúc đẩy triển
khai. Chính phủ đã chuẩn bị việc thành lập ủy ban quốc gia về CPĐT
trên cơ sở kiện toàn lại Ủy ban Quốc gia về ứng dụng CNTT. Theo đó,
Thủ tướng Chính phủ sẽ trực tiếp là chủ tịch ủy ban này, Phó Thủ tướng
Vũ Đức Đam là Phó Chủ tịch.
Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Minh Hồng, thời gian qua, các bộ, ngành,
địa phương đã đạt được những kết quả nhất định trong việc ứng dụng
CNTT, xây dựng chính quyền điện tử. Tuy nhiên, so với các yêu cầu
thực tế, vẫn còn nhiều điều chưa được như mong muốn. VPCP cũng
cho rằng, còn nhiều nội dung triển khai CPĐT chưa được như mong đợi:
còn rào cản trong cơ chế đầu tư ứng dụng CNTT; việc triển khai ở một
số nơi còn mang tính hình thức; việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ
liệu quốc gia, hạ tầng CNTT làm nền tảng phục vụ phát triển CPĐT còn
chậm; các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục bộ, chưa có kết nối, chia
sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; nhiều hệ thống thông tin đã triển
khai còn chưa bảo đảm an toàn, an ninh thông tin; tỷ lệ sử dụng dịch vụ
công trực tuyến còn rất thấp; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý
hồ sơ công việc còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ.
Lấy sự hài lòng của cá nhân, tổ chức làm thước đo
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, tồn tại trong phát triển CPĐT,
theo VPCP là do nhiều cấp, ngành chưa xác định rõ lộ trình và các
nhiệm vụ cụ thể để triển khai, còn thiếu gắn kết giữa ứng dụng CNTT
với cải cách thủ tục hành chính và đổi mới lề lối, phương thức làm việc,
nhất là trong quan hệ với người dân, doanh nghiệp; chưa phát huy vai
trò của người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện; nền tảng tích hợp, chia
sẻ dữ liệu giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước chậm
được triển khai; tình trạng cát cứ thông tin, dữ liệu còn phổ biến dẫn đến
nhiều số liệu không thống nhất; việc bảo đảm an toàn, an ninh cho các
hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước còn chưa được quan tâm
đúng mức; còn thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng CPĐT; thiếu
cơ chế tài chính và đầu tư phù hợp với đặc thù dự án CNTT…
Chính vì vậy, tại dự thảo tờ trình việc ban hành nghị quyết mới về phát
triển CPĐT, VPCP cho rằng, cần tập trung chỉ đạo xây dựng và phát
triển thành công CPĐT Việt Nam, trong đó có các chương trình quốc gia,
chương trình mục tiêu, kế hoạch ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà
nước; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa cải cách hành chính, đổi mới lề lối
phương thức làm việc với ứng dụng CNTT, xác định ứng dụng CNTT là
công cụ hữu hiệu hỗ trợ, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và lấy sự
hài lòng của cá nhân, tổ chức là thước đo quan trọng trong phát triển
CPĐT; xây dựng CPĐT theo hướng đổi mới phương thức phục vụ, lấy
người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; người dân, doanh nghiệp chỉ
cung cấp thông tin một lần đối với một loại dữ liệu; sử dụng được các
dịch vụ công và các hệ thống thông tin giao tiếp với người dân, doanh
nghiệp của Chính phủ trên các phương tiện hiện đại như điện thoại di
động…
Theo sggp.org.vn
7. Bảy hiệp hội "khóc" với Thủ tướng Nhiều vướng mắc của cộng đồng doanh nghiệp tưởng chừng đã
được Chính phủ tháo gỡ thì nay, trong thực tế lại một lần nữa tắc
nghẽn do chính sự chậm trễ của các cơ quan cấp dưới
Cuối tháng 6 vừa qua, 7 hiệp hội ngành nghề đại diện cho cộng đồng
doanh nghiệp (DN) trong ngành chế biến thực phẩm gửi thư lên Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam (Trưởng Ban
Chỉ đạo liên ngành trung ương về an toàn thực phẩm) cùng các bộ, cơ
quan liên quan kiến nghị được Chính phủ tổ chức cuộc đối thoại để tháo
gỡ vướng mắc.
Nhiều cơ quan hiếm khi nhận sai
Theo đó, trong thư kiến nghị của 7 hiệp hội (gồm Hiệp hội Chế biến và
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam - VASEP, Hội Lương thực Thực phẩm TP
HCM, Hiệp hội Sữa Việt Nam, Hiệp hội Thực phẩm Minh Bạch, Hội
Nước mắm Phú Quốc, Hiệp hội Thương mại Mỹ tại Việt Nam, Hiệp hội
DN châu Âu tại Việt Nam), chỉ có một vướng mắc mới, còn lại đều là
những vấn đề tưởng chừng đã được Chính phủ tháo gỡ xong.
Đó là câu chuyện quy định bắt buộc "muối dùng trong chế biến thực
phẩm phải được tăng cường i-ốt" và "bột mì dùng trong chế biến thực
phẩm phải được tăng cường sắt và kẽm" theo Nghị định 09/2016 về
tăng cường vi chất dinh dưỡng đã được cộng đồng DN phản ánh vướng
mắc từ tháng 3-2017. Gần đây nhất, Nghị quyết 19/2018 ban hành tháng
5-2018 đã giao rõ nhiệm vụ cho Bộ Y tế chủ trì dự thảo sửa đổi Nghị
định 09/2016 theo hướng bãi bỏ 2 quy định trên, thay vào đó là "khuyến
khích DN chế biến thực phẩm sử dụng".
Theo ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký VASEP, đến nay, các
bất cập trên vẫn chưa giải quyết khiến DN gặp khó trong quá trình sản
xuất, công bố, đưa sản phẩm ra thị trường nội địa lẫn xuất khẩu.
Bà Nguyễn Thị Hồng Minh, Chủ tịch Hiệp hội Thực phẩm Minh Bạch,
cho hay sở dĩ các hiệp hội phải gửi thư lên Thủ tướng vì cộng đồng DN
đã làm đủ cách từ gửi văn bản đến trải qua hàng loạt cuộc đối thoại,
thậm chí nội dung tháo gỡ vướng mắc đã ghi trong Nghị quyết 19/2018
của Chính phủ nhưng văn bản sửa quy định vô lý chưa chính thức ban
hành.
"Chưa có văn bản chính thức bãi bỏ quy định vô lý thì ngày ngày, DN
vẫn phải thực hiện, làm giảm năng lực cạnh tranh, gây lãng phí xã hội.
Hiện nay, nhiều cơ quan nhà nước rất bảo thủ, nhiều văn bản ban hành
không phù hợp thực tế nhưng hiếm khi nhận sai. Giữa lúc cộng đồng DN
gặp bức bách nhưng việc sửa đổi của cơ quan thực thi rất chậm" - bà
Minh nhận xét.
DN không muốn phá sản oan
Ông Vũ Quốc Tuấn, đại diện Tiểu ban Thực phẩm dinh dưỡng thuộc
Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam, nêu thực tế nhiều vướng mắc của DN
dù được tháo gỡ nhưng lại rất trễ. Năm 2017, Cục Thú y đã loại ra danh
mục nhiều mặt hàng không phải kiểm dịch động vật như: cà phê, trà,
bánh kẹo dù có chứa thành phần sữa nhưng phía hải quan vẫn yêu cầu
phải thực hiện kiểm dịch động vật mới cho thông quan. DN nào không
biết quy định mới thì gửi mẫu kiểm nghiệm như cũ rất tốn kém còn DN
biết thông tin phải làm công văn xin Cục Thú y xác nhận không cần kiểm
tra để được thông quan hàng.
"Đáng lý khi có quy định không kiểm tra từ cơ quan quản lý chuyên
ngành thì hải quan phải tự động bỏ chặn hàng của DN chứ không phải
buộc DN đi chứng minh. Việc này phải diễn ra vài tháng thì hải quan mới
không chặn hàng của DN đối với nhóm hàng xuất khẩu trên" - ông Tuấn
dẫn chứng.
Nhiều DN phản đối quy định “muối dùng trong chế biến thực phẩm phải
được tăng cường i-ốt” của Bộ Y tế Ảnh: TẤN THẠNH
Bà Huỳnh Kim Chi, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Việt Nam Kỹ nghệ bột mì
(TP HCM), cho biết đang chấp hành quy định bổ sung sắt, kẽm vào bột
mì nhưng hoạt động sản xuất bị đảo lộn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
hiệu quả kinh doanh. Nguyên nhân là khi bổ sung sắt, kẽm vào nguyên
liệu khiến bột mì nổi đốm, màu sắc các sản phẩm thành phẩm không ổn
định và bị biến đổi.
"Các thị trường nhập khẩu sản phẩm của công ty như Mỹ, Nhật,
Canada,… không yêu cầu bổ sung sắt, kẽm, làm ảnh hưởng lớn đến
giao dịch xuất khẩu của công ty. Chúng tôi phải sản xuất riêng 2 loại sản
phẩm cho xuất khẩu và nội địa làm tăng chi phí sản xuất, giảm năng suất
lao động, giảm năng lực cạnh tranh, giảm thị phần" - bà Chi bức xúc.
Đối với nước mắm Phú Quốc, hiện vẫn chưa áp dụng sử dụng muối i-ốt
theo Nghị định 09/2016. Bà Hồ Kim Liên, Chủ tịch Hội Nước mắm Phú
Quốc, khẳng định kết quả kiểm nghiệm tại Trung tâm Kỹ thuật Tiêu
chuẩn Đo lường Chất lượng 3 (Quatest 3) cho thấy nước mắm Phú
Quốc có độ đạm càng cao thì hàm lượng i-ốt tự nhiên càng nhiều. Cụ
thể, nước mắm 20 độ đạm, 25 độ đạm, 35 độ đạm và 40 độ đạm có hàm
lượng i-ốt lần lượt là 0,31 mg/lít, 0,35 mg/lít, 0,36 mg/lít và 0,4 mg/lít.
"Liên minh châu Âu đã bảo hộ quy trình sản xuất cho nước mắm Phú
Quốc (sử dụng muối thường từ Bà Rịa - Vũng Tàu). Nếu sử dụng muối i-
ốt thì sẽ phải làm như thế nào? Hơn nữa, sử dụng muối i-ốt sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng nước mắm truyền thống (màu - mùi - vị) và giá trị
kinh tế của sản phẩm" - bà Liên nêu.
Trong "tâm thư" gửi Thủ tướng, cộng đồng DN nêu vướng mắc mới là
quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ cho phép cơ quan quản lý thị
trường khi kiểm tra DN chỉ kiểm nghiệm mẫu 1 lần làm căn cứ xử lý vi
phạm mà không cho DN được phép kiểm nghiệm lại khi không đồng
thuận kết quả. Theo các DN, trong bối cảnh nhiều phương pháp kiểm
nghiệm của Việt Nam chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế, các DN có thể bị phá
sản vì kết quả kiểm nghiệm có sai sót, gây lo lắng lớn cho nhà đầu tư.
Do đó, các DN đề nghị sửa đối quy định theo hướng cho phép DN được
đề nghị kiểm nghiệm lại.
Ngoài ra, các DN còn mong muốn ngành nông nghiệp sớm thay đổi
trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành theo nguyên tắc quản lý rủi ro,
phân luồng ưu tiên. Các DN kiến nghị chỉ nên kiểm dịch động vật đối với
sản phẩm còn ở dạng tươi sống hoặc sơ chế, không kiểm tra sản phẩm
đã qua chế biến sâu (ví dụ sữa bột công thức).
"Chiều" DN, sức khỏe của dân ai lo?
Về đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi Nghị định 09/2016 theo hướng
loại bỏ cụm từ phải tăng cường muối i-ốt trong chế biến thực phẩm, Thứ
trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường cho biết Bộ Y tế đang đánh giá,
nghiên cứu dựa trên các bằng chứng khoa học và khuyến cáo của Tổ
chức Y tế thế giới (WHO). Ông Cường khẳng định Bộ Y tế sẽ làm theo
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và dự kiến trình (sửa đổi Nghị định
09) vào quý III năm nay.
Tuy nhiên, theo một chuyên gia y tế, sau khi Chính phủ yêu cầu, Bộ Y tế
đã có hướng dẫn không kiểm tra chỉ tiêu i-ốt trong thực phẩm chế biến.
"Việc loại bỏ thành phần i-ốt trong thực phẩm cũng cần có những bằng
chứng khoa học để khẳng định chắc chắn rằng vấn đề này sẽ không tác
động đến sức khỏe. Nếu chúng ta cứ "chiều" DN thì vấn nạn bệnh bướu
cổ sẽ quay trở lại. Hậu quả sẽ nặng nề hơn nhiều so với việc thực hiện
một quy định có lợi cho sức khỏe người dân" - chuyên gia này nhận
định.
Mới đây, Viện Dinh dưỡng quốc gia cũng công bố số liệu cho thấy Việt
Nam đang nằm trong số 19 nước trên thế giới có tình trạng thiếu i-ốt tồi
tệ nhất trên thế giới.
Thay thế cán bộ chậm cải cách hành chính
Theo ông Hà Công Tuấn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (NN-PTNT), bộ đã chỉ đạo cán bộ, công chức, nhất
là người đứng đầu các đơn vị, phải thay đổi thái độ làm việc, phục vụ lợi
ích của người dân và DN. Kịp thời phát hiện, thay thế những cán bộ,
công chức chần chừ trong cải cách thủ tục hành chính, tháo bỏ rào cản,
tạo thuận lợi cho đầu tư kinh doanh hoặc có hành vi lạm dụng thẩm
quyền, vị trí làm việc để tư lợi.
Bộ NN-PTNT cũng đã yêu cầu tổng rà soát điều kiện đầu tư, kinh doanh
trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm đề xuất bãi bỏ các điều kiện đầu tư,
kinh doanh không còn cần thiết. Cắt giảm ít nhất 50% danh mục hàng
hóa, sản phẩm phải kiểm tra chuyên ngành trong từng lĩnh vực ngay
trong năm 2018.
Hiện Bộ NN-PTNT có 64 thủ tục hành chính liên quan tới kiểm tra
chuyên ngành thuộc các lĩnh vực kiểm dịch, kiểm tra chất lượng hàng
hóa, kiểm tra an toàn thực phẩm. Bộ đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa
35/64 thủ tục hành chính, đạt 54,6%. Thay đổi phương thức quản lý từ
tiền kiểm sang hậu kiểm ở tất cả các thủ tục hành chính kiểm tra an toàn
thực phẩm; thực hiện quản lý hàng hóa theo phương thức quản lý rủi ro;
giảm tần suất lấy mẫu lô hàng.
Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hoàng Văn Thắng, lĩnh vực nông nghiệp
hiện có 33 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện với 345 điều kiện
đầu tư kinh doanh. "Bộ đã rà soát tổng thể và đề xuất cắt giảm, bãi bỏ,
đơn giản hóa 241/345 điều kiện, bảo đảm đáp ứng 69,8% điều kiện kinh
doanh được cắt giảm" - ông Thắng cho hay.
Theo nld.com.vn
8. Trung tâm Hành chính công: Nỗ lực hoàn thành công tác chuyên môn
Trong 6 tháng đầu năm 2018, Trung tâm Hành chính công (TTHCC)
đã có nhiều nỗ lực về công tác chuyên môn, tích cực tham mưu Sở
Nội vụ, UBND tỉnh hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn liên
quan đến công tác cải cách hành chính (CCHC), trong đó điểm nhấn
là thực hiện tốt việc điều tra xã hội học đo lường hài lòng năm
2018, tham mưu cho Hội đồng thẩm định, đánh giá công nhận kết
quả Chỉ số CCHC năm 2017…
Thành viên đoàn kiểm tra công tác cải cách hành chính của Sở Thông
tin - Truyền thông, TTHCC, Văn phòng UBND tỉnh kiểm tra việc thực
hiện dịch vụ tiếp nhận và trả hồ sơ qua đường bưu điện tại các bưu cục
trong 6 tháng đầu năm 2018
Hoàn thành tốt vai trò tham mưu
Trong 6 tháng qua, TTHCC đã hoàn thành tốt các mặt công tác, nhất là
vai trò tham mưu cho Sở Nội vụ, UBND tỉnh về nhiệm vụ CCHC. Trung
tâm đã hoàn thành nhiệm vụ khi trình UBND tỉnh ban hành quyết định
công nhận kết quả Chỉ số CCHC năm 2017 của các cơ quan, địa
phương trên địa bàn tỉnh. Về chỉ số hài lòng, đối với cấp tỉnh, các điều
tra viên đang tiến hành điều tra đối với các dịch vụ công thuộc thẩm
quyền giải quyết của 18 sở, ban, ngành. Tính đến nay, các điều tra viên
đã thực hiện được 1.301/2.750 (chiếm 47,3%) phiếu điều tra. Đối với
cấp huyện và cấp xã, trung tâm đang tiến hành chuẩn bị việc nhận bàn
giao phiếu điều tra đợt 1 từ Bưu điện tỉnh theo kế hoạch.
Hiện tại, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1504/QĐ- UBND ngày 5-6-
2018 về việc bãi bỏ toàn bộ thủ tục hành chính (TTHC) đã được công bố
tại Quyết định số 334/QĐ- UBND và Quyết định số 335/ QĐ-UBND ngày
5-2-2013 về việc công bố bộ TTHC chung áp dụng tại cấp huyện và cấp
xã trên địa bàn tỉnh. Đến hết tháng 6-2018, có 15/20 sở, ban, ngành đã
tham mưu Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định công bố bộ TTHC
mới gồm 3 cấp (cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã). Những bộ TTHC được
công bố này, trung tâm đã thực hiện công khai TTHC bằng hình thức
đóng cuốn trên các kệ thông tin và in treo trên các bảng thông tin tại
trung tâm. Ngoài ra, trước quầy giao dịch của các sở, ngành, trung tâm
đã bố trí 1 bộ TTHC để phục vụ nhu cầu tra cứu, cung cấp thông tin cho
cán bộ, công chức “một cửa” cấp tỉnh, người dân, doanh nghiệp khi đến
thực hiện TTHC.
Theo ghi nhận của chúng tôi, trung tâm đã tham mưu Sở Nội vụ ban
hành văn bản về việc rà soát, cập nhật, công khai TTHC trên Trang
thông tin hành chính công năm 2018 và văn bản thực hiện xây dựng bản
tin, tin bài điện tử nhằm tuyên truyền nội dung về CCHC, hành chính
công của tỉnh đến cơ quan, địa phương trên địa bàn tỉnh. Trong tháng 6-
2018, trung tâm đã ban hành công văn về việc thực hiện quy chế văn
hóa công sở và tình trạng tiếp nhận, giải TTHC tại TTHCC. Cùng với các
nhiệm vụ khác, trung tâm đã góp ý cho Sở Thông tin và Truyền thông
thống nhất và hoàn thiện dự thảo “Đề án thành lập công khai và vận
hành đường dây nóng hỏi đáp trực tuyến trên Cổng thông tin điện tử tỉnh
Bình Dương”.
Tăng cường công tác giám sát
Ông Trương Công Huy, Giám đốc TTHCC cho biết, trong tháng 6-2018,
hệ thống phầm mềm một cửa cấp tỉnh hoạt động tương đối ổn định.
Trung tâm thường xuyên phối hợp với nhân viên kỹ thuật Công ty Hệ
thống thông tin FPT để kịp thời xử lý các lỗi phát sinh trong quá trình sử
dụng phần mềm một cửa, điều chỉnh phân quyền các tài khoản, chỉnh
sửa và tạo mới quy trình TTHC theo yêu cầu của Sở Giáo dục và Đào
tạo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Xây dựng, Sở Tài chính và Chi
cục Quản lý đất đai (Sở Tài nguyên và Môi trường). Tính đến nay, việc
thí điểm sử dụng phần mềm “một cửa” cấp tỉnh tiếp nhận hồ sơ của 74
TTHC trong lĩnh vực thành lập và hoạt động của doanh nghiệp thuộc Sở
Kế hoạch và Đầu tư song song với phần mềm chuyên ngành của bộ.
Trong tháng 7-2018, trung tâm sẽ tiếp tục phối hợp với Sở Kế hoạch và
Đầu tư triển khai tiếp nhận hồ sơ đối với những lĩnh vực còn lại trên
phần mềm “một cửa” cấp tỉnh.
Trong 6 tháng đầu năm 2018, các sở, ban, ngành tại TTHCC đã tiếp
nhận và giải quyết 47.298 hồ sơ, trong đó đã giải quyết đúng hạn 41.766
hồ sơ (tỷ lệ 94,45%); giải quyết quá hạn 2.454 hồ sơ (tỷ lệ 5,55%); chưa
giải quyết trong hạn 2.751 hồ sơ (tỷ lệ 89,38%); chưa giải quyết quá hạn
327 hồ sơ (tỷ lệ 10,62%). Hồ sơ tiếp nhận và giải quyết ngay trong ngày
đối với thủ tục thông báo, đăng ký thực hiện khuyến mại của Sở Công
thương là 2.234 hồ sơ (tỷ lệ 4,72%). Trong 6 tháng qua, các sở, ban,
ngành có tỷ lệ hồ sơ tiếp nhận và đã giải quyết đúng hẹn đạt 100% là Sở
Thông tin và Truyền thông. Một số sở, ngành có số hồ sơ tiếp nhận và
đã giải quyết trễ hẹn nhiều gồm: Sở Y tế có 689 hồ sơ trễ hẹn (chiếm
53,62%); Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có 526 hồ sơ trễ hẹn
(chiếm 14,83%); Sở Tư pháp có 322 hồ sơ trễ hẹn (chiếm 10,08%) và
Sở Xây dựng có 93 hồ sơ trễ hẹn (chiếm 14,55%). Ngoài ra, một số sở,
ban, ngành trong 6 tháng đầu năm có nhiều hồ sơ đã trễ hẹn nhưng vẫn
chưa giải quyết gồm: Sở Tư pháp (94 hồ sơ); Sở Xây dựng (44 hồ sơ);
Sở Y tế (38 hồ sơ); Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (34 hồ sơ);
Sở Công thương (28 hồ sơ) và Ban Quản lý các Khu công nghiệp Bình
Dương (14 hồ sơ).
Theo ông Trương Công Huy, số hồ sơ trễ hẹn như vậy là tương đối lớn,
ảnh hưởng đến quá trình CCHC của tỉnh. Để hạn chế số hồ sơ trễ hẹn
nhiều, hiện tại, trung tâm đã tăng cường công tác giám sát, đôn đốc các
sở, ngành tích cực giải quyết hồ sơ đúng hẹn cho người dân, doanh
nghiệp, góp phần cùng với tỉnh hoàn thành nhiệm vụ về CCHC theo
hướng tích cực, minh bạch, hiện đại. Cùng với nhiệm vụ giám sát, trong
6 tháng cuối năm 2018, trung tâm sẽ tham mưu trình UBND tỉnh ban
hành Chỉ số CCHC của các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị, thành
phố và UBND các xã, phường, thị trấn; tham mưu trình UBND tỉnh ban
hành kế hoạch đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự
phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Cùng với đó là xây dựng và
ban hành kế hoạch kiểm tra, khảo sát CCHC năm 2018 đối với một số
cơ quan, địa phương trên địa bàn tỉnh; phối hợp triển khai thu phí, lệ phí
dịch vụ công trực tuyến qua Ngân hàng Vietinbank và thực hiện tiếp
nhận hồ sơ qua Bưu chính giai đoạn 2.
Theo baobinhduong.vn
9. Giúp người dân làm thủ tục hành chính Nhiều người dân trên địa bàn TP Hà Nội đã có thể tiếp cận với các
thiết bị công nghệ hoặc hoàn thiện các bước thực hiện thủ tục
hành chính dễ dàng, nhanh chóng. Đó là kết quả từ nỗ lực giúp dân
làm thủ tục, góp phần nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành
chính của nhiều cơ quan, đơn vị.
Đến bộ phận “một cửa” của UBND phường Phúc Xá (quận Ba Đình),
người dân dễ dàng thấy những tờ hướng dẫn đăng ký: Cấp giấy xác
nhận tình trạng hôn nhân; đăng ký kết hôn; đăng ký khai sinh trực
tuyến… Tương tự, tại bộ phận “một cửa” UBND xã Vĩnh Quỳnh (huyện
Thanh Trì) lúc nào cũng có sẵn rất nhiều tờ hướng dẫn cách sử dụng
dịch vụ công trực tuyến mức độ 3. Đây cũng là hình thức được hầu hết
bộ phận “một cửa” của UBND các phường, xã, thị trấn áp dụng, giúp
người dân tìm hiểu cách thức thực hiện thủ tục hành chính.
Đặc biệt, nhiều đơn vị đã huy động lực lượng thanh niên trực tiếp hướng
dẫn người dân tiếp cận việc nộp hồ sơ qua mạng. Tiêu biểu như quận
Hà Đông bố trí 34 điểm hỗ trợ dịch vụ công trực tuyến tại 17 phường do
lực lượng thanh niên phụ trách. Hay như quận Hoàng Mai, ngoài việc
phân công các đoàn viên thanh niên trực tại bộ phận “một cửa”, còn
thường xuyên tổ chức các buổi hướng dẫn người dân thực hiện thủ tục
hành chính trực tuyến. Ông Lê Minh Huy (76 tuổi, ở chung cư HH Linh
Đàm, phường Hoàng Liệt) đã nộp xong hồ sơ đăng ký khai sinh cho
cháu chia sẻ: “Lúc đầu tôi nghĩ mình không thể làm được, sau khi được
các cháu thanh niên hướng dẫn thì thấy cũng không phức tạp như mình
tưởng, chỉ cần nhập đúng, đủ thông tin”. Phó Bí thư Quận đoàn Hoàng
Mai Nguyễn Quỳnh Trang cho biết: “Thời gian qua, tuổi trẻ quận Hoàng
Mai đã hoàn thành các công trình, phần việc thanh niên thuộc nhiều lĩnh
vực, trong đó có công tác cải cách hành chính. Thông qua các buổi đoàn
viên thanh niên hướng dẫn trực tiếp, nhiều bác cao tuổi đã có thể tự
thao tác trên máy tính để nộp hồ sơ qua mạng”.
Cùng với việc tích cực hướng dẫn, các đơn vị còn quan tâm làm tốt công
tác truyền thông, nâng cao sự hiểu biết của người dân về các quy định
hành chính. Các phường thuộc quận Long Biên đã thực hiện tốt việc
niêm yết, công khai thủ tục hành chính cấp phường, quy trình nội bộ
thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND phường theo từng lĩnh vực.
Ngoài ra, UBND các phường còn đẩy mạnh tuyên truyền bằng nhiều
hình thức phong phú như phường Ngọc Lâm duy trì đăng tải thông tin
trên trang thông tin điện tử của phường về các nội dung cải cách hành
chính, qua đó, 6 tháng đầu năm 2018 đã có 74 trường hợp người dân đề
nghị được nhận kết quả đăng ký khai sinh tại nhà… Phó Chủ tịch UBND
phường Sài Đồng (quận Long Biên) Hồ Việt Phúc cho biết: “Trong kế
hoạch cải cách hành chính hằng năm của UBND phường đều có nội
dung tăng cường phổ biến, tuyên truyền công tác cải cách hành chính
tới người dân, bởi chỉ khi làm tốt điều này thì người dân mới thấy việc
thực hiện thủ tục hành chính không khó, đồng thời, họ sẽ giám sát được
cách giải quyết hồ sơ, giúp chính quyền đánh giá chính xác việc thực thi
công vụ của cán bộ, công chức”.
Từ nay đến cuối năm 2018, TP Hà Nội sẽ tổ chức tập huấn, tuyên truyền
về Nghị định 61/2018/NĐ-CP ngày 23-4-2018 của Chính phủ về thực
hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế “một cửa” liên thông trong giải quyết thủ
tục hành chính. Thời điểm này, các đơn vị đã chuẩn bị xây dựng kế
hoạch tuyên truyền, trong đó, tập trung vào các nội dung mới để người
dân nắm được đầy đủ, chính xác. Đó chính là cách thức giúp người dân
thuận tiện trong việc tiếp cận, thực hiện thủ tục hành chính và chủ
trương cải cách của các cơ quan hành chính nhà nước TP Hà Nội được
thực thi hiệu quả.
Theo hanoimoi.com.vn
10. Bắc Ninh đưa ứng dụng Zalo vào cải cách hành chính UBND tỉnh Bắc Ninh vừa tổ chức khai trương ứng dụng Zalo trong
cải cách hành chính.
Bắc Ninh vừa khai trương Chính quyền điện tử tỉnh Bắc Ninh trên ứng
dụng Zalo. Ảnh: Bùi Tư
Thông tin của UBND tỉnh Bắc Ninh cho biết, Zalo là một ứng dụng cung
cấp miễn phí cho người dùng trên điện thoại thông minh và máy tính,
đang có những tính năng đa dạng, nguồn thông tin phong phú, nhiều
người sử dụng.
Hiện nay, Zalo đã được Bộ Y tế và một số tỉnh, thành phố như Đà Nẵng,
Đồng Nai,… ứng dụng trong hoạt động của cơ quan nhà nước, cũng
như trong các hoạt động tương tác với người dân và nhận được nhiều
phản hồi tích cực.
Qua tham khảo mô hình triển khai ứng dụng Zalo tại các cơ quan, Sở
Thông tin và Truyền thông đã nghiên cứu, phối hợp với các đơn vị liên
quan chuẩn bị về kỹ thuật để có thể ứng dụng Zalo trong cải cách hành
chính ở tỉnh Bắc Ninh.
Đến nay, việc chuẩn bị kết nối về mặt kỹ thuật đã được Sở Thông tin và
Truyền thông phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn tất để đưa vào sử
dụng với tên gọi Chính quyền điện tử tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong
những bước đi đột phá của tỉnh Bắc Ninh, nhằm góp phần công khai,
minh bạch thủ tục hành chính.
Chính quyền điện tử tỉnh Bắc Ninh trên ứng dụng Zalo gồm hai kênh.
Trong đó, kênh thứ nhất là giao tiếp trực tiếp giữa chính quyền tỉnh Bắc
Ninh với người dân, có tính năng thông báo kết quả giải quyết thủ tục
hành chính; nhắc nhở các cơ quan trả lời phản ánh kiến nghị của người
dân và thông báo kết quả trả lời ý kiến phản ánh; thông tin tới người dân
các cơ sở có cam kết đủ điều kiện an toàn thực phẩm, tiếp nhận phản
ánh của người dân về các vấn đề mất an toàn thực phẩm trên địa bàn
tỉnh.
Kênh thứ hai là thông tin chỉ đạo điều hành nội bộ tỉnh Bắc Ninh có tính
năng thông báo cho cán bộ, công chức, viên chức khi có văn bản đến,
văn bản chờ phê duyệt, lịch họp./.
Theo thoibaotaichinhvietnam.vn
11. Cấp phép và kiểm soát Cuộc triển lãm nội tạng và cơ thể người ở TP.HCM gây tranh cãi
cuối cùng cũng có được một “điểm dừng”, dù là bắt đắc dĩ.
Là dừng vì lỗi “không trung thực trong hồ sơ xin cấp phép trưng bày”.
Xin phép triển lãm 10 tháng (từ 1.11.2017 - 1.9.2018) nhưng đơn vị tổ
chức lại toan tính kéo dài đến tháng 12.2018. Cái đó có thể giải thích
được, vì bắt đầu muộn so với giấy phép, nhưng chuyện xin triển lãm với
vật trưng bày mô hình cấu trúc cơ thể người bằng chất liệu nhựa, nhưng
thực tế lại là trưng bày xác người được nhựa hóa là lập lờ đáng nói.
Vi phạm cả luật, cả đạo đức khi trưng bày nội tạng và cơ thể
ngườiNhững hoạt động nằm trong danh mục phải phê duyệt cấp phép
tức là đã nằm trong danh mục những điều cần được kiểm soát trước để
đảm bảo tính hợp pháp và hữu ích đối với đời sống xã hội. Cơ quan
chức năng được giao trách nhiệm phê duyệt cấp phép phải hiểu rằng,
mình là “người gác cửa” cuối cùng của cộng đồng đối với những hoạt
động có thể hay không thể gây ra tác động tiêu cực hay tác hại với cộng
đồng. Trong trường hợp đó, giá trị “phê duyệt cấp phép” trở thành một
dịch vụ chính phủ cần thiết đối với các chủ thể xin cấp phép nhưng đồng
thời cũng là một thứ hành động thể hiện trách nhiệm với cộng đồng, với
người dân.
Vậy nên, nếu chỉ đơn giản dựa vào mấy thứ giấy tờ thủ tục hình thức mà
bỏ qua việc kiểm soát chặt chẽ các yếu tố quan trọng của hoạt động
đang được xin phép thì việc phê duyệt cấp phép sẽ trở nên hoàn toàn
hình thức và dễ bị “qua mặt”. Chưa kể, kết hợp thêm những nguy cơ về
tham nhũng vặt, thì những cú “qua mặt” bằng giấy tờ đầy đủ sẽ dẫn đến
thực tế cơ quan chức trách thật ra chẳng kiểm soát được gì cả. Giấy
phép lúc đó cũng coi như chỉ là một thứ màn diễn xiếc về thủ tục hành
chính mà thôi. Cấp phép một triển lãm nhạy cảm như triển lãm cấu trúc
cơ thể người mà chưa hề chạm tay vào cấu trúc vật thể sẽ trưng bày thì
quả là thiếu sót nghiêm trọng.
Rồi giả sử cứ cho là đơn vị tổ chức tìm cách qua mặt cơ quan cấp phép
ở thời điểm làm thủ tục xin phép đi chăng nữa, thì chí ít cơ chế giám sát
cũng sẽ bù lại lỗ hổng quản lý ban đầu. Chí ít cũng là cơ quan chức
năng cử người giám sát kiểm tra ngay từ những ngày đầu để xác nhận
“sự trung thực” của đơn vị tổ chức.
Chứ không thể là, đợi đến khi người dân và báo chí lên tiếng chỉ trích
gay gắt thì mới vào cuộc kiểm tra và tuyên bố đơn vị tổ chức “không
trung thực”.
Bao nhiêu lần phạm lỗi “không trung thực” trên thủ tục giấy tờ kiểu như
thế thì sẽ dẫn chúng ta đến chuyện phạm tội với cộng đồng, phạm tội với
con người?
Câu trả lời chắc chắn chỉ có thể tìm được trong ý thức đầy đủ về trách
nhiệm của cơ quan chức năng, của những người đang làm việc trong
các cơ quan có thẩm quyền.
Theo thanhnien.vn
12. Làm CMND miễn phí cho bà con dân tộc thiểu số
Mở đầu các hoạt động trong chiến dịch thanh niên tình nguyện hè năm 2018, sáng ngày 7/7/2018, Đoàn thanh niên Công an tỉnh Nghệ An đã đến xã Lục Dạ, huyện Con Cuông (Nghệ An) để làm CMND miễn phí cho bà con.
Hướng dẫn bà con ghi thông tin vào tờ khai CMND
Xã Lục Dạ, huyện Con Cuông là một xã miền núi nghèo phía Tây của
tỉnh Nghệ An. Tại đây, hơn 8 nghìn nhân khẩu là đồng bào các dân tộc
thiểu số sinh sống chiếm 80%, đời sống của bà con nơi đây còn gặp rất
nhiều khó khăn. Xuất phát từ yêu cầu chính đáng của bà con, đoàn
thanh niên Công an tỉnh đã tổ chức hơn 10 cán bộ chiến sỹ bao gồm các
đoàn viên thanh niên các phòng: Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH,
Tổ chức cán bộ, Quản lý xuất nhập cảnh, Công tác đảng và công tác
quần chúng của Công an tỉnh phối hợp với Huyện đoàn Con Cuông và
Đoàn trường Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật Nghệ An đã trực tiếp đến
UBND xã Lục Dạ để làm CMND miễn phí cho bà con nơi đây. Tại đây,
bà con sẽ được các đoàn viên thanh niên hướng dẫn, giới thiệu thủ tục
ban đầu để làm CMND; đối với những người già mắt kém thì các đoàn
viên thanh niên sẽ hỗ trợ để ghi đầy đủ thông tin vào các tờ khai.
Thượng úy Nguyễn Đình Khánh – Bí thư Đoàn thanh niên Công an tỉnh
cho biết: Đợt cấp đổi, cấp mới CMND đợt này hướng đến các gia đình
khó khăn, nhất là các gia đình người dân tộc thiểu số, vì điều kiện sức
khoẻ, kinh tế không thể đến trực tiếp Công an huyện để làm CMND. Đây
là một hoạt động rất ý nghĩa, góp phần chia sẻ những khó khăn vất vả
của bà con nhân dân, thể hiện tinh thần xung kích của tuổi trẻ đoàn viên
thanh niên nói chung và của đoàn viên thanh niên Công an Nghệ An nói
riêng.
Cụ Lô Thị Nhon trú tại bản Mọi, xã Lục Dạ tâm sự: Năm nay cụ đã gần
80 tuổi, đi lại rất khó khăn, hôm nay nhờ đứa cháu chở đến Uỷ ban xã
để làm CMND, cụ rất vui mừng và cảm ơn các chú thanh niên Công an
của tỉnh cũng như của huyện đã làm nhanh CMND cho cụ.
Lăn tay cho 1 cụ già đến làm CMND
Với tinh thần, trách nhiệm cao trong công việc, chỉ trong buổi sáng, Đoàn
thanh niên tình nguyện đã làm xong gần 200 CMND cho bà con người
dân xã Lục Dạ. Chia sẻ thêm về điều này, Đại úy Phan Thuỳ Dung –
Cán bộ phòng Quản lý hành chính về trật tự xã hội cho biết: mặc dù thời
tiết rất nắng nóng và trùng vào ngày nghỉ cuối tuần, nhưng bản thân và
các đồng chí trong đoàn công tác đều vượt qua mọi khó khăn để làm
CMND miễn phí cho bà con, hy vọng việc làm CMND cho bà con vùng
sâu, vùng xa sẽ được nhân rộng trong thời gian tới.
Chụp ảnh để hoàn thành thủ tục cuối cùng cho bà con
Việc làm này của Đoàn thanh niên Công an tỉnh đã nhận được sự ghi
nhận, biết ơn của quần chúng nhân dân, đặc biệt là cấp uỷ, chính quyền
UBND huyện Con Cuông.
Theo congannghean.vn